Kiến thức về bệnh viêm gan siêu vi B của người dân xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang năm 2014

Đặt vấn đề: Việc điều trị bệnh viêm gan siêu vi B (VGB) mạn tính là một vấn đề hết sức nan giải, mất nhiều thời gian và tốn kém. Vì vậy, vấn đề phòng ngừa lây nhiễm bệnh lý này luôn là mối quan tâm lớn của toàn xã hội.

Mục tiêu: Khảo sát kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB.

Phương pháp: Cắt ngang mô tả. Kết quả: Kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB: 80,2% người dân đã từng được nghe nói về bệnh VGB; 57,5% người dân biết được nguyên nhân gây bệnh là do virus; triệu chứng được biết nhiều nhất là vàng da (49,9%), biến chứng được nhiều người biết nhất là ung thư gan (61,1%), tiếp theo là xơ gan (41,3%); 23,4% người dân biết rằng VGB là bệnh lý không có điều trị đặc hiệu; lây truyền qua đường máu được 65,7% người dân hiểu đúng; đường tình dục, mẹ truyền sang con lần lượt là 41,0% và 40,7%.

Kết luận: Kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB chưa tốt, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dúc sức khỏe hơn nữa

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức về bệnh viêm gan siêu vi B của người dân xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang năm 2014", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức về bệnh viêm gan siêu vi B của người dân xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang năm 2014

Kiến thức về bệnh viêm gan siêu vi B của người dân xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang năm 2014
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn 25
KIẾN THỨC VỀ BỆNH VIÊM GAN SIÊU VI B
CỦA NGƯỜI DÂN XÃ PHỤNG HIỆP, 
HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH HẬU GIANG NĂM 2014
Nguyễn Văn Lành 1
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Việc điều trị bệnh viêm gan siêu vi B (VGB) 
mạn tính là một vấn đề hết sức nan giải, mất nhiều thời gian 
và tốn kém. Vì vậy, vấn đề phòng ngừa lây nhiễm bệnh lý 
này luôn là mối quan tâm lớn của toàn xã hội.
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức của người dân xã Phụng 
Hiệp về bệnh VGB. 
Phương pháp: Cắt ngang mô tả.
Kết quả: Kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về 
bệnh VGB: 80,2% người dân đã từng được nghe nói về bệnh 
VGB; 57,5% người dân biết được nguyên nhân gây bệnh 
là do virus; triệu chứng được biết nhiều nhất là vàng da 
(49,9%), biến chứng được nhiều người biết nhất là ung thư 
gan (61,1%), tiếp theo là xơ gan (41,3%); 23,4% người dân 
biết rằng VGB là bệnh lý không có điều trị đặc hiệu; lây 
truyền qua đường máu được 65,7% người dân hiểu đúng; 
đường tình dục, mẹ truyền sang con lần lượt là 41,0% và 
40,7%.
Kết luận: Kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về 
bệnh VGB chưa tốt, cần tăng cường công tác tuyên truyền, 
giáo dúc sức khỏe hơn nữa.
Từ khóa: Kiến thức, viêm gan B.
ASTRACT
KNOWLEDGE OF HEPATITIS B DISEASE OF 
THE PEOPLE IN PHỤNG HIEP COMMUNE, PHỤNG 
HIEP DISTRICT, HẬU GIANG PROVINCE IN 2014
Background: The treatment of chronic hepatitis B 
(HBV) is extremely difficult problem. So the prevention of 
this disease is always a major concern of the whole society
Objective: Survey people's knowledge about the hepatitis 
B disease in Phung Hiep Commune in 2014
Study design: Cross-sectional description.
Results: People's knowledge about the hepatitis B 
disease in Phung Hiep Commune as follows: 80.2% of people 
had heard of HBV disease; 57.5% of people know the cause 
of the disease is caused by a virus; the best known symptom 
is jaundice also accounted 49.9%, well-known complication 
is liver cancer (61.1%), followed by liver cirrhosis (41.3%); 
23.4% of people know that HBV is a disease with no specific 
treatment; bloodborne was most known with 65.7% people; 
sexual contact, mother-to-child transmission respectively 
41.0% and 40.7%.
