Kiến thức về bệnh và tuân thủ các khuyến cáo về hành vi ở người bệnh tăng huyết áp tại bệnh viện Cẩm Khê, Phú Thọ, năm 2015-2016

Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng kiến thức về bệnh tăng huyết áp và phân tích một số yếu tố liên quan

đến sự tuân thủ các khuyến cáo về hành vi của người bệnh tăng huyết áp tại Bệnh viện Đa khoa huyện Cẩm

Khê, Phú Thọ năm 2015 - 2016. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện bao gồm nghiên cứu hồ sơ

bệnh án và phỏng vấn trực tiếp 263 người bệnh tăng huyết áp nguyên phát, đang điều trị ngoại trú trên 12

tháng về kiến thức tăng huyết áp, mức độ thực hiện hành vi ăn giảm muối, giảm mỡ, giảm rượu/bia, bỏ hoặc

giảm thuốc lá, hoạt động thể lực, theo dõi huyết áp, khám định kỳ. Kết quả cho thấy chỉ 8,6% người bệnh có

kiến thức tốt về chế độ ăn, lối sống, loại thuốc đang dùng, dấu hiệu cần xin ý kiến bác sĩ. Tuân thủ tốt các

hành vi được khuyến cáo là 19%. Nữ giới tuân thủ các hành vi được khuyến cáo tốt hơn nam. Vì vậy, các

can thiệp trên bệnh nhân tăng huyết áp cần được thực hiện tích cực và trực tiếp hơn để tăng hiệu quả điều

trị cho người bệnh.

pdf 9 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức về bệnh và tuân thủ các khuyến cáo về hành vi ở người bệnh tăng huyết áp tại bệnh viện Cẩm Khê, Phú Thọ, năm 2015-2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức về bệnh và tuân thủ các khuyến cáo về hành vi ở người bệnh tăng huyết áp tại bệnh viện Cẩm Khê, Phú Thọ, năm 2015-2016

Kiến thức về bệnh và tuân thủ các khuyến cáo về hành vi ở người bệnh tăng huyết áp tại bệnh viện Cẩm Khê, Phú Thọ, năm 2015-2016
 TCNCYH 113 (4) - 2018 173 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Địa chỉ liên hệ: Kim Bảo Giang, Viện Đào tạo Y học Dự 
phòng và Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội 
Email: [email protected] 
Ngày nhận: 19/6/2018 
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 
KIẾN THỨC VỀ BỆNH VÀ TUÂN THỦ CÁC KHUYẾN CÁO 
VỀ HÀNH VI Ở NGƯỜI BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP TẠI BỆNH VIỆN 
CẨM KHÊ, PHÚ THỌ, NĂM 2015 - 2016 
Kim Bảo Giang1, Hồ Thị Kim Thanh1, Nguyễn Hải Minh2 
1Trường Đạị học Y Hà Nội; 2Bệnh viện huyện Cẩm Khê, Phú Thọ 
Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng kiến thức về bệnh tăng huyết áp và phân tích một số yếu tố liên quan 
đến sự tuân thủ các khuyến cáo về hành vi của người bệnh tăng huyết áp tại Bệnh viện Đa khoa huyện Cẩm 
Khê, Phú Thọ năm 2015 - 2016. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện bao gồm nghiên cứu hồ sơ 
bệnh án và phỏng vấn trực tiếp 263 người bệnh tăng huyết áp nguyên phát, đang điều trị ngoại trú trên 12 
tháng về kiến thức tăng huyết áp, mức độ thực hiện hành vi ăn giảm muối, giảm mỡ, giảm rượu/bia, bỏ hoặc 
giảm thuốc lá, hoạt động thể lực, theo dõi huyết áp, khám định kỳ. Kết quả cho thấy chỉ 8,6% người bệnh có 
kiến thức tốt về chế độ ăn, lối sống, loại thuốc đang dùng, dấu hiệu cần xin ý kiến bác sĩ. Tuân thủ tốt các 
hành vi được khuyến cáo là 19%. Nữ giới tuân thủ các hành vi được khuyến cáo tốt hơn nam. Vì vậy, các 
can thiệp trên bệnh nhân tăng huyết áp cần được thực hiện tích cực và trực tiếp hơn để tăng hiệu quả điều 
trị cho người bệnh. 
