Kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Việt Nam
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Kiểm soát chế độ ăn là một thành phần không thể thiếu trong kiểm soát và chăm sóc đái tháo
đường (ĐTĐ) và ngày nay càng được quan tâm trong bối cảnh tại Việt Nam. Tuy nhiên một số nghiên cứu cho
thấy kiến thức của bệnh nhân về ĐTĐ trong đó có kiến thức về chế độ ăn tương đối kém. Thực trạng này cũng
xảy ra đối với bệnh nhân mắc ĐTĐ tại bệnh viện đa khoa quận 11. Tuy nhiên cho đến thời điểm thực hiện đề tài
này chưa có một nghiên cứu nào khảo sát kiến thức về dinh dưỡng và kiểm soát chế độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ
tại bệnh viện quận 11. Xuất phát từ thực tế đó, việc tiến hành một nghiên cứu khảo sát kiến thức về kiểm soát chế
độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ tại bệnh viện đa khoa quận 11 là điều cần thiết.
Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát mối liên quan giữa kiến thức về chế độ ăn và đặc điểm
dân số học của bệnh nhân ĐTĐ điều trị tại bệnh viện đa khoa quận 11.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Việt Nam
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 486 KIẾN THỨC VỀ CHẾ ĐỘ ĂN CỦA BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI VIỆT NAM Nguyễn Thị Ngọc Cần*, Chiung – Man Wu**, Nguyễn Duy Hùng*, Nguyễn Ngọc Duy*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Kiểm soát chế độ ăn là một thành phần không thể thiếu trong kiểm soát và chăm sóc đái tháo đường (ĐTĐ) và ngày nay càng được quan tâm trong bối cảnh tại Việt Nam. Tuy nhiên một số nghiên cứu cho thấy kiến thức của bệnh nhân về ĐTĐ trong đó có kiến thức về chế độ ăn tương đối kém. Thực trạng này cũng xảy ra đối với bệnh nhân mắc ĐTĐ tại bệnh viện đa khoa quận 11. Tuy nhiên cho đến thời điểm thực hiện đề tài này chưa có một nghiên cứu nào khảo sát kiến thức về dinh dưỡng và kiểm soát chế độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ tại bệnh viện quận 11. Xuất phát từ thực tế đó, việc tiến hành một nghiên cứu khảo sát kiến thức về kiểm soát chế độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ tại bệnh viện đa khoa quận 11 là điều cần thiết. Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát mối liên quan giữa kiến thức về chế độ ăn và đặc điểm dân số học của bệnh nhân ĐTĐ điều trị tại bệnh viện đa khoa quận 11. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện tại bệnh viện đa khoa quận 11 từ tháng 1/3 đến 15/3/2014. Tổng cộng 385 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu và phỏng vấn với bộ câu hỏi cấu trúc liên quan đến 5 khía cạnh của kiến thức chế độ ăn bao gồm kiến thức về thành phần dinh dưỡng chính, kiến thức về vai trò của nhóm thực phẩm, kiến thức về lập chế độ ăn, kiến thức về quy tắc nấu thức ăn và kiến thức về đọc nhãn dinh dưỡng. Mối liên quan giữa các biến số được kiểm bằng các phép kiểm t‐test, ANOVA một chiều với mức ý nghĩa thống kê p=0,05. Các phép kiểm được thực hiện bằng phần mềm SPSS v.16. Kết quả: Trong số 385 bệnh nhân tham gia nghiên cứu có 269 (69,87%) bệnh nhân là nữ. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 61,69 ± 9,94, và 77,14% đã lập gia đình. Kinh là dân tộc chiếm tỷ lệ chủ yếu (71,95%), và 48,6% là nội trợ. 87,79% bệnh nhân có trình độ học vấn từ tiểu học đến trung học cơ sở. Hầu như tất cả bệnh nhân (90.39%) có thu nhập gia đình <3 triệu đồng. Điểm kiến thức chế độ ăn chung trung bình của các đối tượng là 30.94 ± 13.82 (0‐73). Giới có mối tương quan mạnh với kiến thức chế độ ăn trong đó nam bệnh nhân có kiến thức cao hơn so với nữ bệnh nhân (p = 0.02). Ngoài ra bệnh nhân có độ tuổi từ 45 ‐ 54 có điểm kiến thức cao nhất, trong khi bệnh nhân tuổi từ 35 ‐ 44 có điểm kiến thức thấp nhất. Bệnh nhân có trình độ học vấn cao hơn có nhiều khả năng có kiến thức chế độ ăn cao hơn so với những bệnh nhân có trình độ học vấn thấp (p< 0.001). Bệnh nhân có thu nhập cao có nhiều khả năng có kiến thức cao hơn so với những bệnh nhân có thu nhập thấp hơn (p< 0.001). Thời gian mắc ĐTĐ có tác động đến kiến thức của bệnh nhân trong đó bệnh nhân càng có thời gian mắc ĐTĐ càng lâu sẽ có kiến thức càng cao (p = 0.003). Bệnh nhân có anh/chị/em mắc ĐTĐ cũng có kiến thức cao nhất (p 5 năm cũng có kiến thức cao hơn so với các nhóm khác và sự khác biệt này cũng có ý nghĩa thống kê (p=0.003). Kết luận: Có thể thấy rằng kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ không cao. Từ các phát hiện của nghiên cứu này chúng tôi khuyến cáo cần thành lập một nhóm tư vấn dinh dưỡng tại bệnh viện với mục đích đào tạo và tư vấn kiến thức về chế độ ăn cho bệnh nhân ĐTĐ. Từ khóa: kiến thức về đái tháo đường, đái tháo đường * Bệnh viện đa khoa quận 11 **: Đại học Meiho, Đài Loan ***: Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Thị Ngọc Cần ĐT: 0903389529 Email: cantrang69@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 487 ABSTRACT DIETARY KNOWLEDGE OF PATIENTS WITH TYPE 2 DIABETES IN VIETNAM Nguyen Thi Ngoc Can, Chiung – Man Wu, Nguyen Duy Hung, Nguyen Ngoc Duy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 486 – 492 Background: Dietary management is an integral part of diabetes care and management and it is currently received more concerns in health care services among regions around Vietnam. However, studies have been showed that knowledge of patients with diabetes, including dietary knowledge, was relatively poor. The situation in General Hospital District 11 was the same. Nevertheless until the time of doing the present study there are not any surveys on assessment of knowledge of nutrition and diet control of diabetes patients conducted in the General Hospital District 11. From that point of view, it is necessary to conduct a study to investigate knowledge on dietary management of diabetic patients in General Hospital District 11. Objectives: To explore the relationships between dietary knowledge and demographic characteristics of diabetic patients who were treated at General Hospital District 11. Methods: A cross‐sectional study was carriedout at General Hospital District 11 from March 1 to April 15, 2014. In total, a random sample of 385 patients wasinterviewed with a structured questionnaire designed to assess five aspects of dietary knowledge, including knowledge about key nutrients, the role of food groups, meal planning, cooking rules and nutritional label reading. The significance of the results was assessed by t‐test or one way ANOVAat