Conclusion: People's knowledge about the hepatitis B 
disease in Phung Hiep Commune is not high, so need, more 
health education.
Keywords: Knowledge, hepatitis B disease. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm gan do siêu vi viêm gan B (gọi tắt là viêm gan B: 
VGB) là một bệnh nhiễm trùng nặng và phổ biến, gây bệnh 
cho hàng triệu người trên khắp thế giới. Ngoài ra, hậu quả 
của VGB rất nặng nề, bao gồm suy gan mạn, xơ gan và ung 
thư gan. Một nguy cơ lớn nữa sau VGB là sự tồn tại kéo dài 
nhiều năm hoặc suốt đời của siêu vi VGB trong máu người 
đã bị bệnh và là nguồn lây tiềm tàng và nguy hiểm cho cộng 
đồng(1),(2)
Ngày nay, trên thế giới có hơn 2 tỷ người đã từng bị 
nhiễm virus VGB ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời của 
họ. Trong số đó, có đến 350 triệu người vẫn còn mang virus 
VGB trong máu và trở thành người lành mang mầm bệnh; 
3/4 dân số thế giới sống trong vùng dịch tễ virus VGB lưu 
hành cao. Hàng năm, có trên 4 triệu người bị VGB cấp tính, 
khoảng 1 triệu người mang virus VGB mạn chết vì VGB hoạt 
tính, xơ gan hoặc ung thư gan. Virus VGB là nguyên nhân 
của ít nhất 80% trường hợp ung thư gan trên thế giới, chỉ 
đứng sau thuốc lá gây ung thư phổi(6),(7).
Hiện nay Việt Nam có tỉ lệ nhiễm virus VGB (HBV) là 
10 - 15% và là một trong những nước có tỉ lệ nhiễm HBV 
cao nhất thế giới(7). Tại Hậu Giang chưa thấy những báo cáo 
1. Trung tâm Y Tế Dự phòng tỉnh Hậu Giang
Ngày nhận bài: 20/07/2016 Ngày phản biện: 25/07/2016 Ngày duyệt đăng: 01/08/2016
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn26
tỉ lệ nhiễm HBV. 
Việc điều trị VGB mạn tính là một vấn đề hết sức nan 
giải, mất nhiều thời gian và tốn kém. Tuy đã có vaccin tiêm 
ngừa hiệu quả nhưng nhiễm HBV luôn là mối đe dọa đối với 
mọi người. Chính vì vậy, vấn đề phòng ngừa lây nhiễm bệnh 
lý này luôn là mối quan tâm không chỉ của ngành Y tế mà 
của toàn xã hội. Do đó chúng tôi đã thực hiện đề tài đánh giá 
kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp 
về những hiểu biết về bệnh và tác hại của bệnh, cách phòng 
bệnh của người dân. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để xây dựng 
chương trình tuyên truyền, giáo dục sức khỏe về bệnh và 
cách phòng bệnh để nhằm nâng cao hiểu biết của người dân 
trong cộng đồng để hạn chế sự lưu hành của bệnh và phát 
hiện sớm bệnh VGB ở từng cá thể và hộ gia đình để góp phần 
hạn chế sự lây nhiễm HBV, hạn chế dần dần đi đến khống 
chế bệnh VGB và những hậu quả nặng nề của nó là viêm gan 
mạn tính, xơ gan và ung thư gan. Vì vậy, sẽ tiết kiệm được 
rất nhiều chi phí cho công tác điều trị và chăm sóc bệnh nhân. 
Mục tiêu nghiên cứu: 
Khảo sát kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp, huyện 
Phụng Hiệp về bệnh và tác hại của bệnh, cách phòng bệnh 
viêm gan B năm 2014.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 
2. Đối tượng nghiên cứu: Toàn thể nhân dân của xã 
Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.
- Tiêu chí chọn vào: Người dân >10 tuổi, đang sống trong 
địa bàn xã Phụng Hiệp đồng ý tham gia nghiên cứu (nếu là 
trẻ em thì cha mẹ sẽ trả lời phỏng vấn thay).