Từ khoá: Tăng huyết áp, tuân thủ điều trị, hành vi, Việt Nam 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ người 
mắc tăng huyết áp đang tăng dần hàng năm, 
từ 26,4% dân số toàn thế giới năm 2000 dự 
tính sẽ tăng lên 29,2% vào năm 2025 [1]. 
Tăng huyết áp là nguyên nhân gây tàn phế và 
tử vong hàng đầu ở các nước đang phát triển 
[2]. Điều trị tăng huyết áp có thể giảm 40% 
nguy cơ tai biến mạch máu não và 15% nguy 
cơ nhồi máu cơ tim. Tỉ lệ tăng huyết áp tại 
Việt Nam đang ngày càng gia tăng, từ 1% 
năm 1960 lên đến 11,7% năm 1992 và đến 
47,3% ở người từ 25 tuổi trở lên [3; 4]. Một 
trong những khuyến cáo để tăng hiệu quả 
điều trị tăng huyết áp là giảm các hành vi nguy 
cơ bao gồm uống rượu, hút thuốc lá, hạn chế 
vận động thể lực, chế độ ăn giàu chất béo, 
mặn, không khám định kỳ và theo dõi huyết áp 
thường xuyên. Tuy nhiên, tuân thủ các khuyến 
cáo về hành vi của người bệnh tăng huyết áp 
còn hạn chế. Nghiên cứu tại Israel năm 2011 
cho thấy chỉ có khoảng 1/2 người bệnh tuân 
thủ khuyến cáo về hoạt động thể lực (48%) và 
chế độ ăn (45%) và chỉ có 36% bỏ hút thuốc 
[5]. Có nghiên cứu báo cáo tỉ lệ tuân thủ về 
chế độ ăn chỉ là 22,5% [6]. Nghiên cứu trước 
đây cho thấy tỉ lệ tuân thủ điều trị tăng huyết 
áp nói chung ở Việt Nam chỉ đạt hơn 30% [7, 
8]. Ở Việt Nam, nghiên cứu liên quan đến 
tuân thủ các khuyến cáo về hành vi của người 
bệnh tăng huyết áp chưa được công bố rộng 
rãi. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu mô tả kiến 
thức về bệnh tăng huyết áp và phân tích một 
số yếu tố liên quan với tuân thủ các khuyến 
cáo về hành vi của người bệnh tăng huyết áp 
tại bệnh viện Đa khoa huyện Cẩm Khê tỉnh 
Phú Thọ năm 2015 - 2016. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu: từ 
tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2016 tại 
Khoa Khám bệnh của bệnh viện đa khoa 
huyện Cẩm Khê. 
 174 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2. Đối tượng 
 Người bệnh được chẩn đoán là tăng huyết 
áp trong chương trình quản lý bệnh tăng huyết 
áp đã được điều trị nội trú dò liều thuốc, tham 
gia điều trị ngoại trú, khám bệnh định kỳ từ 12 
tháng trở lên. 
3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 
bao gồm nghiên cứu hồ sơ bệnh án và phỏng 
vấn trực tiếp người bệnh. 
Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu 
của Tổ chức Y tế thế giới cho ước lượng tỉ lệ. 
Tỉ lệ tuân thủ với khuyến cáo hành vi về chế 
độ ăn là p = 0,225 theo số liệu được báo cáo 
trước [6] và với độ xác định tương đối ε = 0,2, 
với độ tin cậy α = 0,05. Dự phòng 20% đối 
tượng không đến khám và 10% các trường 
hợp mất dữ liệu. Cỡ mẫu là 269 người bệnh. 