p‐value of 0.05 using SPSS version 16. Result: Among 385 participants, 269 (69.87%) patients were female. The mean age of participants was 61.69 ± 9.94, and 77.14% were married. Kinh constituted the majority of the population (71.95%), and 48.6% were housewives. Regarding to level of education, 87.79% patients had finished education from primary school to high school. Nearly all of patients (90.39%) had family income under 3 million dong. The mean total dietary knowledge score among patients was 30.94 ± 13.82 (0‐73). Gender had strong association with dietary knowledge in which male patients had higher knowledge than female patients (p=0.02). Furthermore, patients aged from 45 to 54 years old had the highest score of knowledge, meanwhile patients aged from 35 to 44 years old had lowest score. Patients who had higher education were likely to have higher dietary knowledge than patients with lower education (p <0.001). Patients with higher income had higher knowledge than low income patients as well (p <0.001). Duration of diabetes had an impact on dietary knowledge in which patients had longer duration would have higher knowledge (p=0.003). Patients who had siblings with diabetes had the highest score of knowledge (p <0.001). Patients who had treatments more than five years had higher knowledge score than other groups of patients, and these differences had a statistically significance (p=0.003). Conclusion: It could be concluded that the dietary knowledge among participants was not high. From the findings, establishing a nutritional team within the hospital to hold training course and consult dietary knowledge toward patients with diabetes was necessary. Keywords: dietary knowledge, diabetes. ĐẶT VẤN ĐỀ ĐTĐ hiện nay là vấn đề y tế công cộng nổi cộm trên thế giới. Năm 2011, số người mắc ĐTĐ trên thế giới là 366 và ước tính con số này sẽ lên đến 552 triệu người vào năm 2030(4). Tại Việt Nam Vào năm 2012, số hiện mắc ĐTĐ chiếm 4% tổng dân số còn số mắc tiền ĐTĐ lên đến 10% dân số chung. Ước tính rằng đến năm 2025, số hiện mắc ĐTĐ trên toàn quốc sẽ là 3 triệu người. Kiểm soát chế độ ăn là một phần không thể thiếu trong chăm sóc và kiểm soát ĐTĐ. Chế độ ăn hợp lý đã từ lâu được chứng minh là có khả Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 488 năng cải thiện lượng đường huyết trong cơ thể thông qua việc làm giảm lượng glycated hemoglobin (A1C) từ 1,0% đến 2,0%. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy rằng bệnh nhân thường thực hành không đầy đủ về kiểm soát chế độ ăn và điều này thường là do bệnh nhân có kiến thức kém về kiểm soát chế độ ăn dành cho người ĐTĐ(1,2,3). Tại bệnh viện đa khoa quận 11, có khoảng 26,292 bệnh nhân đến khám và điều trị ĐTĐ trong năm 2012, trong đó có 26.203 bệnh nhân ngoại trú và 89 bệnh nhân nội trú. Những thông tin bệnh nhân nhận được chủ yếu là các lời khuyên căn bản về dinh dưỡng từ bác sĩ và điều dưỡng trong suốt quá trình điều trị tại bệnh viện. Tuy nhiên cho đến thời điểm khảo sát nghiên cứu này chưa có bất kỳ cuộc khảo sát hay nghiên cứu nào đánh giá kiến thức về dinh dưỡng cũng như kiểm soát chế độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ tiến hành tại bệnh viện đa khoa quận 11. Từ quan điểm đó, việc tiến hành một nghiên cứu khảo sát kiến thức về kiểm soát chế độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ tại bệnh viện đa khoa quận 11 là điều hết sức cần thiết. kết quả của nghiên cứu sẽ được sử dụng làm cơ sở dữ liệu để ban lãnh đạo bệnh viện xây dựng một đội ngũ chuyên viên tư vấn về các vấn đề dinh dưỡng và chế độ ăn cho bệnh nhân ĐTĐ. Mục tiêu nghiên cứu Xác định kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ và mối liên quan giữa kiến thức và các đặc điểm dân số học, tiền sử bệnh lý của bệnh nhân. ĐỐI TƯỢNG – PHƯ ƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế cắt ngang mô tả tại bệnh viện đa khoa quận 11 từ 1/3‐15/4/2014. Đối tượng nghiên cứu là 385 bệnh nhân ĐTĐ >18 tuổi điều trị tại bệnh viện trong khoảng thời gian nghiên cứu. Những bệnh nhân bị loại ra khỏi nghiên cứu khi có các rối loạn về tâm thần hoặc tâm lý hoặc các bệnh ngăn trở họ thực hiện cuộc phỏng vấn. Ngoài ra, những bệnh nhân không thể thực hiện phỏng vấn vì có các khuyết tật thể chất như mù, câm, điếc cũng được loại ra khỏi nghiên cứu. Kỹ thuật lấy mẫu ngẫu nhiên đơn được áp dụng trong nghiên cứu này để thu thập mẫu. Có tổng cộng 1765 bệnh nhân ĐTĐ đến khám tại bệnh viện từ 1/3‐1/4 năm 2014. Mỗi bệnh nhân sẽ được đánh mã số thứ tự (số ID). Chúng tôi sử dụng bảng số ngẫu nhiên để chọn ra 385 bệnh nhân từ 1765 bệnh nhân. Mỗi số chọn ra từ bảng ngẫu nhiên sẽ tượng trưng cho một bệnh nhân có số ID trùng khớp. Nếu số được chọn từ bảng số vượt quá 1765 thì sẽ bỏ và chọn lại số khác. Quá trình chọn số sẽ kết thúc khi lấy đủ 385 số. Phương pháp phỏng vấn mặt đối mặt sẽ được sử dụng để thu thập thông tin từ bệnh nhân. Đối với những bệnh nhân ngoại trú, nếu họ đến tái khám tại bệnh viện trong thời gian nghiên cứu sẽ được phỏng vấn tại chỗ tái khám. Nếu họ không đến tái khám sẽ được nhân viên đến tận nhà phỏng vấn. Đối với những bệnh nhân nội trú, cuộc phỏng. Bộ câu hỏi phỏng vấn được xây dựng dựa trên các đề tài nghiên cứu trước đó, các hướng dẫn quốc tế về chế độ ăn cho bệnh nhân ĐTĐ và ý kiến của các chuyên gia dinh dưỡng. Bộ câu hỏi bao gồm 51 chia làm 3 phần: 12 câu hỏi liên quan đến các đặc điểm dân số xã hội học của bệnh nhân: Tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập hàng tháng, giới tính, dân tộc, tham dự lớp tập huấn/hội thảo về kiểm soát ĐTĐ), các chỉ số nhân trắc học, 4 câu hỏi bao gồm loại ĐTĐ, thời gian ĐTĐ, tiền sử gia đình, loại điều trị, gồm 35 câu hỏi liên quan đến 5 khía cạnh về kiến thức chế độ ăn bao gồm dưỡng chất chính và nhóm thực phẩm (12 câu), vai trò nhóm thực phẩm trong kiểm soát ĐTĐ (2 câu), lập chế độ ăn (12 câu), phương pháp nấu ăn (4 câu), và đọc nhãn dinh dưỡng (5 câu). Nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS v16 để nhập liệu và phân tích số liệu. Đối với thống kê mô tả, dùng bảng phân phối tần suất đối với biến định tính và trung bình, độ lệch chuẩn với biến định lượng. Đối với thống kê phân tích, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 489 dùng kiểm định t‐test/ANOVA để kiểm định mối liên quan giữa các kiến thức chế độ ăn và đặc điểm bệnh nhân. P <0,05 được chọn làm mức có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ Đặc điểm của mẫu nghiên cứu Bảng 