- Tiêu chí loại ra: Người mù chữ, người không đồng ý 
tham gia nghiên cứu, người không có mặt tại địa phương tại 
thời điểm nghiên cứu.
3. Cỡ mẫu: Áp dụng công thức: 
 π(1-π)
 n= -Z2
(1-α⁄2 )
 ----------------------------- 
 d2
 Z: Khoảng tin cậy = 97%
d: Sai số chuẩn = 0,03
Z 
1-α/2
= 2,33
π: Tần suất lý thuyết = 10%
e: Hiệu lực mẫu = 1,2 (do chọn mẫu qua nhiều giai đoạn)
 => n = 2,33 x 0,1.0,9 x 1,2/0,0009 = 280 người 
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp chọn mẫu: Bằng phương pháp ngẫu nhiên 
hệ thống với hệ số k.
K= tổng số người dân trong xã/280 = 8501/280 = 30.
- Công cụ thu thập số liệu: Bộ câu hỏi phỏng vấn dịch 
tễ học, bộ câu hỏi phỏng vấn hiểu biết về bệnh và kiến thức 
phòng bệnh của người dân.
5. Xử lí số liệu: Phần mềm STATA 10.0
III. KẾT QUẢ 
Có 329 người dân tại xã Phụng Hiệp được chọn đưa vào 
nghiên cứu với kết quả: 
Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Đặc điểm SL
Tỉ lệ 
%
Giới tính
Nam 137 41,6
Nữ 192 58,4
Trình độ
Mù chữ 16 4,9
học vấn 80 24,3
Cấp 2 132 40,1
Cấp 3 71 21,6
TCCN 11 3,3
Đại học 19 5,8
Nghề nghiệp
Nội trợ 69 21
Làm ruộng/vườn 84 25,5
Buôn bán 30 9,1
Công nhân 28 8,4
Học sinh – sinh viên 46 14
CB-CNV 36 11
Khác 36 11
Tình trạng xét 
nghiệm virus 
VGB
Đã xét nghiệm 96 29,2
Chưa xét nghiệm 233 70,8
Tình trạng tiêm 
ngừa VGB
Đã tiêm ngừa 82 24,9
Chưa tiêm ngừa
- có ý định tiêm ngừa
- không có ý định
247
171
76
75,1
52 
23,1
Nhóm tuổi
Người lớn (>15 tuổi) 290 88,1
Trẻ em (≤ 15 tuổi) 39 11,9
Tuổi trung bình 
-Nhỏ nhất
-Lớn nhất
42,7 ± 17,7 (tuổi)
10 (tuổi)
81 (tuổi)
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn 27
Bảng 2. Kiến thức về dịch tễ bệnh VGB
Kiến thức Đặc điểm SL Tỉ lệ %
Nghe nói về bệnh 
VGB
Có nghe 264 80,2
Không nghe 65 19,8
Việt Nam thuộc 
vùng dịch bệnh 
VGB lưu hành cao
Có nghe 183 55,8
Không nghe 145 44,2
Bảng 3. Kiến thức về nguyên nhân gây bệnh VGB
Nguyên nhân SL Tỉ lệ %
Virus 189 57,5
Vi khuẩn 26 7,9
Ký sinh trùng 10 3,0
Không biết 104 31,6
Tổng cộng 329 100
Bảng 4. Kiến thức về triệu chứng bệnh VGB
Triệu 
chứng
Biết Không biết Tổng cộng
SL
Tỉ lệ 
%
SL
Tỉ lệ 
%
SL Tỉ lệ %
Sốt 67 20,4 262 79,6 329 100
Mệt mỏi 85 25,8 244 74,2 329 100
Chán ăn 101 30,7 228 69,3 329 100
Vàng da 164 49,9 165 50,1 329 100
Đau hạ 
sườn P
55 16,7 174 83,3 329 100
Gan to 41 12,5 288 87,5 329 100
Tiêu chảy/
Bón
13 4,0 316 96,0 329 100
Bảng 5. Kiến thức về biến chứng bệnh VGB
Biến 
chứng
Biết Không biết Tổng cộng
SL
Tỉ lệ 
%
SL
Tỉ lệ 
%
SL Tỉ lệ %
Viêm 