Chọn mẫu: Từ danh sách người bệnh 
khám bệnh ngoại trú có mã ICD là J10 và có 
thời gian điều trị tại bệnh viện ít nhất 12 tháng, 
chọn ngẫu nhiên 269 người. Kết quả thu thập 
được đầy đủ thông tin của 263 người bệnh. 
4. Biến số nghiên cứu chính 
Các đặc điểm của người bệnh: bao gồm 
tuổi, giới, nghề nghiệp, học vấn, thời gian mắc 
bệnh theo năm, số lần khám tại bệnh viện 
trong 12 tháng qua. 
Kiến thức về bệnh được đánh giá thông 
qua hiểu biết về 5 vấn đề gồm chế độ ăn, chế 
độ vận động, lối sống phù hợp, thời điểm phải 
hỏi bác sĩ, các loại thuốc đang dùng. Mỗi câu 
trả lời cho các câu hỏi này được bác sĩ điều trị 
tại Khoa khám bệnh hỏi theo bảng hỏi thiết kế 
sẵn và đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 3 
với 1 là “Không biết”; 2 là “Biết nhưng chưa 
đủ”; 3 là “Biết đầy đủ”. “Biết đầy đủ” có nghĩa 
là kể đầy đủ tên thuốc hoặc kể đủ lưu ý về chế 
độ ăn, chế độ luyện tập, về hút thuốc lá, uống 
rượu bia, theo dõi huyết áp, giờ uống thuốc, 
các dấu hiệu biến chứng. “Biết nhưng chưa 
đủ” là kể được một vài nhưng chưa đủ hết tên 
thuốc hoặc kể đủ lưu ý về chế độ ăn, chế độ 
luyện tập, về hút thuốc lá, uống rượu bia, theo 
dõi huyết áp, giờ uống thuốc, các dấu hiệu 
biến chứng. Điểm kiến thức thấp nhất là 5 và 
cao nhất là 15 và phân loại dựa trên khoảng 
tứ phân vị, gồm kiến thức kém ( 5 - 8 điểm); 
kiến thức trung bình ( 9 - 12 điểm); kiến thức 
tốt (13 - 15 điểm). 
Mức độ tuân thủ các khuyến cáo về hành 
vi gồm có ăn giảm mặn, ăn giảm mỡ/chất béo, 
giảm/cai rượu bia, giảm/cai hút thuốc, tăng 
cường hoạt động thể lực, theo dõi huyết áp tại 
nhà. Mức độ tuân thủ cho từng hành vi bao 
gồm: 1 điểm (không tuân thủ; tuân thủ rất ít: 
thực hiện < 25% số ngày trong tháng); 2 điểm 
(tuân thủ ít , thực hiện từ 25% đến dưới 50% 
số ngày trong tháng); 3 điểm (tuân thủ thường 
xuyên từ 50 đến < 75% số ngày trong tháng); 
4 điểm (tuân thủ rất thường xuyên từ 75 đến 
100% số ngày trong tháng). Mức độ tuân thủ 
được thể hiện bằng tổng điểm tuân thủ, dao 
động từ 6 đến 30 điểm. Mức độ tuân thủ 
chung được phân loại dựa trên khoảng tứ 
phân vị của tổng điểm: từ 6- 18 điểm là không 
tuân thủ/tuân thủ kém; từ 19 - 24 điểm là tuân 
thủ trung bình; từ 25 đến 30 điểm là tuân thủ 
tốt. 
Quá trình thu thập số liệu: 7 cán bộ bệnh 
viện trao đổi thống nhất để tham gia phỏng 
vấn người bệnh được chọn tại khoa khám 
bệnh khi đến tái khám. 