1: Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n=385) Biến số n % Giới Nam 116 30,13 Nữ 269 69,87 Tuổi [TB ± ĐLC (khoảng)] tuổi 61,69 ± 9,94 (35-88) Tình trạng hôn nhân Lập gia đình 297 77,14 Độc thân 25 6,49 Góa bụa 57 14,81 Ly dị/ly thân 6 1,56 Dân tộc Kinh 277 71,95 Hoa 108 28,05 Nghề nghiệp Nhân viên văn phòng 16 4,16 Công nhân 38 9,87 Lao động phổ thông 30 7,79 Nội trợ 187 48,57 Thất nghiệp 54 14,03 Kinh doanh 46 11,95 Hưu trí 14 3,64 Trình độ học vấn Thất học 29 7,53 Tiểu học 140 36,36 Trung học cơ sở 114 29,61 Trung học phổ thông 84 21,82 Đại học 17 4,42 Sau đại học 1 0,26 Thu nhập gia đình <1 triệu đồng 89 23,12 1 -3 triệu đồng 259 67,27 >3 triệu đồng 37 9,61 Dự lớp tập huấn về chế độ ăn cho người ĐTĐ 38 9,97 Cơ quan y tế tổ chức lớp tập huấn (n=38) Bệnh viện quận 11 22 57,89 Trạm y tế 7 18,42 Khác 9 23,68 BMI 23,63 ± 3,39 (13,22- 39,96) Thời gian mắc ĐTĐ <1 năm 49 12,73 1-5 năm 246 63,90 >5 năm 90 23,38 Biến số n % Tiền sử gia đình mắc ĐTĐ Cha/mẹ 67 17,4 Ông bà 8 2,08 Anh/chị/em 76 19,74 Khác 74 19,22 Loại điều trị Insulin 10 2,60 Thuốc đường uống 344 89,35 Insulin & thuốc đường uống 31 8,05 Thời gian điều trị <1 năm 50 12,99 1-5 năm 249 64,68 >5 năm 86 22,34 Có tổng cộng 385 bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Trong số này 269 (69.87%) bệnh nhân là nữ. Tuổi trung bình của các đối tượng là 61.69 ± 9.94. Có 77.14% bệnh nhân lập gia đình, trong khi tỷ lệ góa bụa chiếm 14,81%. Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ lớn nhất trong nghiên cứu này (71,95%). Nội trợ, thất nghiệp và kinh doanh là ba ngành nghề chiếm tỷ lệ cao nhất (48,57%, 14,03%, và 11,95%). Đối với trình độ học vấn 87,79% bệnh nhân đã tốt nghiệp tiểu học và trung học. Hầu như tất cả bệnh nhân (90,39%) có thu nhập gia đình <3 triệu đồng, trong đó có 67,27% có thu nhập từ 1‐3 triệu đồng. Chỉ có 38/385 bệnh nhân (9,97%) đã từng tham dự các lớp tập huấn/hội thảo liên quan đến kiến thức về chế độ ăn dành cho bệnh nhân ĐTĐ. Cơ sở y tế tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo này là bệnh viện đa khoa quận 11 (57,89%) và trạm y (18,42%); các cơ quan khác bao gồm trung tâm dinh dưỡng thành phố Hồ Chí Minh, bệnh Chợ Rẫy, bệnh viện Hùng Vương. Chỉ số BMI trung bình của bệnh nhân là 23,63 ± 3,39. Phân lớn bệnh nhân đã mắc ĐTĐ > 1 năm trong đó có 63,90% mắc ĐTĐ từ 1‐5 năm. Cha mẹ (17,4%) và anh/chị/em (19,74%) là những người thân bệnh nhân có tiền sử mắc ĐTĐ nhiều nhất. Thuốc điều trị ĐTĐ đường uống là phương pháp điều trị ĐTĐ phổ biến nhất của các bệnh nhân (89,35%) và > 85% bệnh nhân đã điều trị ĐTĐ > 1 năm. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 490 Kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân đái tháo đường Bảng 2: Các kiến thức khía cạnh và kiến thức chung về chế độ ăn của bệnh nhân (n=385) Kiến thức TB ± ĐLC (KGT) Kiến thức về dưỡng chất chính và nhóm thực phẩm 8,44 ± 6,96 (0-31) Kiến thức về vai trò nhóm thực phẩm 6,21 ± 4,15 (0-15) Kiến thức về phương pháp lập chế độ ăn 11,94 ± 4,00 (0-19) Kiến thức về phương pháp nấu thức ăn 4,04 ± 1,95 (0-7) Kiến thức về đọc nhãn dinh dưỡng 0,31 ± 1,61 (0-10) Kiến thức chung về chế độ ăn 30,94 ± 13,82 (0-73) Kết quả cho thấy bệnh nhân có điểm kiến thức về phương pháp nấu