gan cấp
29 8,8 300 91,2 329 100
Viêm gan 
mạn
46 14,0 283 86,0 329 100
Người 
lành mang 
trùng
11 3,3 318 96,7 329 100
Xơ gan 136 41,3 193 58,7 329 100
Ung thư 
gan
201 61,1 128 38,9 329 100
Bảng 6. Kiến thức về phương pháp xác định nhiễm VGB
Phương pháp SL Tỉ lệ %
Xét nghiệm máu 271 82,4
Xét nghiệm nước bọt 07 2,1
Khác 51 15,5
Tổng cộng 329 100
Bảng 7. Kiến thức về phương pháp điều trị bệnh VGB
Phương pháp điều trị SL Tỉ lệ %
Có điều trị đặc hiệu 182 55,3
Không điều trị đặc hiệu 77 23,4
Không biết 70 21,3
Tổng cộng 329 100
Bảng 8. Kiến thức về đường lây truyền VGB
Đường 
lây truyền
Biết Không biết Tổng cộng
SL
Tỉ lệ 
%
SL
Tỉ lệ 
%
SL Tỉ lệ %
Đường 
máu
216 65,7 113 34,3 329 100
Đường 
tình dục
135 41,0 194 59,0 329 100
Mẹ sang 
con
134 40,7 195 59,3 329 100
Bảng 9. Nguồn thông tin nhận được về VGB
Nguồn thông tin SL Tỉ lệ %
Cán bộ y tế 169 51,1
Đài phát thanh 82 24,9
Đài truyền hình 38 11,6
Tạp chí, báo 05 1,5
Tranh áp phích, tờ rơi 36 10,9
Tổng cộng 329 100
IV. BÀN LUẬN
1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Giới tính: nữ (58,4%) nhiều hơn nam (41,6%), tỉ lệ nữ: 
nam = 1,4:1
Tuổi trung bình: Khá cao 42,7. Trong đó người lớn chiếm 
đa số (88,1%)
Trình độ học vấn: Cấp 2 chiếm đa số (40,1%), tiếp theo là 
cấp 1 (24,3%) và cấp 3 (21,6%). Các trình độ khác chiếm tỉ 
lệ ít, đặc biệt có 16 người (4,6%) mù chữ.
Nghề nghiệp: Nhiều nhất là làm ruộng/vườn (25,5%), 
đứng hàng thứ 2 là nội trợ (21%). Đặc điểm nghề nghiệp này 
cũng phù hợp với sự phân bố về trình độ học vấn và đặc điểm 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn28
về kinh tế xã hội trên điạ bàn xã với kinh tế chủ yếu là dựa 
vào nông nghiệp.
Tình trạng xét nghiệm VGB: Chỉ có 29,2% người dân 
đã được xét nghiệm tầm soát VGB, trong khi đó phần lớn 
(70,8%) người dân chưa được thực hiện xét nghiệm này 
trong thời gian qua.
Tình trạng tiêm ngừa VGB: Có 24,9% người dân đã được 
tiêm ngừa VGB (đa số là trẻ em vì được tham gia chương 
trình tiêm chủng mở rộng). Còn 75,1% người dân chưa được 
tiêm vaccin, trong đó 2/3 số người này có ý định sẽ đi tiêm 
ngừa trong thời gian tới, còn 1/3 không có ý định đi tiêm 
vaccin vì lí do đã lớn tuổi và cho rằng không cần thiết hoặc vì 
hoàn cảnh gia đình khó khăn. Kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi tương tự như trong nghiên cứu của Lý Văn Xuân, Phan 
Thị Quỳnh Trâm (9) với tỉ lệ tiêm ngừa của bệnh nhân đến 
khám tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Phước là 21,45%. 
