Kiến thức về một số yếu tố tác hại nghề nghiệp của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên năm 2020

Mục tiêu: Khảo sát kiến thức của điều dưỡng về một số yếu tố tác hại nghề nghiệp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế cắt ngang mô tả trên 283 điều dưỡng của bệnh viện. Bộ công cụ nghiên cứu được xây dựng dựa trên các hướng dẫn về sức khỏe nghề nghiệp trong ngành y tế. Sử dụng phương pháp chuyên gia để đánh giá tính gia trị và phương pháp test và retest để đánh giá độ tin cậy của thang đo. Các điều dưỡng được phát phiếu tự điền các thông tin liên quan đến nội dung nghiên cứu. Kết quả: Điều dưỡng có kiến thức đạt về yếu tố tác hại nghề nghiệp còn thấp chỉ có 74,9%, chủ yếu đạt mức trung bình chiếm 68,5% và tốt chỉ có 6,4%, trong đó 66,4% diều dưỡng có kiến thức đạt về yếu tố hóa học và 69,6% điều dưỡng có kiến thức đạt về yếu tố sinh học. Kết luận: Nhìn chung kiến thức điều dưỡng về yếu tố tác hại nghề nghiệp còn thấp mức kiến thức đạt trở lên chỉ đạt 74,9%, trong đó điều dưỡng có kiến thức đạt trung bình chỉ chiếm 68,5% và tốt có 6,4%. Đặt ra thách thức cho các nhà quản lý bệnh viện cần thiết có kế hoạch lấp đầy những khoảng trống kiến thức đó cho đối tượng điều dưỡng nhằm đảm bảo an toàn trong lúc làm việc

pdf 8 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức về một số yếu tố tác hại nghề nghiệp của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức về một số yếu tố tác hại nghề nghiệp của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên năm 2020

Kiến thức về một số yếu tố tác hại nghề nghiệp của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên năm 2020
129
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
KIẾN THỨC VỀ MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC HẠI NGHỀ NGHIỆP 
CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH PHÚ YÊN NĂM 2020
Võ Thị Tiến Trinh1b, Đỗ Minh Sinh2, Phạm Thu Dịu2b,
Nguyễn Thị Tố Nga1b, Nguyễn Thị Mai Hương3b
1Trường Cao đẳng Y tế Phú Yên,
2Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định,
3Trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ
Người chịu trách nhiệm: Võ Thị Tiến Trinh
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 28/7/2020
Ngày duyệt bài: 09/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức của điều 
dưỡng về một số yếu tố tác hại nghề nghiệp 
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên năm 
2020. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: Thiết kế cắt ngang mô tả trên 283 điều 
dưỡng của bệnh viện. Bộ công cụ nghiên 
cứu được xây dựng dựa trên các hướng 
dẫn về sức khỏe nghề nghiệp trong ngành 
y tế. Sử dụng phương pháp chuyên gia để 
đánh giá tính gia trị và phương pháp test và 
retest để đánh giá độ tin cậy của thang đo. 
Các điều dưỡng được phát phiếu tự điền 
các thông tin liên quan đến nội dung nghiên 
cứu. Kết quả: Điều dưỡng có kiến thức 
đạt về yếu tố tác hại nghề nghiệp còn thấp 
chỉ có 74,9%, chủ yếu đạt mức trung bình 
chiếm 68,5% và tốt chỉ có 6,4%, trong đó 
66,4% diều dưỡng có kiến thức đạt về yếu 
tố hóa học và 69,6% điều dưỡng có kiến 
thức đạt về yếu tố sinh học. Kết luận: Nhìn 
chung kiến thức điều dưỡng về yếu tố tác 
hại nghề nghiệp còn thấp mức kiến thức đạt 
trở lên chỉ đạt 74,9%, trong đó điều dưỡng 
có kiến thức đạt trung bình chỉ chiếm 68,5% 
và tốt có 6,4%. Đặt ra thách thức cho các 
nhà quản lý bệnh viện cần thiết có kế hoạch 
lấp đầy những khoảng trống kiến thức đó 
cho đối tượng điều dưỡng nhằm đảm bảo 
an toàn trong lúc làm việc. 
Từ khóa: Tác hại nghề nghiệp, yếu tố 
sinh học, yếu tố hóa học, điều dưỡng.
KNOWLEDGE REGARDING OCCUPATIONAL HEALTH HAZARDS
AMONG NURSES IN PHU YEN GENERAL HOSPITAL
ABSTRACT
Objective: Survey of nursing knowledge 
about some occupational hazardous 
factors at Phu Yen General Hospital in 
2020. Method: Cross-sectional design 
described on 283 hospital nurses. The 
research toolkit is based on guidelines on 
occupational health in the health sector. 