thức ăn tương đối cao 11,94 ± 4,00 (0‐19). Bệnh nhân chỉ có điểm thấp ở các khía cạnh còn lại của kiến thức về chế độ ăn. Kết quả là kiến thức chung về chế độ ăn của bệnh nhân là 30,94 ± 13,82 (0‐73). Mối liên quan giữa kiến thức chung về chế độ ăn và các đặc điểm của bệnh nhân Bảng 3: Mối liên quan giữa kiến thức chung về chế độ ăn và đặc điểm dân số học của bệnh nhân (n=385) Đặc điểm dân số học TB ± ĐLC p Giới Nam 33,41 ± 14,10 0,02 Nữ 29,88 ± 13,58 Tuổi 35-44 24,91 ± 13,71 0,01 45-54 33,46 ± 14,83 55-64 32,23 ± 12,73 ≥ 64 28,51 ± 13,89 Tình trạng hôn nhân Lập gia đình 30,80 ± 14,02 0,33 Độc thân 27,24 ± 14,99 Góa bụa 33,17 ± 12,39 Ly dị/ly thân 32,33 ± 10,13 Dân tộc Kinh 31,34 ± 13,88 0,37 Hoa 29,92 ± 13,66 Nghề nghiệp Nhân viên văn phòng 33,12 ± 13,52 0,23 Công nhân 28,05 ± 13,59 Lao động phổ thông 30,97 ± 13,98 Nội trợ 29,69 ± 13,70 Thất nghiệp 33,35 ± 14,18 Kinh doanh 33,61 ± 13,13 Hưu trí 34,93 ± 15,65 Đặc điểm dân số học TB ± ĐLC p Trình độ học vấn Thất học 26,41 ± 11,51 <0,001 Tiểu học 28,09 ± 13,52 Trung học cơ sở 31,32 ± 13,16 Trung học phổ thông 34,32 ± 14,31 Đại học 42,71 ± 12,59 Sau đại học 35,00 ± 0,00 Thu nhập gia đình <1 triệu đồng 25,08 ± 13,09 <0,0011-3 triệu đồng 32,34 ± 13,46 >3 triệu đồng 35,3 ± 14,16 Dự lớp tập huấn về chế độ ăn cho người ĐTĐ Có 34,71 ± 14,11 0,07 Không 30,53 ± 13,74 Kết quả cho thấy nam có kiến thức cao hơn nữ (33,41 ± 14,10 so với 29,88 ± 13,58), và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,02). Bệnh nhân có độ tuổi từ 45‐54 có kiến thức cao nhất (33,46 ± 14,83), trong khi bệnh nhân có tuổi từ 35‐44 có kiến thức thấp nhất (24,91 ± 13,71). Dữ liệu cũng cho thấy bệnh nhân có trình độ học vấn cao cũng sẽ có kiến thức cao hơn (p <0,001). Ngoài ra bệnh nhân có thu nhập cao sẽ có điểm kiến thức cao hơn so với bệnh nhân có thu nhập thấp (p <0,001). Bảng 4: Mối liên quan giữa kiến thức chung về chế độ ăn và tiền sử bệnh lý của bệnh nhân (n=385) Đặc điểm TB ± ĐLC p Tình trạng dinh dưỡng Nhẹ cân 29,52 ± 12,88 0,06 Bình thường 30,00 ± 14,52 Tiền béo phì 32,50 ± 12,18 Béo phì 38,46 ± 11,72 Thời gian mắc ĐTĐ <1 năm 25,10 ± 14,21 0,003 1-5 năm 31,21 ± 13,61 >5 năm 33,39 ± 13,39 Tiền sử gia đình mắc ĐTĐ Cha/mẹ 30,68 ± 14,96 <0,001 Ông bà 22,37 ± 13,07 Anh/chị/em 36,05 ± 12,19 Khác 21,99 ± 11,99 Loại điều trị Insulin 39,2 ± 17,52 0,1 Thuốc đường uống 30,91 ± 13,51 Insulin & thuốc đường uống 28,613 ± 15,36 Thời gian điều trị <1 năm 26,16 ± 13,74 0,003 1-5 năm 30,72 ± 13,69 >5 năm 34,38 ± 13,46 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 491 Kết quả cũng cho thấy những bệnh nhân có thời gian mắc ĐTĐ dài hơn sẽ có điểm kiến thức cao hơn so với bệnh nhân có thời gian mắc ĐTĐ ngắn hơn (p=0,003). Ngoài ra bệnh nhân có anh chị em mắc ĐTĐ có điểm kiến thức cao nhất trong khi bệnh nhân có người thân khác mắc ĐTĐ có kiến thức thấp nhất (p <0,001). Cuối cùng bệnh nhân có thời gian điều trị dài sẽ có điểm kiến thức cao hơn so với người có thời gian điều trị ngắn (p=0,003). BÀN LUẬN Có 5 khía cạnh kiến thức được khảo sát trong nghiên cứu này. Chúng bao gồm kiến thức về dưỡng chất chính và nhóm thực phẩm, vai trò của nhóm thực phẩm đối với kiểm soát đường huyết, kiến thức về lập chế độ ăn, kiến thức về phương pháp