Trong nghiên cứu của Huỳnh Thị Kim Truyền (8) trên đối 
tượng HSSV ghi nhận sinh viên có tiêm ngừa vaccin VGB 
tương đối cao 40%. Tuy nhiên nhìn chung, tỉ lệ tiêm ngừa 
VGB – biện pháp phòng bệnh hữu hiện nhất hiện nay, trong 
cộng đồng là chưa cao, vì vậy công tác phổ biến về lợi ích 
tiêm ngừa VGB cần được đẩy mạnh để mọi người có thể 
chủ động hơn trong phòng bệnh cho bản thân cũng như cho 
người khác.
2. Kiến thức về dịch tễ bệnh VGB
Đa số (80,2%) người dân đã từng được nghe nói về bệnh 
VGB, tuy nhiên vẫn còn 19,8% người dân chưa bao giờ nghe 
về VGB. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Huỳnh 
Thị Kim Truyền (8) trên đối tượng HSSV ghi nhận có tới 
93% người được phỏng vấn đã nghe về bệnh VGB. Trên đối 
tượng là thai phụ từ 18-45 tuổi đến khám tại Bệnh viện Hùng 
Vương, thành phố Hồ Chí Minh năm 2008, tác giả Đỗ Hữu 
Lợi (4) ghi nhận tỉ lệ các thai phụ nghe về VGB 93,2%. Điều 
này chứng tỏ, nguồn thông tin về bệnh VGB khá phổ biến 
trong cộng đồng.
55,8% người dân biết được thông tin rằng Việt Nam thuộc 
vùng dịch bệnh VGB lưu hành cao. Hiện nay Việt Nam có tỉ 
lệ nhiễm virus VGB là 10 - 15% và là một trong những nước 
có tỉ lệ nhiễm HBV cao nhất thế giới (7).
3. Kiến thức về nguyên nhân gây bệnh VGB
57,5% người dân xã Phụng Hiệp được phỏng vấn biết 
chính xác nguyên nhân gây bệnh VGB là do virus. Tuy nhiên 
đáng lưu ý rằng có tới 42,5% người dân không biết chính 
xác nguyên nhân gây bệnh VGB. Kết quả này cao hơn trong 
nghiên cứu của Nguyễn Minh Ngọc (5) trên bệnh nhân VGB 
đến khám tại Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh ghi nhận 46,5% 
người dân biết đúng nguyên nhân bệnh do virus. Trong khi 
đó, nghiên cứu của Huỳnh Thị Kim Truyền (8) trên đối 
tượng HSSV ghi nhận 76% người được phỏng vấn biết được 
nguyên nhân gây bệnh. Như vậy, kiến thức chung của người 
dân về nguyên nhân gây bệnh VGB là chưa cao.
4. Kiến thức về triệu chứng bệnh VGB
Kết quả nghiên cứu cho thấy người dân đã không biết đầy 
đủ về các triệu chứng của bệnh VGB. Triệu chứng được biết 
nhiều nhất là vàng da cũng chỉ chiếm 49,9%, các triệu chứng 
khác tỉ lệ hiểu biết của người dân cón rất thấp, dao động từ 
12 – 30%. Riêng triệu chứng tiêu chảy/bón chỉ có 4% người 
dân biết. 
Triệu chứng khởi phát VGB không đặc hiệu và mờ nhạt: 
đa số bệnh nhân không có triệu chứng rõ rệt trong thời gian 
dài, đôi khi biểu hiện xơ gan là triệu chứng đầu tiên. Mệt mỏi 
là triệu chứng rất thường gặp, mệt cả khi nghỉ ngơi. Chán ăn, 
mất cảm giác ngon miệng mặc dù vẫn thấy đói. Rối loạn tiêu 
hóa: đầy bụng, tức nặng khó chịu vùng thượng vị, chậm tiêu, 
tiêu phân lỏng. Có thể đau nhẹ hoặc tức nặng vùng gan, một 
số trường hợp bệnh nhân đau dữ dội có thể nhầm bệnh lý 
ngoại khoa, thường do huỷ hoại tế bào gan quá nhiều. Bệnh 
diễn biến mạn tính có những đợt tiến triển xen kẽ những giai 
đoạn ổn định. Ở giai đoạn ổn định, các triệu chứng nghèo 
nàn, không đồng bộ. Giai đoạn tiến triển xuất hiện nhiều rối 
loạn hơn. VGB là bệnh có những diễn biến bệnh phức tạp 
khiến cho bệnh nhân nhiều khi tưởng bệnh mình đã thuyên 
giảm nên chủ quan không tiến hành điều trị bệnh làm cho 
bệnh có thể chuyển sang giai đoạn xấu hơn (1).