Use the expert method to evaluate the 
validity and the test and retest methods to 
evaluate the reliability of the scale. Nurses 
are provided with a card to fill out information 
related to the content of the study. Results: 
Nursing knowledge about occupational 
harm factors is low, only 74,9%, mainly at 
average, accounting for 68.5% and good at 
only 6.4%, of which 66,4% are nursing have 
knowledge of chemical factors and 69,6% 
of nurses have knowledge of biological 
factors. Conclusion: In general, nursing 
knowledge about occupational harm 
factors is still very low, with knowledge 
reaching 74,9% or higher, of which nursing 
130
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
knowledge is only 68,5% and good at 6.4%. 
It poses a challenge for hospital managers 
who need to plan to fill those knowledge 
gaps for nursing subjects to ensure safety 
while working.
Keywords: Occupational hazardous, 
biological factors, chemical factors, nursing
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Yếu tố tác hại nghề nghiệp (THNN) là 
nguyên nhân tiềm ẩn làm hạn chế khả năng 
làm việc, gây nên những rối loạn bệnh lý, 
bệnh nghề nghiệp, chấn thương, ảnh hưởng 
không có lợi đến sức khỏe người lao động 
thậm chí gây tử vong [1]. Trong quá trình 
chăm sóc người bệnh, điều dưỡng phải đối 
diện không chỉ một mà nhiều yếu tố tác hại 
nghề nghiệp cùng lúc. Nó bao gồm yếu tố 
sinh học (dịch từ cơ thể người bệnh, nấm, 
vi khuẩn, virus, các bệnh truyền nhiễm 
lây lan qua đường máu, hô hấp.), yếu 
tố vật lý ( bức xạ, tia X..), yếu tố hóa học 
(các hóa chất gây nguy hiểm, thuốc điều 
trị ung thư, hóa chất tiệt khuẩn.), cơ học 
(chấn thương do vật sắc nhọn, nâng đỡ, 
vận chuyên bệnh nhân..), quá tải công việc, 
căng thẳng, làm việc ca đêm và bạo lực tại 
nơi làm việc [2], [3].
Theo Trung tâm Phòng ngừa và kiểm 
soát bệnh tật Hoa Kỳ (CDC), nhân viên y tế 
có thể bị ị lây nhiễm hơn 20 mầm bệnh lây 
truyền qua đường máu, đây là kết quả của 
việc phơi nhiễm với các yếu tố tác hại nghề 
nghiệp sinh học [4]. Một báo cáo tại Hoa 
Kỳ cho thấy, tỷ lệ thương tật và bệnh nghề 
nghiệp của nhân viên y tế là 7,6/100 lao 
động [5]. Trong đó điều dưỡng là một trong 
những nghề nguy hiểm, rủi ro cao gấp 4 
lần so với những ngành nghề khác, 95% 
họ phải đối mặt với các yếu tố tác hại nghề 
nghiệp [6, 7]. 
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, mô hình hợp 
lý về tăng cường sức khỏe tin rằng kiến 
thức cao, sẽ chuyển sang thái độ tích cực 
và sau đó là hành vi tốt. Một nghiên cứu 
đã so sánh sự phân phối của người trả lời 
theo hiệu suất về kiến thức tổng hợp, thái 
độ và thực hành, điều dưỡng có kiến thức, 
thái độ và thực hành tốt làm giảm thiểu rủi 
ro nghề nghiệp trong cơ sở y tế [8]. Điều 
này có nghĩa nếu một người có kiến thức 
tốt đối với một vấn đề sức khỏe cụ thể thì 
có thể dự đoán rằng họ sẽ thực hiện tốt các 
biện pháp dự phòng. Do vậy việc nghiên 
cứu kiến thức của điều dưỡng về các yếu 
tố tác hại nghề nghiệp có thể giúp dự báo 
được thái độ cũng như các hành vi của họ 
để từ đó xây dựng được các chiến lược dự 
phòng phù hợp.
