Kiến thức về bệnh viêm gan siêu vi B của người dân xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang năm 2014
Đặt vấn đề: Việc điều trị bệnh viêm gan siêu vi B (VGB) mạn tính là một vấn đề hết sức nan giải, mất nhiều thời gian và tốn kém. Vì vậy, vấn đề phòng ngừa lây nhiễm bệnh lý này luôn là mối quan tâm lớn của toàn xã hội.
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB.
Phương pháp: Cắt ngang mô tả. Kết quả: Kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB: 80,2% người dân đã từng được nghe nói về bệnh VGB; 57,5% người dân biết được nguyên nhân gây bệnh là do virus; triệu chứng được biết nhiều nhất là vàng da (49,9%), biến chứng được nhiều người biết nhất là ung thư gan (61,1%), tiếp theo là xơ gan (41,3%); 23,4% người dân biết rằng VGB là bệnh lý không có điều trị đặc hiệu; lây truyền qua đường máu được 65,7% người dân hiểu đúng; đường tình dục, mẹ truyền sang con lần lượt là 41,0% và 40,7%.
Kết luận: Kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB chưa tốt, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dúc sức khỏe hơn nữa
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức về bệnh viêm gan siêu vi B của người dân xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang năm 2014
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn 25 KIẾN THỨC VỀ BỆNH VIÊM GAN SIÊU VI B CỦA NGƯỜI DÂN XÃ PHỤNG HIỆP, HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH HẬU GIANG NĂM 2014 Nguyễn Văn Lành 1 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Việc điều trị bệnh viêm gan siêu vi B (VGB) mạn tính là một vấn đề hết sức nan giải, mất nhiều thời gian và tốn kém. Vì vậy, vấn đề phòng ngừa lây nhiễm bệnh lý này luôn là mối quan tâm lớn của toàn xã hội. Mục tiêu: Khảo sát kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB. Phương pháp: Cắt ngang mô tả. Kết quả: Kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB: 80,2% người dân đã từng được nghe nói về bệnh VGB; 57,5% người dân biết được nguyên nhân gây bệnh là do virus; triệu chứng được biết nhiều nhất là vàng da (49,9%), biến chứng được nhiều người biết nhất là ung thư gan (61,1%), tiếp theo là xơ gan (41,3%); 23,4% người dân biết rằng VGB là bệnh lý không có điều trị đặc hiệu; lây truyền qua đường máu được 65,7% người dân hiểu đúng; đường tình dục, mẹ truyền sang con lần lượt là 41,0% và 40,7%. Kết luận: Kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB chưa tốt, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dúc sức khỏe hơn nữa. Từ khóa: Kiến thức, viêm gan B. ASTRACT KNOWLEDGE OF HEPATITIS B DISEASE OF THE PEOPLE IN PHỤNG HIEP COMMUNE, PHỤNG HIEP DISTRICT, HẬU GIANG PROVINCE IN 2014 Background: The treatment of chronic hepatitis B (HBV) is extremely difficult problem. So the prevention of this disease is always a major concern of the whole society Objective: Survey people's knowledge about the hepatitis B disease in Phung Hiep Commune in 2014 Study design: Cross-sectional description. Results: People's knowledge about the hepatitis B disease in Phung Hiep Commune as follows: 80.2% of people had heard of HBV disease; 57.5% of people know the cause of the disease is caused by a virus; the best known symptom is jaundice also accounted 49.9%, well-known complication is liver cancer (61.1%), followed by liver cirrhosis (41.3%); 23.4% of people know that HBV is a disease with no specific treatment; bloodborne was most known with 65.7% people; sexual contact, mother-to-child transmission respectively 41.0% and 40.7%. Conclusion: People's knowledge about the hepatitis B disease in Phung Hiep Commune is not high, so need, more health education. Keywords: Knowledge, hepatitis B disease. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm gan do siêu vi viêm gan B (gọi tắt là viêm gan B: VGB) là một bệnh nhiễm trùng nặng và phổ biến, gây bệnh cho hàng triệu người trên khắp thế giới. Ngoài ra, hậu quả của VGB rất nặng nề, bao gồm suy gan mạn, xơ gan và ung thư gan. Một nguy cơ lớn nữa sau VGB là sự tồn tại kéo dài nhiều năm hoặc suốt đời của siêu vi VGB trong máu người đã bị bệnh và là nguồn lây tiềm tàng và nguy hiểm cho cộng đồng(1),(2) Ngày nay, trên thế giới có hơn 2 tỷ người đã từng bị nhiễm virus VGB ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời của họ. Trong số đó, có đến 350 triệu người vẫn còn mang virus VGB trong máu và trở thành người lành mang mầm bệnh; 3/4 dân số thế giới sống trong vùng dịch tễ virus VGB lưu hành cao. Hàng năm, có trên 4 triệu người bị VGB cấp tính, khoảng 1 triệu người mang virus VGB mạn chết vì VGB hoạt tính, xơ gan hoặc ung thư gan. Virus VGB là nguyên nhân của ít nhất 80% trường hợp ung thư gan trên thế giới, chỉ đứng sau thuốc lá gây ung thư phổi(6),(7). Hiện nay Việt Nam có tỉ lệ nhiễm virus VGB (HBV) là 10 - 15% và là một trong những nước có tỉ lệ nhiễm HBV cao nhất thế giới(7). Tại Hậu Giang chưa thấy những báo cáo 1. Trung tâm Y Tế Dự phòng tỉnh Hậu Giang Ngày nhận bài: 20/07/2016 Ngày phản biện: 25/07/2016 Ngày duyệt đăng: 01/08/2016 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn26 tỉ lệ nhiễm HBV. Việc điều trị VGB mạn tính là một vấn đề hết sức nan giải, mất nhiều thời gian và tốn kém. Tuy đã có vaccin tiêm ngừa hiệu quả nhưng nhiễm HBV luôn là mối đe dọa đối với mọi người. Chính vì vậy, vấn đề phòng ngừa lây nhiễm bệnh lý này luôn là mối quan tâm không chỉ của ngành Y tế mà của toàn xã hội. Do đó chúng tôi đã thực hiện đề tài đánh giá kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp về những hiểu biết về bệnh và tác hại của bệnh, cách phòng bệnh của người dân. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để xây dựng chương trình tuyên truyền, giáo dục sức khỏe về bệnh và cách phòng bệnh để nhằm nâng cao hiểu biết của người dân trong cộng đồng để hạn chế sự lưu hành của bệnh và phát hiện sớm bệnh VGB ở từng cá thể và hộ gia đình để góp phần hạn chế sự lây nhiễm HBV, hạn chế dần dần đi đến khống chế bệnh VGB và những hậu quả nặng nề của nó là viêm gan mạn tính, xơ gan và ung thư gan. Vì vậy, sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho công tác điều trị và chăm sóc bệnh nhân. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp về bệnh và tác hại của bệnh, cách phòng bệnh viêm gan B năm 2014. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 2. Đối tượng nghiên cứu: Toàn thể nhân dân của xã Phụng Hiệp, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. - Tiêu chí chọn vào: Người dân >10 tuổi, đang sống trong địa bàn xã Phụng Hiệp đồng ý tham gia nghiên cứu (nếu là trẻ em thì cha mẹ sẽ trả lời phỏng vấn thay). - Tiêu chí loại ra: Người mù chữ, người không đồng ý tham gia nghiên cứu, người không có mặt tại địa phương tại thời điểm nghiên cứu. 3. Cỡ mẫu: Áp dụng công thức: π(1-π) n= -Z2 (1-α⁄2 ) ----------------------------- d2 Z: Khoảng tin cậy = 97% d: Sai số chuẩn = 0,03 Z 1-α/2 = 2,33 π: Tần suất lý thuyết = 10% e: Hiệu lực mẫu = 1,2 (do chọn mẫu qua nhiều giai đoạn) => n = 2,33 x 0,1.0,9 x 1,2/0,0009 = 280 người 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp chọn mẫu: Bằng phương pháp ngẫu nhiên hệ thống với hệ số k. K= tổng số người dân trong xã/280 = 8501/280 = 30. - Công cụ thu thập số liệu: Bộ câu hỏi phỏng vấn dịch tễ học, bộ câu hỏi phỏng vấn hiểu biết về bệnh và kiến thức phòng bệnh của người dân. 5. Xử lí số liệu: Phần mềm STATA 10.0 III. KẾT QUẢ Có 329 người dân tại xã Phụng Hiệp được chọn đưa vào nghiên cứu với kết quả: Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu Đặc điểm SL Tỉ lệ % Giới tính Nam 137 41,6 Nữ 192 58,4 Trình độ Mù chữ 16 4,9 học vấn 80 24,3 Cấp 2 132 40,1 Cấp 3 71 21,6 TCCN 11 3,3 Đại học 19 5,8 Nghề nghiệp Nội trợ 69 21 Làm ruộng/vườn 84 25,5 Buôn bán 30 9,1 Công nhân 28 8,4 Học sinh – sinh viên 46 14 CB-CNV 36 11 Khác 36 11 Tình trạng xét nghiệm virus VGB Đã xét nghiệm 96 29,2 Chưa xét nghiệm 233 70,8 Tình trạng tiêm ngừa VGB Đã tiêm ngừa 82 24,9 Chưa tiêm ngừa - có ý định tiêm ngừa - không có ý định 247 171 76 75,1 52 23,1 Nhóm tuổi Người lớn (>15 tuổi) 290 88,1 Trẻ em (≤ 15 tuổi) 39 11,9 Tuổi trung bình -Nhỏ nhất -Lớn nhất 42,7 ± 17,7 (tuổi) 10 (tuổi) 81 (tuổi) JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn 27 Bảng 2. Kiến thức về dịch tễ bệnh VGB Kiến thức Đặc điểm SL Tỉ lệ % Nghe nói về bệnh VGB Có nghe 264 80,2 Không nghe 65 19,8 Việt Nam thuộc vùng dịch bệnh VGB lưu hành cao Có nghe 183 55,8 Không nghe 145 44,2 Bảng 3. Kiến thức về nguyên nhân gây bệnh VGB Nguyên nhân SL Tỉ lệ % Virus 189 57,5 Vi khuẩn 26 7,9 Ký sinh trùng 10 3,0 Không biết 104 31,6 Tổng cộng 329 100 Bảng 4. Kiến thức về triệu chứng bệnh VGB Triệu chứng Biết Không biết Tổng cộng SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % Sốt 67 20,4 262 79,6 329 100 Mệt mỏi 85 25,8 244 74,2 329 100 Chán ăn 101 30,7 228 69,3 329 100 Vàng da 164 49,9 165 50,1 329 100 Đau hạ sườn P 55 16,7 174 83,3 329 100 Gan to 41 12,5 288 87,5 329 100 Tiêu chảy/ Bón 13 4,0 316 96,0 329 100 Bảng 5. Kiến thức về biến chứng bệnh VGB Biến chứng Biết Không biết Tổng cộng SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % Viêm gan cấp 29 8,8 300 91,2 329 100 Viêm gan mạn 46 14,0 283 86,0 329 100 Người lành mang trùng 11 3,3 318 96,7 329 100 Xơ gan 136 41,3 193 58,7 329 100 Ung thư gan 201 61,1 128 38,9 329 100 Bảng 6. Kiến thức về phương pháp xác định nhiễm VGB Phương pháp SL Tỉ lệ % Xét nghiệm máu 271 82,4 Xét nghiệm nước bọt 07 2,1 Khác 51 15,5 Tổng cộng 329 100 Bảng 7. Kiến thức về phương pháp điều trị bệnh VGB Phương pháp điều trị SL Tỉ lệ % Có điều trị đặc hiệu 182 55,3 Không điều trị đặc hiệu 77 23,4 Không biết 70 21,3 Tổng cộng 329 100 Bảng 8. Kiến thức về đường lây truyền VGB Đường lây truyền Biết Không biết Tổng cộng SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % Đường máu 216 65,7 113 34,3 329 100 Đường tình dục 135 41,0 194 59,0 329 100 Mẹ sang con 134 40,7 195 59,3 329 100 Bảng 9. Nguồn thông tin nhận được về VGB Nguồn thông tin SL Tỉ lệ % Cán bộ y tế 169 51,1 Đài phát thanh 82 24,9 Đài truyền hình 38 11,6 Tạp chí, báo 05 1,5 Tranh áp phích, tờ rơi 36 10,9 Tổng cộng 329 100 IV. BÀN LUẬN 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu Giới