5. Kiến thức về biến chứng bệnh VGB
Qua khảo sát người dân xã Phụng Hiệp cho thấy biến 
chứng được nhiều người biết nhất là ung thư gan (61,1%), 
tiếp theo đó là xơ gan (41,3%), các biến chứng khác như 
viêm gan cấp, viêm gan mạn và người lành mang trùng vẫn 
chưa được nhiều người biết với tỉ lệ lần lượt là 8,8%; 14,0% 
và 3,3%.
Theo Nguyễn Minh Ngọc (5), kiến thức về tính nguy 
hiểm của virus VGB của bệnh nhân người lớn bị nhiễm 
virus VGB đến khám tại Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh như 
sau: 90,2% biết nhiễm virus VGB nguy hiểm. Số người biết 
hai biến chứng trở lên là 52,6%. Trong đó, 86,9% biết virus 
VGB có thể gây viêm gan mạn. 90,6% biết virus có thể gây 
xơ gan, 94,2% biết virus có thể gây ung thư gan. 42,6% cho 
rằng virus VGB có thể chuyển thành viêm gan cấp.
Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Thị Kim Truyền (8)trên 
đối tượng HSSV ghi nhận 50% người được phỏng vấn biết 
được sự nguy hiểm của bệnh.
6. Kiến thức về phương pháp xác định nhiễm virus 
VGB
Đa số (82,4%) người dân biết được rằng cần phải xét 
nghiệm máu để xác định nhiễm virus VGB. Để chẩn đoán 
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn 29
chính xác bệnh VGB chỉ có một cách duy nhất là xét nghiệm 
máu. Trước đây để đánh giá hiệu quả của việc điều trị HBV, 
bác sĩ chủ yếu căn cứ vào nồng độ HBV-DNA, là giá trị định 
lượng phản ánh sự sao chép của virus, cho biết số lượng bản 
sao virus hoàn chỉnh trong máu người bệnh. Theo một số 
nghiên cứu gần đây, người bệnh nên làm thêm xét nghiệm 
định lượng kháng nguyên bề mặt HBsAg bên cạnh xét 
nghiệm định lượng DNA của virus VGB để theo dõi hiệu 
quả trị liệu. Sau khi nhiễm HBV, HBsAg là dấu ấn miễn dịch 
đầu tiên hiện diện trong huyết thanh và thường tồn tại từ vài 
tuần đến vài tháng trước khi khởi phát các triệu chứng lâm 
sàng và xuất hiện các dấu ấn sinh hóa khác. Do đó, việc thực 
hiện xét nghiệm nhằm giúp phát hiện được HBsAg trong giai 
đoạn sớm của bệnh cũng như có khả năng nhận diện các thể 
đột biến của HBsAg mang ý nghĩa tích cực đối với người 
bệnh (3)
7. Kiến thức về phương pháp điều trị bệnh VGB
Chỉ có 23,4% người dân được khảo sát biết rằng VGB 
là bệnh lý không có điều trị đặc hiệu. Trong khi đó 55,3% 
người dân cho rằng bệnh VGB có điều trị đặc hiệu và 21,3% 
người dân không biết về vấn đề này. Kết quả trong nghiên 
cứu của Nguyễn Minh Ngọc (5), ghi nhận về kiến thức về 
khả năng điều trị bệnh của bệnh nhân người lớn bị nhiễm 
virus VGB đến khám tại Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh với 
53,5% người biết bệnh VGB chỉ có thể điều trị hạn chế tác 
hại của virus.