chế biến thực phẩm và kiến thức về đọc nhãn dinh dưỡng. Mỗi loại kiến thức cấu thành nên kiến thức chung về chế độ ăn và được đánh giá qua các câu hỏi trong bảng câu hỏi cấu trúc soạn sẵn. Kiến thức về dưỡng chất và nhóm thực phẩm bao gồm 6 kiến thức thành phần về carbonhydrate, protein, chất béo bão hòa, chất béo trans, chất béo không bão hòa đa, chất béo không bão hòa đơn. Trong số các dưỡng chất này, thì bệnh nhân có kiến thức tương đối về carbonhydrate và protein trong khi có kiến thức thấp về 4 loại chất béo. Kết quả là điểm trung bình kiến thức về dưỡng chất chính và nhóm thực phẩm chỉ đạt 8,44 ± 6,96 (0‐31). Để đánh giá kiến thức về vai trò nhóm thực phẩm đối với kiểm soát đường huyết, chúng tôi tập trung khảo sát kiến thức của bệnh nhân về các loại thực phẩm làm tăng nhanh đường huyết (thực phẩm có chỉ số đường huyết cao) và thực phẩm làm tăng chậm đường huyết (thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp). Nhìn chung bệnh nhân có kiến thức cao hơn về các thực phẩm có chỉ số đường huyết cao nhưng lại có kiến thức thấp về thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp bởi vì một số thực phẩm trong nhóm đường huyết thấp không được nhận biết bởi bệnh nhân. Do đó, kiến thức chung của bệnh nhân về vai trò nhóm thực phẩm chỉ đạt mức trung bình là 6,21 ± 4,15 (0‐15). Kiến thức về lập chế độ ăn bao gồm nhiều thành phần. Có các câu hỏi dùng để kiểm tra kiến thức của bệnh nhân về khẩu phần các dưỡng chất trong bữa ăn hằng ngày (carbonhydrate, chất xơ, trái cây, sản phẩm từ sữa và protein). Ngoài ra số bữa ăn, ăn đúng giờ và uống rượu bia cũng được đánh giá để kiểm tra kiến thức về lập chế độ ăn của bệnh nhân. Hai thành phần khác là thực phẩm không nên ăn và thực phẩm nên ăn cũng rất quan trọng đối với bệnh nhân ĐTĐ trong kiểm soát chế độ ăn hàng ngày. Kết quả cho thấy rằng hầu hết bệnh nhân đều nhận biết khẩu phần carbonhydrate, chất xơ và trái cây, trong khi sữa và protein không được nhận biết nhiều. Các thành phần kiến thức khác cũng có điểm kiến thức cao, ngoại trừ kiến thức về số bữa ăn và uống rượu bia. Kiến thức về lập chế độ ăn vì vậy chỉ đạt 11,94 ± 4,00 (0‐19). Kiến thức về phương pháp chế biến thực phẩm được đánh giá dựa trên các phương pháp nấu thức ăn và cách nấu mà bệnh nhân nên tránh khi chế biến thực phẩm. Nhìn chung trên một nửa số bệnh nhân biết các kiến thức thành phần và điều này có thể giải thích là do đa số đối tượng là phụ nữ. Kiến thức về phương pháp chế biến thực phẩm đạt điểm tương đối cao với điểm trung bình là 4,04 ± 1,95 (0‐7). Có thể nói rằng đọc nhãn dinh dưỡng có tỷ lệ bệnh nhân có kiến thức thấp nhất vì một thực tế là sự hiểu biết tiếng Anh của bệnh nhân có giới hạn và bệnh nhân đa số chưa được đào tạo về cách đọc nhãn thực phẩm. Thực vậy, có < 4% bệnh nhân biết về tất cả các thành phần trong nhãn thực phẩm (serving size, serving per container, calories, % daily value, total fat, sodium, dietary fiber) và cách chọn lựa loại thức ăn phù hợp theo calori, chất xơ và đường cho chế độ ăn của mình. Kết quả là điểm trung bình Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 492 kiến thức về đọc nhãn dinh dưỡng rất thấp chỉ có 0,31 ± 1,61 (0‐10). Tổng điểm kiến thức chung về chế độ ăn sẽ là tổng