tính: nữ (58,4%) nhiều hơn nam (41,6%), tỉ lệ nữ: nam = 1,4:1 Tuổi trung bình: Khá cao 42,7. Trong đó người lớn chiếm đa số (88,1%) Trình độ học vấn: Cấp 2 chiếm đa số (40,1%), tiếp theo là cấp 1 (24,3%) và cấp 3 (21,6%). Các trình độ khác chiếm tỉ lệ ít, đặc biệt có 16 người (4,6%) mù chữ. Nghề nghiệp: Nhiều nhất là làm ruộng/vườn (25,5%), đứng hàng thứ 2 là nội trợ (21%). Đặc điểm nghề nghiệp này cũng phù hợp với sự phân bố về trình độ học vấn và đặc điểm V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn28 về kinh tế xã hội trên điạ bàn xã với kinh tế chủ yếu là dựa vào nông nghiệp. Tình trạng xét nghiệm VGB: Chỉ có 29,2% người dân đã được xét nghiệm tầm soát VGB, trong khi đó phần lớn (70,8%) người dân chưa được thực hiện xét nghiệm này trong thời gian qua. Tình trạng tiêm ngừa VGB: Có 24,9% người dân đã được tiêm ngừa VGB (đa số là trẻ em vì được tham gia chương trình tiêm chủng mở rộng). Còn 75,1% người dân chưa được tiêm vaccin, trong đó 2/3 số người này có ý định sẽ đi tiêm ngừa trong thời gian tới, còn 1/3 không có ý định đi tiêm vaccin vì lí do đã lớn tuổi và cho rằng không cần thiết hoặc vì hoàn cảnh gia đình khó khăn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự như trong nghiên cứu của Lý Văn Xuân, Phan Thị Quỳnh Trâm (9) với tỉ lệ tiêm ngừa của bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Phước là 21,45%. Trong nghiên cứu của Huỳnh Thị Kim Truyền (8) trên đối tượng HSSV ghi nhận sinh viên có tiêm ngừa vaccin VGB tương đối cao 40%. Tuy nhiên nhìn chung, tỉ lệ tiêm ngừa VGB – biện pháp phòng bệnh hữu hiện nhất hiện nay, trong cộng đồng là chưa cao, vì vậy công tác phổ biến về lợi ích tiêm ngừa VGB cần được đẩy mạnh để mọi người có thể chủ động hơn trong phòng bệnh cho bản thân cũng như cho người khác. 2. Kiến thức về dịch tễ bệnh VGB Đa số (80,2%) người dân đã từng được nghe nói về bệnh VGB, tuy nhiên vẫn còn 19,8% người dân chưa bao giờ nghe về VGB. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Huỳnh Thị Kim Truyền (8) trên đối tượng HSSV ghi nhận có tới 93% người được phỏng vấn đã nghe về bệnh VGB. Trên đối tượng là thai phụ từ 18-45 tuổi đến khám tại Bệnh viện Hùng Vương, thành phố Hồ Chí Minh năm 2008, tác giả Đỗ Hữu Lợi (4) ghi nhận tỉ lệ các thai phụ nghe về VGB 93,2%. Điều này chứng tỏ, nguồn thông tin về bệnh VGB khá phổ biến trong cộng đồng. 55,8% người dân biết được thông tin rằng Việt Nam thuộc vùng dịch bệnh VGB lưu hành cao. Hiện nay Việt Nam có tỉ lệ nhiễm virus VGB là 10 - 15% và là một trong những nước có tỉ lệ nhiễm HBV cao nhất thế giới (7). 3. Kiến thức về nguyên nhân gây bệnh VGB 57,5% người dân xã Phụng Hiệp được phỏng vấn biết chính xác nguyên nhân gây bệnh VGB là do virus. Tuy nhiên đáng lưu ý rằng có tới 42,5% người dân không biết chính xác nguyên nhân gây bệnh VGB. Kết quả này cao hơn trong nghiên cứu của Nguyễn Minh Ngọc (5) trên bệnh nhân VGB đến khám tại Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh ghi nhận 46,5% người dân biết đúng nguyên nhân bệnh do virus. Trong khi đó, nghiên cứu của Huỳnh Thị Kim Truyền (8) trên đối tượng HSSV ghi nhận 76% người được phỏng vấn biết được nguyên nhân gây bệnh. Như vậy, kiến thức chung của người dân về nguyên nhân gây bệnh VGB là chưa cao. 4. Kiến thức về triệu chứng bệnh VGB Kết quả nghiên cứu cho thấy người dân đã không biết đầy đủ về các triệu chứng của bệnh VGB. Triệu chứng được biết nhiều nhất là vàng da cũng chỉ chiếm 49,9%, các triệu chứng khác tỉ lệ hiểu biết của người dân cón rất thấp, dao động từ 12 – 30%. Riêng triệu chứng tiêu chảy/bón chỉ có 4% người dân biết. Triệu chứng khởi phát VGB không đặc hiệu và mờ nhạt: đa số bệnh nhân không có triệu chứng rõ rệt trong thời gian dài, đôi khi biểu hiện xơ gan là triệu chứng đầu tiên. Mệt mỏi là triệu chứng rất thường gặp, mệt cả khi nghỉ ngơi. Chán ăn, mất cảm giác ngon miệng mặc dù vẫn thấy đói. Rối loạn tiêu hóa: đầy bụng, tức nặng khó chịu vùng thượng vị, chậm tiêu, tiêu phân lỏng. Có thể đau nhẹ hoặc tức nặng vùng gan, một số trường hợp bệnh nhân đau dữ dội có thể nhầm bệnh lý ngoại khoa, thường do huỷ hoại tế bào gan quá nhiều. Bệnh diễn biến mạn tính có những đợt tiến triển xen kẽ những giai đoạn ổn định. Ở giai đoạn ổn định, các triệu chứng nghèo nàn, không đồng bộ. Giai đoạn tiến triển xuất hiện nhiều rối loạn hơn. VGB là bệnh có những diễn biến bệnh phức tạp khiến cho bệnh nhân nhiều khi tưởng bệnh mình đã thuyên giảm nên chủ quan không tiến hành điều trị bệnh làm cho bệnh có thể chuyển sang giai đoạn xấu hơn (1). 5. Kiến thức về biến chứng bệnh VGB Qua khảo sát người dân xã Phụng Hiệp cho thấy biến chứng được nhiều người biết nhất là ung thư gan (61,1%), tiếp theo đó là xơ gan (41,3%), các biến chứng khác như viêm gan cấp, viêm gan mạn và người lành mang trùng vẫn chưa được nhiều người biết với tỉ lệ lần lượt là 8,8%; 14,0% và 3,3%. Theo Nguyễn Minh Ngọc (5), kiến thức về tính nguy hiểm của virus VGB của bệnh nhân người lớn bị nhiễm virus VGB đến khám tại Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh như sau: 90,2% biết nhiễm virus VGB nguy hiểm. Số người biết hai biến chứng trở lên là 52,6%. Trong đó, 86,9% biết virus VGB có thể gây viêm gan mạn. 90,6% biết virus có thể gây xơ gan, 94,2% biết virus có thể gây ung thư gan. 42,6% cho rằng virus VGB có thể chuyển thành viêm gan cấp. Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Thị Kim Truyền (8)trên đối tượng HSSV ghi nhận 50% người được phỏng vấn biết được sự nguy hiểm của bệnh. 6. Kiến thức về phương pháp xác định nhiễm virus VGB Đa số (82,4%) người dân biết được rằng cần phải xét nghiệm máu để xác định nhiễm virus VGB. Để chẩn đoán JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn 29 chính xác bệnh VGB chỉ có một cách duy nhất là xét nghiệm máu. Trước đây để đánh giá hiệu quả của việc điều trị HBV, bác sĩ chủ yếu căn cứ vào nồng độ HBV-DNA, là giá trị định lượng phản ánh sự sao chép của virus, cho biết số lượng bản sao virus hoàn chỉnh trong máu người bệnh. Theo một số nghiên cứu gần đây, người bệnh nên làm thêm xét nghiệm định lượng kháng nguyên bề mặt HBsAg bên cạnh xét nghiệm định lượng DNA của virus VGB để theo dõi hiệu quả trị liệu. Sau khi nhiễm HBV, HBsAg là dấu ấn miễn dịch đầu tiên hiện diện trong huyết thanh và thường tồn tại từ vài tuần đến vài tháng trước khi khởi phát các triệu chứng lâm sàng và xuất hiện các dấu ấn sinh hóa khác. Do đó, việc thực hiện xét nghiệm nhằm giúp phát hiện được HBsAg trong giai đoạn sớm của bệnh cũng như có khả năng nhận diện các thể đột biến của HBsAg mang ý nghĩa tích cực đối với người bệnh (3) 7. Kiến thức về phương pháp điều trị bệnh VGB Chỉ có 23,4% người dân được khảo sát biết rằng VGB là bệnh lý không có điều trị đặc hiệu. Trong khi đó 55,3% người dân cho rằng bệnh VGB có điều trị đặc hiệu và 21,3% người dân không biết về vấn đề này. Kết quả trong nghiên cứu của Nguyễn Minh Ngọc (5), ghi nhận về kiến thức về khả năng điều trị bệnh của bệnh nhân người lớn bị nhiễm virus VGB đến khám tại Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh với 53,5% người biết bệnh VGB chỉ có thể điều trị hạn chế tác hại của virus. 