Tại Việt Nam việc nghiên cứu kiến thức 
của điều dưỡng về các yếu tố tác hại nghề 
nghiệp vẫn còn thiếu hụt. Một số nghiên 
cứu hiện có mới chỉ mô tả một số nội dung 
rất đơn giản của yếu tố tác hại nghề nghiệp 
dưới dạng kiến thức về tiêm an toàn, kiến 
thức về dự phòng vật sắc nhọn, kiến thức 
dự phòng phơi nhiễm nghề nghiệp, kiến 
thức về phòng ngừa chuẩn [6, 7, 8, 9]. Do 
vậy mục tiêu của nghiên cứu này là mô tả 
kiến thức của điều dưỡng về một số yếu tố 
tác hại nghề nghiệp. Trong đó tập trung vào 
hai nhóm yếu tố là sinh học và hóa học. Vì 
đây là hai nhóm yếu tố tác hại nghề nghiệp 
mà người điều dưỡng phơi nhiễm nhiều 
nhất, đồng thời các tác nhân trong hai nhóm 
yếu tố này thường gây ra nhiều vấn đề sức 
khỏe cho điều dưỡng. Nên chúng tôi đã tiến 
hành nghiên cứu với mục tiêu mô tả thực 
trạng kiến thức về một số yếu tác hại nghề 
nghiệp của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa 
khoa tỉnh Phú Yên năm 2020.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các điều dưỡng 
đang thực hiện hoạt động chăm sóc người 
bệnh, có mặt tại thời điểm nghiên cứu và 
đồng ý tham gia nghiên cứu. 
2.2. Thiết kế nghiên cứu và thời gian, 
địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực 
hiện từ tháng 12/2019-6/2020 tại Bệnh viện 
Đa khoa tỉnh Phú Yên.
131
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
2.3. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Tất cả các điều dưỡng của bệnh viện đều 
được gửi thư mời tham gia nghiên cứu và 
được tiếp cận với các thông tin cơ bản như 
thiết kế, mục đích và ý nghĩa của nghiên 
cứu cũng như quyền lợi của họ khi tham 
gia. Sự ẩn danh của những người tham 
gia được duy trì trong suốt nghiên cứu. Họ 
được gửi văn bản chấp thuận đồng ý trước 
khi đăng ký vào nghiên cứu. Tổng số đã có 
283/294 (không tính 30 điều dưỡng tham 
gia thử nghiệm công cụ) điều dưỡng đồng 
ý tham gia nghiên cứu (chiếm tỷ lệ 96,3%)
2.4. Công cụ nghiên cứu và phương 
pháp thu thập thông tin
Bộ công cụ nghiên cứu được xây dựng 
dựa trên tài liệu “Sức khỏe nghề nghiệp” 
của Trường Đại học Y Hà Nội [1], tài liệu 
“Occupational health - A mannual for 
primary health care workers” của Tổ chức 
Y tế thế giới [10] và tài liệu Phòng chống 
bệnh nghề nghiệp trong nhân viên y tế của 
Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường 
[2]. Các nội dung cơ bản của bộ công cụ 
bao gồm: khái niệm, phân loại, nguy cơ 
phơi nhiễm, hậu quả, biện pháp dự phòng 
yếu tố THNN sinh học và hóa học, các bệnh 
nghề nghiệp liên quan đến yếu tố THNN 
sinh học và hóa học được bảo hiểm ở Việt 
Nam. Các câu hỏi được thiết kế dưới dạng 
nhiều lựa chọn, mỗi câu hỏi bao gồm đáp 
án đúng và sai. Sử dụng phương pháp từ 
điền để thu thập các thông tin liên quan.
Sử dụng phương pháp chuyên gia để 
kiểm định tính giá trị/độ đặc hiệu của bộ 
công cụ. Hai chuyên gia mảng Y tế dự 
phòng và một chuyên gia Y tế công cộng 
đã được mời tham gia đánh giá. Bộ công cụ 
(kèm tài liệu làm căn cứ xây dựng bộ công 
cụ) được chuyển đến các chuyên gia để xin 
ý kiến, ý kiến được các chuyên gia đánh giá 
và cho ý kiến ngay trên bộ công cụ. Sau đó, 
bộ công cụ được chỉnh sửa phù hợp theo ý 
kiến của chuyên gia. 
Bộ công cụ nghiên cứu được kiểm tra 
độ tin cậy bằng phương pháp test và retest 
trên 30 đối tượng (không tham gia nghiên 
cứu chính thức), thời gian test cách nhau 
hai tuần. Kết quả kiểm định cho thấy thang 
đo kiến thức có độ tin cậy rất cao với hệ 
số tương quan giữa hai lần kiểm tra trên 
cùng một đối tượng là 0,70-mức chấp nhận 
được.