trung bình cộng của 5 khía cạnh kiến thức nêu trên. Trung bình điểm kiến thức chế độ ăn của bệnh nhân là 30,94 ± 13,82 (0‐73). Điều đó cho thấy kiến thức chung về chế độ ăn của các bệnh nhân quá thấp và kết quả này phù hợp với một số ít nghiên cứu về kiến thức chế độ ăn của bệnh nhân ĐTĐ. Trong nghiên cứu này chúng tôi cũng khảo sát mối liên quan giữa kiến thức chế độ ăn và đặc điểm của bệnh nhân. Kết quả cho thấy nam bệnh nhân có kiến thức cao hơn so với bệnh nhân nữ. Tuổi là một yếu tố có mối tương quan thuận với kiến thức chế độ ăn trong đó bệnh nhân càng lớn tuổi càng có kiến thức hơn so với người nhỏ tuổi, ngoại trừ bệnh nhân có độ tuổi >64. Hơn nữa bệnh nhân có trình độ học vấn cao cũng có kiến thức cao hơn. Bệnh nhân có điều kiện kinh tế cao hơn có nhiều khả năng có kiến thức tốt hơn so với người có điều kiện kinh tế thấp. Thời gian ĐTĐ cũng có mối tương quan có ý nghĩa thống kê với kiến thức về chế độ ăn trong đó bệnh nhân có thời gian mắc bệnh dài sẽ có kiến thức cao hơn. Tương tự như vậy bệnh nhân có tiền sử gia đình có người mắc bệnh cũng có mối tương quan với kiến thức về chế độ ăn. KẾT LUẬN‐KIẾN NGHỊ Có tổng cộng 385 bệnh nhân ĐTĐ tham gia nghiên cứu và hầu hết bệnh nhân là nữ. Phần lớn bệnh nhân là người cao tuổi (tuổi trung bình là 61,69 ± 9,94) và đã lập gia đình (77,14%). Các dữ liệu dân số khác cho thấy bệnh nhân chủ yếu có trình độ học vấn thấp và điều kiện kinh tế cũng thấp. Một điểu lưu ý là tỷ lệ bệnh nhân tham gia lớp tập huấn, đào tạo về kiến thức chế độ ăn cho người ĐTĐ rất thấp. Có thể kết luận rằng kiến thức về chế độ ăn của bệnh nhân thấp. Ngoại trừ kiến thức về lập chế độ ăn và phương pháp chế biến thực phẩm, các kiến thức khác đều có tỷ lệ nhận biết rất thấp. Phân tích mối liên quan giữa kiến thức chế độ ăn và đặc điểm bệnh nhân cho thấy một số phân nhóm bệnh nhân cần phải nhận được sự quan tâm hơn bao gồm bệnh nhân nữ, người lớn tuổi, bệnh nhân có trình độ học vấn thấp, điều kiện kinh tế thấp, có tiền sử gia đình mắc ĐTĐ và bệnh nhân có thời gian điều trị và thời gian mắc ĐTĐ ngắn. Từ các phát hiện trên, tác giả nghiên cứu khuyến cáo bệnh viện đa khoa quận 11 thành lập đơn vị tư vấn, đào tạo về dinh dưỡng và chế độ ăn cho bệnh nhân ĐTĐ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ali ZH (2011). Health and Knowledge Progress among Diabetic Patients after Implementation of a Nursing Care Program Based on Their Profile. Journal of Diabetes & Metabolism, 2(121), 245‐256. 2. Moodley LM, Rambiritch V. (2007). An assessment of the level of knowledge about diabetes mellitus among diabetic patients in a primary healthcare setting. South African Academy of Family Practice, 49(10), 16b. 3. NDEP (2006) Helping the student with diabetes succeed: a guide for school personnel. Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine, 160(1), 45 4. Wild S, Roglic G, Green A, Sicree R, King H (2004) Global Prevalence of Diabetes. Estimates for the year 2000 and projections for 2030. Diabetes Care, 27, 1047–1053. Ngày nhận bài báo: 14/5/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/6/2014 Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
File đính kèm:
- kien_thuc_ve_che_do_an_cua_benh_nhan_dai_thao_duong_type_2_t.pdf