8. Kiến thức về đường lây truyền virus VGB
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức về các đường lây 
truyền bệnh VGB của người dân còn thấp: đường lây truyền 
được người dân biết nhiều nhất là đường máu với 65,7% 
người dân hiểu đúng; đường tình dục, mẹ truyền sang con 
lần lượt chiếm 41,0% và 40,7%. Nghiên cứu của tác giả 
Huỳnh Thị Kim Truyền (8) trên đối tượng HSSV ghi nhận 
36% người được phỏng vấn biết được các đường lây truyền 
bệnh. Ngoài ra, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Minh 
Ngọc (5) trên bệnh nhân đến khám tại Viện Pasteur TP. Hồ 
Chí Minh ghi nhận 90,3% biết virus VGB có khả năng lây. 
Trong đó 91,1% biết virus lây qua đường máu hoặc tiêm 
chích không an toàn; 84,8% biết virus có thể lây qua đường 
tình dục; 85,3% biết virus lây qua đường mẹ truyền sang con 
khi sanh. Đáng lưu ý có 34,1% cho rằng virus có thể lây qua 
ăn uống; 19,9% nghĩ virus có thể lây theo đường hô hấp; 
58,5% biết đúng hai đường lây trở lên.
Nhìn chung, kiến thức của người dân trên địa bàn xã về 
đường lây nhiễm virus gây VGB còn chưa cao. Đây chính là 
những kiến thức quan trọng bổ trợ cho nhân dân trong phòng 
bệnh VGB. Vì vậy, vấn đề đặt ra là việc cung cấp kiến thức 
đúng về bệnh VGB là rất cần thiết. Từ những kiến thức đó, 
người dân sẽ áp dụng vào thực tiễn và góp phần quan trọng 
phòng bệnh VGB một cách hiệu quả. Do đó cần tăng cường 
hơn nữa công tác giáo dục, tuyên truyền sức khỏe trong công 
động nói chung và trên địa bàn xã Phụng Hiệp nói riêng về 
bệnh lý nguy hiểm này.
9. Nguồn thông tin nhân được về VGB
Chiếm cao nhất (51,1%) người dân được khảo sát trả lời 
rằng họ nhận được thông tin về bệnh lý VGB từ cán bộ y tế, 
tiếp theo đó là từ đài phát thanh (24,9%), đài truyền hình 
(11,6%), tranh áp phích tờ rơi (10,9%) và thấp nhất là từ 
tạp chí, báo (1,5%). Trong nghiên cứu của Huỳnh Thị Kim 
Truyền (8), nguồn thông tin về bệnh VGB được sinh viên 
tiếp cận nhiều nhất từ ti vi 77%; tiếp đó là từ đài phát thanh 
70%; từ internet, báo, tờ rơi 58%; từ bạn bè, người thân, hàng 
xóm 47%; từ nhà trường, thầy cô giáo 34% và từ nguồn khác 
là 4%. Điều này chứng tỏ nguồn thông tin về bệnh VGB 
được sinh viên tiếp cận khá đa dạng hơn là người dân.
Như vậy, các nguồn thông tin về bệnh VGB được người 
dân tiếp cận khá đa dạng trên nhiều phương tiện thông tin đại 
chúng. Vì vậy, có thể nói bệnh VGB là bệnh khá phổ biến 
và được nhiều đối tượng, các ban ngành, đoàn thể rất quan 
tâm. Ngày nay, bệnh nhân có thể tìm hiểu thông tin từ nhiều 
nguồn khác nhau, các thông tin này có thể đúng hoặc sai. 
Để hạn chế các thông tin sai, cần đẩy mạnh cung cấp thông 
tin qua các kênh chính thống. Các phương tiện thông tin đại 
chúng luôn chiếm ưu thế trong việc cung cấp thông tin, nhất 
là các kiến thức cơ bản. Tuy nhiên, đối với người đang bị 
nhiễm virus, vai trò của bác sỹ rất quan trọng giúp họ hiểu 
rõ tình trạng của mình. Trong tình hình chung của tất cả các 
bệnh viện, bác sỹ có ít thời gian để tư vấn cho từng người 
bệnh, do vậy, cần có sự hỗ trợ từ các nguồn khác như tổ chức 
các câu lạc bộ bệnh nhân viêm gan, in tờ rơi, phát tài liệu 
nhỏ để phổ biến kiến thức
V. KẾT LUẬN
Kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB là 
chưa tốt, cụ thể như sau:
- Về dịch tễ: 80,2% người dân đã từng được nghe nói về 
bệnh VGB
- Về nguyên nhân: 57,5% người dân biết được chính xác 
nguyên nhân gây bệnh là do virus. 