2.5. Tiêu chí đánh giá 
Kiến thức về yếu tố THNN được phân 
loại bằng cách sử dụng hệ thống tính điểm, 
điểm số của một người cho một câu trả lời 
đúng là “1” và không “0” cho một câu trả 
lời không chính xác hoặc không biết. Hệ 
thống tính điểm này đã được tham khảo từ 
các nghiên cứu có liên quan rất gần với nội 
dung của nghiên cứu này [9, 11, 12]. Công 
cụ đo lường kiến thức gồm 11 câu, mỗi ý trả 
lời đúng tương ứng 1 điểm. Tổng điểm cao 
nhất cho phần kiến thức là 29 điểm. Kiến 
thức của các đối tượng được chia thành 2 
mức: chưa đạt, nếu tổng số điểm < 50%; 
đạt nếu tổng số điểm ≥ 50% (trong đó điểm 
đạt từ 50%-75%= mức trung bình; tổng số 
điểm >75% = mức tốt).
 Sau khi thu thập, các phiếu điều tra 
được làm sạch và nhập vào máy tính bằng 
phần mềm Epidata 3.1. Sau đó số liệu 
được phân tích và xử lý bằng phần mềm 
SPSS 20.0. Sử dụng các thống kê mô tả 
đơn thuần như bảng tần số và tỷ lệ phần 
trăm để mô tả các biến số liên quan.
3. KẾT QUẢ 
3.1. Một số đặc điểm chung của đối 
tượng nghiên cứu
Tổng số có 283 đối tượng tham gia 
nghiên cứu, trong đó 87,3% là nữ giới. Có 
tới 84,8% đối tượng có tuổi đời từ 18-39 
tuổi, trong đó 52,7% từ 18-29 tuổi. Trên ½ 
đối tượng mới chỉ có thâm niên công tác ≤ 
5 năm (52,7%), tỷ lệ có thâm niên > 20 năm 
chỉ có 8,8%. Tỷ lệ đối tượng có trình độ đại 
học chỉ chiếm 19,4%; cao đẳng 34,6% còn 
lại là trung cấp chiếm tới 45,9%. Đa số đối 
tượng đã được tham gia ít nhất 01 lớp đào 
tạo về phòng ngừa chuẩn (98,2%).
132
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3.2. Kiến thức điều dưỡng về yếu tố tác hại nghề nghiệp 
Bảng 1. Kiến thức của điều dưỡng về các loại yếu tố THNN (n=283)
Các yếu tố tác hại nghề nghiệp
Điều dưỡng
 trả lời đúng
SL TL %
Yếu tố
hóa học
Thuốc chống ung thư, thủy ngân, dược phẩm 126 44,5
Chai, lọ thuốc, dụng cụ dính thuốc gây độc tế bào 230 81,3
Chất thải từ người bệnh hóa trị 145 51,2
Yếu tố
sinh học
Chất thải từ phòng bệnh cách ly 171 60,4
Dịch cơ thể người bệnh nhiễm vi khuẩn, nấm 220 77,7
Máu bị nhiễm virus viêm gan B, C, HIV 232 82,0
Phần lớn điều dưỡng biết đến yếu tố THNN về hóa học: là từ chai, lọ thuốc, dụng cụ 
dính thuốc gây độc tế bào và chất thải từ người bệnh hóa trị lần lượt là 81,3% và 51,2%. 
Yếu tố THNN về sinh học từ: Máu bị nhiễm virus viêm gan B,C, HIV; dịch cơ thể người 
bệnh nhiễm vi khuẩn, nấm, kí sinh trùng lần lượt là 82,0% và 77,7%.
Bảng 2. Kiến thức của điều dưỡng về hậu quả do phơi nhiễm 
với yếu tố THNN (n=283)
Hậu quả do phơi nhiễm với yếu tố THNN
Điều dưỡng 
trả lời đúng
SL TL %
Yếu tố hóa học
Tổn thương da 126 44,5
Tổn thương mắt 230 81,3
Viêm phế quản 145 51,2
Yếu tố sinh học
Bị nhiễm virus viêm gan B, C, HIV 240 84,8
Mắc bệnh lao phổi 177 62,5
Hội chứng hô hấp cấp tính 54 19,1
Có 81,3% điều dưỡng biết tổn thương mắt là hậu quả do yếu tố hóa học gây ra và 
84,8% bị nhiễm virus viêm gan B, C, HIV do yếu tố sinh học.
Bảng 3. Kiến thức của điều dưỡng về vị trí việc làm có nguy cơ 
bị phơi nhiễm với yếu tố THNN (n=283).