5. Xử lý và phân tích số liệu: Các phiếu 
điều tra được kiểm tra để loại trừ các phiếu 
điền không đầy đủ. Số liệu được nhập vào 
phần mềm Epi Data 3.1., được làm sạch và 
được phân tích bằng phần mềm STATA 12. 
Thống kê mô tả, ước tính tần số và tỷ lệ của 
các biến số; Để xác định liên quan của tuân 
thủ khuyến cáo về hành vi với các yếu tố văn 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 175 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
hoá, xã hội hồi quy tuyến tính đa biến với biến 
phụ thuộc là điểm tuân thủ thực hành hành vi, 
biến độc lập là biến số về đặc trưng cá nhân 
của người bệnh như tuổi, giới, nghề nghiệp, 
học vấn, thời gian bị bệnh, điểm nhận thức, 
huyết áp tối đa cao nhất. 
6. Đạo đức trong nghiên cứu: Đối tượng 
hoàn toàn tự nguyện tham gia sau khi được 
giải thích về mục đích, nội dung nghiên cứu. 
Mọi thông tin cá nhân thu được qua phỏng 
vấn đều được bảo mật. Nghiên cứu được sự 
cho phép của lãnh đạo bệnh viện và đề cương 
được thông qua hội đồng đào tạo chuyên 
khoa cấp II tại trường đại học Y Hà Nội. 
III. KẾT QUẢ 
1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Biến số Số lượng Tỷ lệ % 
Giới 
Nam 157 59,7 
Nữ 106 40,3 
Nhóm tuổi 
< 60 59 22,4 
61 - 80 179 68,1 
> 80 25 9,5 
Nghề nghiệp 
Cán bộ hành chính, hưu trí 100 38,0 
Nghề nông 151 57,4 
Buôn bán 2 0,8 
Khác 10 3,8 
Trinh độ học 
vấn 
Trung cấp trở lên 34 12,9 
Trung học phổ thông 77 29,3 
Trung học cơ sở 98 37,3 
Tiểu học 26 9,9 
Dưới tiểu học 28 10,6 
Nguồn thu 
nhập 
Lương tháng, lương hưu 104 39,6 
Chăn nuôi, trồng trọt, buôn bán 141 53,6 
Khác 18 6,8 
Thời gian bị 
bệnh 
< 2 năm 77 29,3 
Từ 3 - 6 năm 117 44,5 
Từ 7 - 10 năm 47 17,9 
> 10 năm 22 8,4 
Tổng số 263 100,0 
 176 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bảng 1 cho thấy, trong số 263 đối tượng nghiên cứu có 59,7% là nam và 40,3% nữ. Tỷ lệ đối 
tượng dưới 60 tuổi chiếm 22,4%, từ 60 đến 80 tuổi chiếm 68,1%. Có 57,4% đối tượng nghiên 
cứu làm nghề nông, 38% là cán bộ hành chính hoặc hưu trí. Đối tượng học hết trung học cơ sở 
chiếm 37,3%, trung học phổ thông chiếm 29,3%. Có 51,7% số người có nguồn thu nhập từ chăn 
nuôi và trồng trọt. Có tới 91,6% người bệnh có thời gian bị bệnh dưới 10 năm. 