- Về triệu chứng: Được biết nhiều nhất (49,9%) là vàng 
da, các triệu chứng khác tỉ lệ hiểu biết của người dân còn rất 
thấp, dao động từ 12 – 30%. 
- Về biến chứng: Được nhiều người biết nhất là ung thư 
gan (61,1%), tiếp theo đó là xơ gan (41,3%)
- Về phương pháp xác định nhiễm virus VGB: 82,4% 
người dân biết được rằng cần phải xét nghiệm máu để xác 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn30
định nhiễm virus VGB.
- Về phương pháp điều trị: 23,4% người dân biết rằng 
VGB là bệnh lý không có điều trị đặc hiệu. 
- Về đường lây truyền: Được biết nhiều nhất là đường 
máu với 65,7% người dân hiểu đúng; đường tình dục, mẹ 
truyền sang con lần lượt 41,0% và 40,7%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Mai Anh, Hồ Văn Cự, Nguyễn Anh Tuấn (2002), “Tình hình nhiễm virus viêm gan B ở cộng đồng qua điều trị 
tại một số tỉnh miền núi phía Bắc năm 2000-2002”, Thông tin Y dược, số chuyên đề bệnh Y dược, tr. 1-4
2. Vũ Hồng Cương (1998), “Khả năng lây truyền HBsAg, Anti-HBs sang con trong thời kỳ thai sản và vai trò của lây 
nhiễm ngang với trẻ từ 1-5 tuổi”, Nhi khoa tập 7, số 3, tr. 168 – 171
3. Lê Diễm Hương, Lê Kim Ngân, Trần Thị Thảo, Phạm Thị Ngọc Hà (2005), “Đáp ứng miễn dịch sau chủng ngừa viêm 
gan siêu vi B ở trẻ có mẹ mang mầm bệnh HBsAg(+)”, Nhi khoa 2005, số 2, tr. 18-22..
4. Đỗ Hữu Lợi (2008), Kiến thức và thái độ về phòng bệnh viêm gan siêu vi B của các thai phụ từ 18-45 tuổi đến khám 
tại Bệnh viện Hùng Vương thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008, Luận văn tốt nghiệp cử nhân y tế công cộng 2008. 
5. Nguyễn Minh Ngọc, Bùi Hữu Hoàng (2011), “Kiến thức và sự tuân thủ của bệnh nhân người lớn bị nhiễm virus viêm 
gan B đến khám tại Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh”, Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 15, số 1, tr. 291-295
6. Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Quang Tập (2007), “Đánh giá hiểu biết, thái độ thực hành phòng nhiễm vi rút viêm gan B 
của cán bộ y tế thành phố Hải Phòng”, Tạp chí Y học Thực hành (591 + 592), số 12/2007, tr.28 – 32
7. Vũ Thị Tường Vân (1996), Nghiên cứu tình trạng nhiễm virus viêm gan B ở phụ nữ có thai tại Hà Nội và khả năng lây 
truyền của HBV từ mẹ sang con, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Y dược, Học viện Quân Y, tr. 1-39
8. Huỳnh Thị Kim Truyền (2011), “Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng bệnh viêm gan siêu vi B của sinh viên ở ký túc 
xá Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang, Khánh Hòa tháng 4 năm 2010”, Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 15, số 1, tr. 105-111
9. Lý Văn Xuân, Phan Thị Quỳnh Trâm (2009), “Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng bệnh viêm gan siêu vi B của 
bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Phước, tháng 3 năm 2009”, Y học TP. Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản 
Bộ Y tế 14(1) 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_ve_benh_viem_gan_sieu_vi_b_cua_nguoi_dan_xa_phung.pdf