Vị trí làm việc có nguy cơ phơi nhiễm
Điều dưỡng trả 
lời đúng
SL TL %
Yếu tố hóa học
Khoa Ung bướu 138 48,8
Khoa xét nghiệm, giải phẫu bệnh 206 72,8
Khoa xạ trị 124 43,8
Yếu tố sinh học
Khoa thuộc hệ ngoại 102 36,0
Khoa truyền nhiễm 228 80,6
Khoa lao 142 50,2
Vị trí làm việc của điều dưỡng dễ bị phơi nhiễm với yếu tố hóa học 48,8% khoa ung 
bướu và 72,8% khoa xét nghiệm, giải phẫu bệnh. Yếu tố sinh học là 80,6 là khoa truyền 
nhiễm.
133
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 4. Kiến thức của điều dưỡng về các bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm 
do phơi nhiễm với một số yếu tố THNN (n=283)
Bệnh nghề nghiệp do phơi nhiễm với một số YTTHNN
Điều dưỡng trả 
lời đúng
SL TL %
Yếu tố hóa học
Hen nghề nghiệp 152 53,7
Viêm phế quản mãn tính 52 18,4
Yếu tố sinh học
Lao nghề nghiệp 85 30,0
Viêm gan virus B, C nghề nghiệp 197 69,6
HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp 250 88,3
Phần lớn điều dưỡng biết các BNN do yếu tố sinh học gây ra 69,6% Viêm gan virus B, 
C nghề nghiệp và 88,3% và HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp. Chưa biết nhiều đến BNN 
do yếu tố hóa học gây ra.
Bảng 5. Kiến thức của điều dưỡng về các các biện pháp dự phòng 
 với một số yếu tố THNN (n=283)
Biện pháp dự phòng với một số yếu tố THNN
Điều dưỡng trả 
lời đúng
SL TL %
Yếu tố 
hóa học
Sử dụng phương tiện phòng hộ khi tiếp xúc hóa chất 240 84,8
Tập huấn về nhận biết và cách sử dụng hóa chất 190 67,1
Yếu tố 
sinh học
Tuân thủ nguyên tắc vô khuẩn 127 44,9
Xử lý chất thải đúng quy định 148 52,3
Chủ động tiêm phòng Vaccin phòng bệnh, 200 70,7
Điều dưỡng biết nhiều đến biện pháp dự phòng các yếu tố THNN hóa học là: sử dụng 
phương tiện phòng hộ khi tiếp xúc hóa chất và tập huấn về nhận biết, cách sử dụng hóa 
chất, vơi tỷ lệ lần lượt 84,8% và 67,1%. Có 70,7% điều dưỡng cho rằng chủ động tiêm 
phòng Vaccin phòng bệnh dự phòng phơi nhiễm với tác hại sinh học. 
Bảng 6. Phân loại kiến thức của điều dưỡng về một số yếu tố 
tác hại nghề nghiệp (n=283)
Yếu tố tác hại
Không Đạt Đạt
Kém (%) Trung bình (%) Tốt (%)
Yếu tố hóa học 33,6 49,1 17,3
Yếu tố sinh học 30,4 51,9 17,7
Kiến thức chung 25,1 68,5 6,4
Kiến thức của điều dưỡng về các yếu tố THNN còn thấp. Có 66,4% diều dưỡng có kiến 
thức đạt về yếu tố hóa học, trong đó có 49,1% đạt mức trung bình và tốt chỉ chiếm 17,3%. 
Có 69,6% điều dưỡng có kiến thức đạt về yếu tố sinh học, trong đó 51,9% đạt mức trung 
bình và tốt chỉ có 17,7%. Đều dưỡng có kiến thức đạt về yếu tố THNN còn thấp chỉ có 
74,9%, chủ yếu đạt mức trung bình chiếm 68,5% và tốt chỉ có 6,4%.
4. BÀN LUẬN
Điều dưỡng là đội ngũ chính chăm sóc cho người bệnh, cũng là đối tượng có nguy cơ 
cao bị lây nhiễm các bệnh truyền nhiễm và có thể mắc các bệnh nghề nghiệp. Vì vậy điều 
dưỡng cần có kiến thức tốt về một số yếu tố tác hại nghề nghiệp để có những biện pháp dự 
134
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
phòng hiệu quả. Nhưng trong nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy kiến thức của điều dưỡng 
còn thấp và chưa đầy đủ. Hầu hết kiến thức 
của điều dưỡng về các phân loại yếu tố tác 
hại, hậu quả, vị trí việc làm dễ bị phơi nhiễm, 
các bệnh nghề nghiệp dễ mắc phải hay 
những biện pháp dự phòng, điều dưỡng chỉ 
biết được một hai ý mà không nắm hết được 
đầy đủ hết những nội dung này. 