8. Kiến thức về đường lây truyền virus VGB Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức về các đường lây truyền bệnh VGB của người dân còn thấp: đường lây truyền được người dân biết nhiều nhất là đường máu với 65,7% người dân hiểu đúng; đường tình dục, mẹ truyền sang con lần lượt chiếm 41,0% và 40,7%. Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Thị Kim Truyền (8) trên đối tượng HSSV ghi nhận 36% người được phỏng vấn biết được các đường lây truyền bệnh. Ngoài ra, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Minh Ngọc (5) trên bệnh nhân đến khám tại Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh ghi nhận 90,3% biết virus VGB có khả năng lây. Trong đó 91,1% biết virus lây qua đường máu hoặc tiêm chích không an toàn; 84,8% biết virus có thể lây qua đường tình dục; 85,3% biết virus lây qua đường mẹ truyền sang con khi sanh. Đáng lưu ý có 34,1% cho rằng virus có thể lây qua ăn uống; 19,9% nghĩ virus có thể lây theo đường hô hấp; 58,5% biết đúng hai đường lây trở lên. Nhìn chung, kiến thức của người dân trên địa bàn xã về đường lây nhiễm virus gây VGB còn chưa cao. Đây chính là những kiến thức quan trọng bổ trợ cho nhân dân trong phòng bệnh VGB. Vì vậy, vấn đề đặt ra là việc cung cấp kiến thức đúng về bệnh VGB là rất cần thiết. Từ những kiến thức đó, người dân sẽ áp dụng vào thực tiễn và góp phần quan trọng phòng bệnh VGB một cách hiệu quả. Do đó cần tăng cường hơn nữa công tác giáo dục, tuyên truyền sức khỏe trong công động nói chung và trên địa bàn xã Phụng Hiệp nói riêng về bệnh lý nguy hiểm này. 9. Nguồn thông tin nhân được về VGB Chiếm cao nhất (51,1%) người dân được khảo sát trả lời rằng họ nhận được thông tin về bệnh lý VGB từ cán bộ y tế, tiếp theo đó là từ đài phát thanh (24,9%), đài truyền hình (11,6%), tranh áp phích tờ rơi (10,9%) và thấp nhất là từ tạp chí, báo (1,5%). Trong nghiên cứu của Huỳnh Thị Kim Truyền (8), nguồn thông tin về bệnh VGB được sinh viên tiếp cận nhiều nhất từ ti vi 77%; tiếp đó là từ đài phát thanh 70%; từ internet, báo, tờ rơi 58%; từ bạn bè, người thân, hàng xóm 47%; từ nhà trường, thầy cô giáo 34% và từ nguồn khác là 4%. Điều này chứng tỏ nguồn thông tin về bệnh VGB được sinh viên tiếp cận khá đa dạng hơn là người dân. Như vậy, các nguồn thông tin về bệnh VGB được người dân tiếp cận khá đa dạng trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng. Vì vậy, có thể nói bệnh VGB là bệnh khá phổ biến và được nhiều đối tượng, các ban ngành, đoàn thể rất quan tâm. Ngày nay, bệnh nhân có thể tìm hiểu thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, các thông tin này có thể đúng hoặc sai. Để hạn chế các thông tin sai, cần đẩy mạnh cung cấp thông tin qua các kênh chính thống. Các phương tiện thông tin đại chúng luôn chiếm ưu thế trong việc cung cấp thông tin, nhất là các kiến thức cơ bản. Tuy nhiên, đối với người đang bị nhiễm virus, vai trò của bác sỹ rất quan trọng giúp họ hiểu rõ tình trạng của mình. Trong tình hình chung của tất cả các bệnh viện, bác sỹ có ít thời gian để tư vấn cho từng người