Bảng 2. Kiến thức của người bệnh về bệnh tăng huyết áp 
Biến số Số lượng Tỷ lệ % 
Hiểu biết về chế độ ăn 
Không biết 4 1,5 
Biết nhưng không đầy đủ 174 66,2 
Biết đầy đủ 85 32,3 
Hiểu biết về chế độ vận động 
Không biết 19 7,2 
Biết nhưng không đầy đủ 210 79,8 
Biết đầy đủ 34 12,9 
Hiểu biết về lối sống phù hợp 
Không biết 13 4,9 
Biết nhưng không đầy đủ 228 86,7 
Biết đầy đủ 22 8,4 
Khi nào phải hỏi ý kiến bác sĩ 
Không biết 18 6,8 
Biết nhưng không đầy đủ 231 87,8 
Biết đầy đủ 14 5,3 
Kể tên các loại thuốc đang dùng 
Không biết 141 53,6 
Biết nhưng không đầy đủ 95 36,1 
Biết đầy đủ 27 10,3 
Mức độ nhận thức 
Kém 29 11,0 
Trung bình 212 80,6 
Tốt 22 8,4 
Tổng số 263 100,0 
Liên quan đến kiến thức có các nội dung về chế độ ăn, chế độ vận động, lối sống phù hợp, 
dấu hiệu nguy hiểm cần đi khám, tên một số thuốc hạ huyết áp thông thường. Kết quả cho thấy 
có 80,6% số người bệnh có mức độ kiến thức về bệnh tăng huyết áp ở mức độ trung bình, có 
hiểu biết nhưng không đầy đủ, chỉ có 8,4% số người bệnh có kiến thức tương đối đầy đủ, và còn 
11% số người bệnh hiểu biết kém về bệnh tăng huyết áp. Đối với từng chủ đề về kiến thức, tỉ lệ 
người bệnh biết đầy đủ cao nhất là về chế độ ăn (32,3%), về chế độ vận động (12,9%), về tên 
các loại thuốc đang dùng (10,3%). 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 177 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2. Tuân thủ các khuyến cáo về hành vi 
Bảng 3. Thực hành các hành vi được khuyến cáo của người bệnh tăng huyết áp 
Biến số Số lượng Tỷ lệ% 
Ăn giảm mặn 
Rất ít (< 25% số ngày) 33 12,5 
Ít (từ 25 - 50% số ngày) 47 17,9 
Thường xuyên (50 - 75%) 168 63,9 
Rất thường xuyên (75 - 100%) 15 5,7 
Ăn giảm mỡ 
Không 3 1,1 
Rất ít (<25% số ngày) 33 12,5 
Ít (từ 25 - 50% số ngày) 24 9,1 
Thường xuyên (50 - 75%) 159 60,5 
Rất thường xuyên (75 - 100%) 44 16,7 
Giảm/cai rượu 
bia 
Không 3 1,1 
Rất ít (< 25% số ngày) 31 11,8 
Ít (từ 25 - 50% số ngày) 17 6,5 
Thường xuyên (50 - 75%) 71 27,0 
Rất thường xuyên (75 - 100%) 141 53,6 
Giảm/cai thuốc 
lá/ thuốc lào 
Không 9 3,4 
Rất ít (< 25% số ngày) 33 12,5 
Ít (từ 25 - 50% số ngày) 7 2,7 
Thường xuyên (50 - 75%) 38 14,4 
Rất thường xuyên (75 - 100%) 176 66,9 
Tăng cường vận 
động thể lực 
Rất ít (< 25% số ngày) 27 10,3 
Ít (từ 25 - 50% số ngày) 29 11,0 
Thường xuyên (50 - 75%) 133 50,6 
Rất thường xuyên (75 - 100%) 74 28,1 
Theo dõi huyết 
áp tại nhà 
Không đo huyết áp 4 1,5 
Không có máy đo, thỉnh thoảng nhờ đo 100 38,0 
Có máy đo, thỉnh thoảng mới đo 68 25,9 
Có máy đo, đo hàng ngày, không ghi chép 38 14,4 
Có máy đo, đo, ghi chép hàng ngày 53 20,1 
 178 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Biến số Số lượng Tỷ lệ% 
Mức độ tuân thủ 
khuyến cáo về 
hành vi 
Kém 7 2,7 
Trung bình 205 77,9 
Tốt 51 19,4 
 Tổng số 263 100,0 
Tỉ lệ % người bệnh tăng huyết áp có tuân thủ các khuyến cáo về hành vi ở mức tốt là 19,4%, 
ở mức trung bình là 77,9%. Hành vi được thực hiện ở mức độ “rất thường xuyên” cao nhất là “cai 
thuốc lá” (66,9%), tiếp theo là “Giảm/cai bia rượu” (53,6%), “tăng cường vận động thể 
lực” (28,1%), “đo huyết áp và ghi chép hàng ngày” (20,1%). 
3. Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ khuyến cáo về hành vi 
Bảng 4. Mô hình hồi quy tuyến tính về một số yếu tố liên quan đến mức độ 
tuân thủ khuyến cáo về hành vi 
 Biến số Hệ số p 
Tuổi 0,01 0,4530 
Giới 
Nam 
Nữ* 1,20 0,0000 
Học vấn 
Trung cấp trở lên 
Trung học phổ thông 0,18 0,6960 
Trung học cơ sở 0,26 0,6000 
Tiểu học 0,41 0,5250 
Dưới tiểu học 0,16 0,8150 
Nghề nghiệp 
Cán bộ hành chính 
Hưu trí -0,58 0,4230 
Nghề nông -0,45 0,2020 
Buôn bán 1,72 0,2600 
Khác -0,79 0,2650 
Điểm nhận thức 0,03 0,7700 
Thời gian mắc bệnh -0,03 0,3370 
Huyết áp tối đa cao nhất 0,01 0,0470 
Huyết áp tối thiểu cao nhất -0,03 0,0730 
Số lần đi khám -0,03 0,5800 
_cons 22,29 0,0000 
p = 0,012; R2 = 0,11 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 179 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Kết quả ở bảng 4 cho thấy việc tuân thủ các khuyến cáo hành vi có liên quan có ý nghĩa thống 
kê với giới và với chỉ số huyết áp cao nhất người bệnh từng có. Theo kết quả nữ tuân thủ tốt hơn 
nam 1,2 điểm mức độ tuân thủ, với độ tin cậy trên 99%. Người có huyết áp cao hơn tuân thủ tốt 
hơn. 
IV. BÀN LUẬN 
Theo nghiên cứu này mức độ kiến thức về 
bệnh tăng huyết áp của người bệnh tăng 
huyết áp còn hạn chế, dù thời gian theo dõi và 
điều trị tăng huyết áp từ 12 tháng trở lên. 
Phần lớn (80,6%) người bệnh chỉ có kiến thức 
ở mức chưa đầy đủ và chỉ có 8,4% người 
bệnh có đủ kiến thức cơ bản. Chủ đề mà 
người bệnh có kiến thức cao nhất là “những 
lưu ý về chế độ ăn” cũng chỉ có tỉ lệ hiểu biết 
đầy đủ ở mức 32,3%. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi về kiến thức của người bệnh tăng 
huyết áp thấp hơn kiến thức của một số 
nghiên cứu khác. Nghiên cứu tại Pakistan cho 
thấy tỉ lệ người bệnh trả lời đúng câu hỏi liên 
quan đến chế độ ăn là 45,2% [6]. Nghiên cứu 
trên người bệnh tăng huyết áp ở Israel, với tỉ 
lệ trả lời đúng các câu hỏi liên quan đến hậu 
quả của huyết áp không ổn định, quá cân là 
yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp, cần thiết 
cải thiện chế độ ăn đều trên 80% [5]. Nghiên 
cứu của Angelina Alphonce Joho cho thấy tỉ lệ 
người bệnh có nhận thức tốt về mức độ trầm 
trọng của bệnh từ 46% ở nhóm không tuân 
thủ điều trị và 53,7% ở nhóm tuân thủ điều trị 
[9]. Khác nhau về mức độ kiến thức của người 
bệnh giữa các nghiên cứu có thể giải thích bởi 
sự khác biệt về cấu trúc và câu hỏi phỏng vấn, 
cách tiếp cận trong đánh giá kiến thức. Nghiên 
cứu của chúng tôi chủ yếu đặt câu hỏi để đối 
tượng trả lời, sau đó người phỏng vấn sẽ 
đánh dấu và những lựa chọn phù hợp với câu 
trả lời của người trả lời. Nghiên cứu của tác 
giả ở Israel là câu hỏi đóng với câu trả lời là 
“Đúng” hoặc “sai”. Vì vậy có thể tỉ lệ có kiến 
thức đúng ở nghiên cứu của chúng tôi có thể 
thấp hơn do câu hỏi khó hơn, đòi hỏi đối 
tượng phải có câu trả lời cụ thể, trong khi 
nghiên cứu của Israel chỉ cần lựa chọn câu trả 
lời có sẵn. Nghiên cứu của Angelina laị đánh 
giá kiến thức dựa trên các câu hỏi theo mô 
hình Niềm tin sức khoẻ, với nhiều câu hỏi 
được đặt ra cho phần “Nhận thức về mức độ 
trầm trọng của bệnh” và “Nhận thức về mức 
nhạy cảm của bệnh”. Sự khác biệt cũng có thể 
do tư vấn hỗ trợ nâng cao nhận thức cho 
người bệnh khác nhau giữa các hệ thống 
chăm sóc sức khoẻ. 