Kiến thức điều dưỡng về các loại yếu tố 
tác hại nghề nghiệp: Đa phần điều dưỡng 
chỉ biết yếu tố gây hại hóa học chủ yếu từ: 
chai, lọ thuốc, dụng cụ dính thuốc gây độc 
tế bào, mà lại ít biết đến hai tác nhân còn 
lại : thuốc chống ung thư, thủy ngân, dược 
phẩm và chất thải từ người bệnh hóa trị, 
ngược lại điều dưỡng hầu như đều biết đến 
đến các yếu tố sinh học. Đều này có thể 
lý giải, do đặc thù từng khoa và mặt bệnh 
khác nhau nên mức độ tiếp xúc vơi yếu tố 
THNN là khác nhau. Điều dưỡng làm ở 
những khoa lâm sàng trực tiếp chăm sóc 
người bệnh thường xuyên tiếp xúc máu, 
dịch tiết từ cơ thể người họ sẽ biết được 
nhiều về yếu tố tác hại sinh học. Nhưng 
đối với điều dưỡng làm ở những khoa ung 
bướu, thận nhân tạo, gây mê hồi sưc thì 
chắc chắn kiến thức về tác hại hóa học tốt 
hơn so với những khoa khác vì họ tiếp xúc 
thường xuyên với hóa chất cũng như được 
tập huấn nhiều hơn so với khoa khác vì tính 
đặc thù công việc tại những khoa này. Vì 
vậy mà cần có những đợt luân chuyển vị 
trí làm việc giữa các điều dưỡng, cập nhật 
kiến thức cho họ để giảm thiểu rủi ro trong 
lúc làm việc. 
Kiến thức của điều dưỡng về hậu quả do 
phơi nhiễm với một số yếu tố THNN: Hậu 
quả do phơi nhiếm với một số yếu tố THNN 
có thể điêu dưỡng biết nhưng không đầy 
đủ, bởi ít nhất họ cũng từng từng bị phơi 
nhiễm hoặc đồng nghiệp.Trên thực tế thì đa 
số điều dưỡng chỉ biết được hậu quả do 
phơi nhiễm với máu chủ yếu. Nghiên cứu 
đã chỉ ra một số hậu quả mà điều dưỡng ít 
biết đến, đối với yếu tố hóa học nó còn có 
thể gây viêm phế quản và hội chứng hô hấp 
cấp tính đối với yếu tố sinh học. điều dưỡng 
chưa thực sự quan tâm đến hậu quả có thể 
mắc phải từ những tác nhân gây hại khác. 
Trên thực tế thấy rằng ít điều dưỡng 
biết hết các bệnh nghề nghiệp được bảo 
hiểm, hiện nay là khái niệm mới đối với 
điều dưỡng, bởi hầu như điều dưỡng họ 
chỉ làm cái phơi nhiễm khi gặp sự cố bị kim 
tiêm bẩn đâm trúng. Trong nghiên cứu điều 
dưỡng đã biết các bệnh nghề nghiệp có thể 
mắc phải do yếu tố sinh học gây ra nhưng 
đối với bệnh lao nghề nghiệp còn ít người 
biết. Đối với yếu tố hóa học ít điều dưỡng 
biết rằng nó có thể gây ra hai bệnh sau: 
hơn 53,7% biết bệnh hen nghề nghiệp và 
18,4% biết bệnh viêm phế quản mãn tính.
Kiến thức của điều dưỡng về các biện 
pháp dự phòng một số yếu tố THNN: hầu 
hết điều dưỡng đều biết đến các biện pháp 
dự phòng phơi nhiễm với một số yểu tố 
THNN. Bên cạnh đó chỉ có 44.9% điều 
dưỡng tuân thủ nguyên tắc vô khuẩn và 
52,3% xử lý chất thải đúng quy định để 
dự phòng phơi nhiễm do YTTH sinh học. 
Lý giải điều này có thể do công việc quá 
tải, bệnh nhân đông mà điều dưỡng làm 
nhanh làm tắt không tuân thủ đúng nguyên 
tắc. Cơ sở vật chất chưa đủ đáp ứng cho 
điều dưỡng để trang bị cho xe tiêm phục vụ 
phân loại chất thải đúng quy định.