bệnh, do vậy, cần có sự hỗ trợ từ các nguồn khác như tổ chức các câu lạc bộ bệnh nhân viêm gan, in tờ rơi, phát tài liệu nhỏ để phổ biến kiến thức V. KẾT LUẬN Kiến thức của người dân xã Phụng Hiệp về bệnh VGB là chưa tốt, cụ thể như sau: - Về dịch tễ: 80,2% người dân đã từng được nghe nói về bệnh VGB - Về nguyên nhân: 57,5% người dân biết được chính xác nguyên nhân gây bệnh là do virus. - Về triệu chứng: Được biết nhiều nhất (49,9%) là vàng da, các triệu chứng khác tỉ lệ hiểu biết của người dân còn rất thấp, dao động từ 12 – 30%. - Về biến chứng: Được nhiều người biết nhất là ung thư gan (61,1%), tiếp theo đó là xơ gan (41,3%) - Về phương pháp xác định nhiễm virus VGB: 82,4% người dân biết được rằng cần phải xét nghiệm máu để xác V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn30 định nhiễm virus VGB. - Về phương pháp điều trị: 23,4% người dân biết rằng VGB là bệnh lý không có điều trị đặc hiệu. - Về đường lây truyền: Được biết nhiều nhất là đường máu với 65,7% người dân hiểu đúng; đường tình dục, mẹ truyền sang con lần lượt 41,0% và 40,7%. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Nguyễn Mai Anh, Hồ Văn Cự, Nguyễn Anh Tuấn (2002), “Tình hình nhiễm virus viêm gan B ở cộng đồng qua điều trị tại một số tỉnh miền núi phía Bắc năm 2000-2002”, Thông tin Y dược, số chuyên đề bệnh Y dược, tr. 1-4 2. Vũ Hồng Cương (1998), “Khả năng lây truyền HBsAg, Anti-HBs sang con trong thời kỳ thai sản và vai trò của lây nhiễm ngang với trẻ từ 1-5 tuổi”, Nhi khoa tập 7, số 3, tr. 168 – 171 3. Lê Diễm Hương, Lê Kim Ngân, Trần Thị Thảo, Phạm Thị Ngọc Hà (2005), “Đáp ứng miễn dịch sau chủng ngừa viêm gan siêu vi B ở trẻ có mẹ mang mầm bệnh HBsAg(+)”, Nhi khoa 2005, số 2, tr. 18-22.. 4. Đỗ Hữu Lợi (2008), Kiến thức và thái độ về phòng bệnh viêm gan siêu vi B của các thai phụ từ 18-45 tuổi đến khám tại Bệnh viện Hùng Vương thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008, Luận văn tốt nghiệp cử nhân y tế công cộng 2008. 5. Nguyễn Minh Ngọc, Bùi Hữu Hoàng (2011), “Kiến thức và sự tuân thủ của bệnh nhân người lớn bị nhiễm virus viêm gan B đến khám tại Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh”, Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 15, số 1, tr. 291-295 6. Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Quang Tập (2007), “Đánh giá hiểu biết, thái độ thực hành phòng nhiễm vi rút viêm gan B của cán bộ y tế thành phố Hải Phòng”, Tạp chí Y học Thực hành (591 + 592), số 12/2007, tr.28 – 32 7. Vũ Thị Tường Vân (1996), Nghiên cứu tình trạng nhiễm virus viêm gan B ở phụ nữ có thai tại Hà Nội và khả năng lây truyền của HBV từ mẹ sang con, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Y dược, Học viện Quân Y, tr. 1-39 8. Huỳnh Thị Kim Truyền (2011), “Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng bệnh viêm gan siêu vi B của sinh viên ở ký túc xá Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang, Khánh Hòa tháng 4 năm 2010”, Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 15, số 1, tr. 105-111 9. Lý Văn Xuân, Phan Thị Quỳnh Trâm (2009), “Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng bệnh viêm gan siêu vi B của bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Phước, tháng 3 năm 2009”, Y học TP. Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Bộ Y tế 14(1)
File đính kèm:
kien_thuc_ve_benh_viem_gan_sieu_vi_b_cua_nguoi_dan_xa_phung.pdf