Việc tuân thủ các khuyến cáo về hành vi 
của người bệnh cũng còn rất khiêm tốn. Hành 
vi có mức độ tuân thủ thường xuyên cao nhất 
là tuân thủ trong giảm/cai thuốc lá chỉ là 
66,9% và giảm/cai rượu bia là 53,6%. Các 
tuân thủ liên quan đến chế độ ăn, vận động 
thể lực còn rất thấp (từ 5,7% đến 20,1% ). So 
với nghiên cứu tại Phần Lan từ năm 1999, 
nghiên cứu này tương tự về tỉ lệ tuân thủ hành 
vi uống rượu là 53%, thấp hơn về tuân thủ 
hành vi vận động thể lực (54%) và về hành vi 
liên quan đến chế độ ăn (30%) [10]. Tuân thủ 
về hành vi liên quan đến chế độ ăn trong 
nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn 
nghiên cứu tại Pakistan năm 2014 (22,5%) [6]. 
Kết quả của chúng tôi cho thấy chỉ có giới 
và chỉ số huyết áp tối đa cao nhất là có liên 
quan có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của các 
tác giả tại một số nước khác cho thấy tuân thủ 
 180 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
với các khuyến cáo về hành vi có liên quan rất 
nhiều đến nhận thức của người bệnh [5, 6], 
giới, trình độ học vấn, tiếp cận với tư vấn về 
hành vi [5]. Nữ giới có mức độ tuân thủ hành 
vi cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi 
cũng có thể giải thích bởi thực trạng những 
hành vi được khuyến cáo đều là những hành 
vi có nhiều hơn ở nam giới do những đặc 
trưnng văn hoá, xã hội ở Việt Nam là nam 
uống bia, rượu, hút thuốc và ăn uống bên 
ngoài nhiều hơn nữ giới rất rõ rệt. 
V. KẾT LUẬN 
Người bệnh tăng huyết áp có thời gian 
điều trị từ 12 tháng trở lên tại Bệnh viên Đa 
khoa Cẩm Khê có kiến thức về bệnh và tuân 
thủ các khuyến cáo về hành vi còn hạn chế. 
Hạn chế về kiến thức tập trung nhiều hơn đến 
nội dung liên quan đến các dấu hiệu cần thiết 
phải hỏi ý kiến bác sĩ, các tên thuốc đang 
dùng, hành vi lối sống phù hợp. Tuân thủ về 
hành vi còn chưa tốt, đặc biệt liên quan đến 
chế độ ăn uống và theo dõi tình trạng huyết 
áp. Vì vậy, cần có các can thiệp tích cực hơn, 
trực tiếp hơn để tăng cường mức độ tuân thủ 
và hiệu quả điều trị tăng huyết áp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đào Duy An (2006). Nhận thức cơ bản 
và cách xử trí ở bệnh nhân tăng huyết áp, , in 
Hội nghị khoa học Tim mạch toàn quốc lần 
thứ 11. 