Điều dưỡng là nghề đặc thù làm việc trong 
môi trường đặc biệt, để không bị tổn thương, 
lây nhiễm các mầm bệnh từ bệnh nhân, đòi 
hỏi người điều dưỡng phải có kiến thức thật 
tốt về những yếu tố tác hại nghề nghiệp, để 
từ đó có ý thức dự phòng thật tốt để bảo vệ 
bản thân, đồng nghiệp và gia đình. Nhưng 
kiến thức về yếu tố tác hại nghề nghiệp 
của điều dưỡng trong nghiên cứu chúng tôi 
còn thấp chỉ có 74,9%, trong đó 66,4% diều 
dưỡng có kiến thức đạt về yếu tố hóa học 
và 69,6% điều dưỡng có kiến thức đạt về 
yếu tố sinh học. Thấp hơn so với nghiên cứu 
của Aluko, O. O (2016), cho thấy 89% điều 
dưỡng có kiến thức về các mối nguy hiểm 
135
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
về nghề nghiệp trong đó kiến thức về yếu 
tố hóa học chiếm 81,7% và yếu tố sinh học 
72,4% [5], và nghiên cứu Hu, S. X. (2015) 
84% điều dưỡng có kiến thức về các mối 
nguy hiểm nghề nghiệp [13]. Có thể lý giải 
điều này: do mức nhận thức khác nhau giữa 
mỗi người, chương trình đào tạo khác nhau. 
Nghiên cứu còn cho thấy, hơn một nửa điều 
dưỡng đã đạt kiến thức về các yếu tố tác hại 
nghề nghiệp, nhưng vẫn còn tới 25,1% điều 
dưỡng chưa đạt. Điều này cho thấy các nhà 
quản lý cần tăng cường tập huấn, đào tạo 
để cho điều dưỡng tại viện có thể nắm vững 
hơn về vấn đề này cũng như lấp đầy những 
khoảng trống về kiến thức cho điều dưỡng. 
Chính vì những khoảng trống đó mà thực 
hành dự phòng của điều dưỡng sẽ không 
đầy đủ và đảm bảo an toàn.
5. KẾT LUẬN
Kiến thức của điều dưỡng về một số yếu 
tố THNN còn thấp, mức kiến thức đạt trở 
lên chỉ đạt 74,9%. Trong đó điều dưỡng có 
kiến thức đạt trung bình chỉ chiếm 68,5% 
và tốt có 6,4%. Tuy nhiên, có 69,9% điều 
dưỡng có kiến thức đạt về yếu tố sinh học, 
66,4% có kiến thức về yếu tố hóa học. Nhìn 
chung kiến thức điều dưỡng về yếu tố tác 
hại nghề nghiệp còn thấp. Chính vì những 
khoảng trống đó mà thực hành dự phòng 
của điều dưỡng sẽ không đầy đủ và đảm 
bảo an toàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Sức khỏe nghề nghiệp - 
Trường Đại học Y Hà Nội (2015), Sức khỏe 
nghề nghiệp, Nhà xuất bản Y học. 
2. Lê Minh Hạnh (2017). Phòng chống 
bệnh nghề nghiệp trong nhân viên y tế, 
Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường, 
Khoa Bệnh nghề nghiệp. 
vn/tin-suc-khoe/phong-chong-benh-nghe-
nghiep-trong-nhan-vien-y-te. Truy cập ngày 
10-10-2019.
3. Ghaffar T, Ali A and Din N. N. U 
(2018), Exploring the Effectiveness and 
Challenges of Implementing Work-Based 
Learning in Undergraduate Nursing 
Education Programmes: A systematic 
Review “Saudi Journal of Nursing and 
Health Care ISSN: 2616-7921 (Print)”.
4. Centers for Disease Control 
and Prevention CDC. Sharps Injuries: 
Bloodborne Pathogens, National 
Occupational Research Agenda NORA. 
https://www.cdc.gov/nora/councils/hcsa/
stopsticks/bloodborne.html. Acceessed 
date 2019 october 10.
5. Aluko O.O, Adebayo A. E, Adebisi 
T.F et al. (2016), “Knowledge, attitudes 
and perceptions of occupational hazards 
and safety practices in Nigerian healthcare 
workers”, BMC research notes. 9(1), p. 71.
6. Nguyễn Thu Hà NguyễnThị Mỹ 
Khánh, Nguyễn Ngọc Bích (2019). Kiến 
thức, thực hành phòng bệnh viêm gan B 
nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng 
Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre 
năm 2018. Tạp chí Y học thực hành(3).
7. Hoàng Trung Tiến và Đỗ Minh Sinh 
(2019). Kiến thức và thực hành dự phòng 
tổn thương do vật sắc nhọn của điều 
dưỡng Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng 
năm 2019. Tạp chí Khoa học Điều dưỡng. 
2(3), tr. 22-30.
8. Ngô Thị Thu Hương (2017), Khảo sát 
hành vi, thái độ củ NVYT về thực hành ngăn 
ngừa tổn thương do vật sắc nhọn và phòng 
ngừa phơi nhiễm tại Bệnh viện 115, Sở Y tế 
tp Hồ Chí Minh, Bệnh viện nhân dân 115. 
https://123doc.net//document/5018690-
khao-sat-hanh-vi-va-thai-do-cua-nhan-
vien-y-te-ve-thuc-hanh-ngan-ngua-ton-
thuong-do-vat-sac-nhon-va-phong-ngua-
phoi-nhiem-tai-benh-vien-nhan-dan-115.
htm, truy cập ngày 28/7/2020.
9. Phan Công Trắng và Nguyễn Thị 
Quỳnh (2018). Kiến thức, thực hành và một 
số yếu tố liên quan về dự phòng phơi nhiễm 
viêm gan virus B, C nghề nghiệp của điều 
dưỡng các khoa lâm sàng, Bệnh viện Đa 
khoa thành phố Cần Thơ năm 2018. Tạp 
chí Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe 
và Phát triển. 2(4), tr. 15-21.
136
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
10. World Health Organization (2001), 
Occupational health – A mannual for 
primary health care workers, World Health 
Organization.
11. Amadhila J and Marieta J (2017). 
Knowledge and practices among registered 
nurses on occupational hazards in 
Onandjokwe Health District: Oshikoto 
region, Namibia. Journal of Hospital 
Administration, 6(4), pp. 46-51.
12. Awan A, Afzal M, Majeed I, et al. 
(2017). Assessment of Knowledge, Attitude 
and Practices regarding Occupational 
Hazards among Nurses at Nawaz Sharif 
Social Security Hospital Lahore Pakistan. 
Saudi J. Med. Pharm. Sci,3(6), pp. 622-630.
13. Hu S. X, Luk A. L and Smith G. D 
(2015).The effects of hazardous working 
conditions on burnout in Macau nurses. 
International Journal of Nursing Sciences, 
2(1), pp. 86-92.
MỨC ĐỘ TỰ TIN VỀ SINH CON CỦA THAI PHỤ TẠI BỆNH VIỆN A THÁI NGUYÊN
Phạm Thị Vân Anh1, Nguyễn Thị Hải Yến1
1Trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả mức độ tự tin về sinh 
con của thai phụ tại Bệnh viện A Thái 
Nguyên năm 2019 - 2020 và xác định một 
số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương 
pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang được thực hiện từ tháng 10/2019 - 
5/2020 trên 195 thai phụ mang thai từ tuần 
thứ 35 đến 41 được tiên lượng sinh đường 
âm đạo. Nghiên cứu phỏng vấn đối tượng 
nghiên cứu bằng phiếu tự điền “sự tự tin 
về sinh con của thai phụ (Childbirth self-
efficacy inventory - CBSEI- 32)” có chỉnh 
sửa cho phù hợp. Kết quả: Sự tự tin về 
sinh con của đối tượng nghiên cứu ở mức 
độ trung bình (52,8 ± 8,5), tổng điểm 80. 
Sự tự tin về sinh con của thai phụ có mối 
tương quan với các biến độc lập là: sự lo sợ 
về sinh con (p = 0,001); kiến thức về sinh 
con, sự hỗ trợ xã hội và kết quả mong đợi 
(p < 0,001). Kết luận: Sự tự tin về sinh con 
của thai phụ tại bệnh viện A Thái Nguyên ở 
mức trung bình, cần có các biện pháp can 
thiệp để cải thiện giúp thai phụ có đủ tự tin 
để sinh thường.
Từ khóa: Sự tự tin về sinh con, thai phụ, 
sự tự tin.
CHILDBIRTH SELF-EFFICACY OF PREGNANT WOMEN AT A THAI NGUYEN HOSPITAL
ABSTRACT
Objective: To describe level of childbirth 
self-efficacy in pregnant women at A Thai 
Nguyen hospital in 2019 - 2020 and factors 
relate to childbirth self-efficacy. Method: 
Người chịu trách nhiệm: Phạm Thị Vân Anh
Gmail: [email protected]
Ngày phản biện: 25/9/2020
Ngày duyệt bài: 09/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
Cros- sectional study from October 2019 
to May 2020, among 195 pregnancies 
between 35 and 41 weeks possible to 
give birth by vaginal delivery. Preganants 
were asked to complete a modification 
Childbirth self-efficacy inventory (CBSEI- 
32) questionnaire. Results: Results 
showed that childbirth self-efficacy was 
correlated with fear of childbirth, knowledge, 
maternal support and expected outcome 
at p -value < 0,05. Conclusion: Childbirth 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_ve_mot_so_yeu_to_tac_hai_nghe_nghiep_cua_dieu_duon.pdf