2. Đào Duy An(2007). Tăng huyết áp thầm 
lặng như thế nào Tạp chí Tim mạch học Việt 
Nam. 47, 445 - 451. 
3. Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và 
Phòng chống Chấn thương. Thực trạng tăng 
huyết áp ở Việt Nam. 2016 [cited 2016 De-
cember 31]; Available from: http://
cippr.huph.edu.vn/vi/node/98. 
4. Hội Tim mạch Việt Nam (2014). Tài liệu 
hội thảo Tim mạch toàn quốc năm 2014. Hội 
nghị Tim mạch toàn quốc. 
5. Anthony D. Heymann (2011). Factors 
associated with Hypertensive Patients’ compli-
ance with recommended lifestyle Behaviors. 
IMAJ, 13, 553 - 557. 
6. Muhammad Shahzeb Khan, F.I.B., 
Arslan Mirza, Mehwish Hussain et al (2014). 
Frequency and Predictors of Non-compliance 
to Dietary Recommendations Among Hyper-
tensive Patients. J Community Health. 
7. Ninh Văn Đông (2010). Đánh giá sự 
tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp 
trên 60 tuổi tại phường Hàng Bông- Hoàn 
Kiếm - Hà Nội, năm 2010, Trường Đại học Y 
tế Công cộng. 
8. Tâm, P.T., N.T. Đạt, Lê Minh Hữu,
(2014). Nghiên cứu tình hình tăng huyết áp và 
việc thực hiện theo dõi và điều trị ở ngưởi từ 
25 tuổi trở lên tại huyện Châu Thành, tỉnh Hậu 
Giang. Y học thực hành. 944, 312 - 314. 
9. Angelina Alphonce Joho,(October, 
2012). Factors affecting treatment compliance 
among hypertension patients in three district 
hospitals - Dar Es Salaam, in Thesis for De-
gree of Master of Science Nursing (Critical 
Care & Trauma) of Muhimbili University of 
Health and Allied Sciences, (MUHAS). 26. 
10. Helvi Kyngas and Tiina Lahdenpera 
(1999). Compliance of patients with hyperten-
sion and associated factors. Journal of Ad-
vanced Nursing, 29(4), 832 - 839. 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 181 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Summary 
KNOWLEDGE ABOUT HYPERTENSION 
AND COMPLIANCE TO RECOMMENDED HEALTH BEHAVIORS 
AMONG HYPERTENSIVE PATIENTS MANAGED AT CAM KHE HOSPITAL 
IN VINH PHUC PROVINCE, 2015 - 2016 
The purpose of this study is to describe the patient knowledge about hypertension and analyze 
some associated factors with the compliance to recommended health behaviors among hyperten-
sive patients managed at the Camkhe district hospital in Phu Tho province in 2015 - 2016. A 
cross-sectional study was conducted consisting of patients’ record extraction and direct interview 
with 263 hypertensive patients who had been regularly treated and managed at the outpatient 
clinic for at least 12 months. Collected data included knowledge about hypertension, compliance 
level to behaviors such as reduction of salt and lipid intakes, reduction of alcohol beverage, 
tobacco cessation or reduction, physical activities, blood pressure monitoring and regular check 
up. The results shows that only 8.6% of patients had good knowledge about diet, appropriate life 
styles, current drugs in use, symptoms that need doctor’s consultation. The proportion of patients 
with good compliance to recommended behaviors was only 19%. Female patients were more 
likely to be compliant to treatment than males. Therefore, interventions targeting hypertensive 
patients should be more active and direct to improve effectiveness for patients treatment. 
Key words: Hypertension, treatment compliance, behavior, Vietnam 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_ve_benh_va_tuan_thu_cac_khuyen_cao_ve_hanh_vi_o_ng.pdf