Kiến thức về bệnh và tuân thủ các khuyến cáo về hành vi ở người bệnh tăng huyết áp tại bệnh viện Cẩm Khê, Phú Thọ, năm 2015-2016
Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng kiến thức về bệnh tăng huyết áp và phân tích một số yếu tố liên quan
đến sự tuân thủ các khuyến cáo về hành vi của người bệnh tăng huyết áp tại Bệnh viện Đa khoa huyện Cẩm
Khê, Phú Thọ năm 2015 - 2016. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện bao gồm nghiên cứu hồ sơ
bệnh án và phỏng vấn trực tiếp 263 người bệnh tăng huyết áp nguyên phát, đang điều trị ngoại trú trên 12
tháng về kiến thức tăng huyết áp, mức độ thực hiện hành vi ăn giảm muối, giảm mỡ, giảm rượu/bia, bỏ hoặc
giảm thuốc lá, hoạt động thể lực, theo dõi huyết áp, khám định kỳ. Kết quả cho thấy chỉ 8,6% người bệnh có
kiến thức tốt về chế độ ăn, lối sống, loại thuốc đang dùng, dấu hiệu cần xin ý kiến bác sĩ. Tuân thủ tốt các
hành vi được khuyến cáo là 19%. Nữ giới tuân thủ các hành vi được khuyến cáo tốt hơn nam. Vì vậy, các
can thiệp trên bệnh nhân tăng huyết áp cần được thực hiện tích cực và trực tiếp hơn để tăng hiệu quả điều
trị cho người bệnh.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức về bệnh và tuân thủ các khuyến cáo về hành vi ở người bệnh tăng huyết áp tại bệnh viện Cẩm Khê, Phú Thọ, năm 2015-2016

TCNCYH 113 (4) - 2018 173 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Địa chỉ liên hệ: Kim Bảo Giang, Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 19/6/2018 Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 KIẾN THỨC VỀ BỆNH VÀ TUÂN THỦ CÁC KHUYẾN CÁO VỀ HÀNH VI Ở NGƯỜI BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP TẠI BỆNH VIỆN CẨM KHÊ, PHÚ THỌ, NĂM 2015 - 2016 Kim Bảo Giang1, Hồ Thị Kim Thanh1, Nguyễn Hải Minh2 1Trường Đạị học Y Hà Nội; 2Bệnh viện huyện Cẩm Khê, Phú Thọ Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng kiến thức về bệnh tăng huyết áp và phân tích một số yếu tố liên quan đến sự tuân thủ các khuyến cáo về hành vi của người bệnh tăng huyết áp tại Bệnh viện Đa khoa huyện Cẩm Khê, Phú Thọ năm 2015 - 2016. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện bao gồm nghiên cứu hồ sơ bệnh án và phỏng vấn trực tiếp 263 người bệnh tăng huyết áp nguyên phát, đang điều trị ngoại trú trên 12 tháng về kiến thức tăng huyết áp, mức độ thực hiện hành vi ăn giảm muối, giảm mỡ, giảm rượu/bia, bỏ hoặc giảm thuốc lá, hoạt động thể lực, theo dõi huyết áp, khám định kỳ. Kết quả cho thấy chỉ 8,6% người bệnh có kiến thức tốt về chế độ ăn, lối sống, loại thuốc đang dùng, dấu hiệu cần xin ý kiến bác sĩ. Tuân thủ tốt các hành vi được khuyến cáo là 19%. Nữ giới tuân thủ các hành vi được khuyến cáo tốt hơn nam. Vì vậy, các can thiệp trên bệnh nhân tăng huyết áp cần được thực hiện tích cực và trực tiếp hơn để tăng hiệu quả điều trị cho người bệnh. Từ khoá: Tăng huyết áp, tuân thủ điều trị, hành vi, Việt Nam I. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ người mắc tăng huyết áp đang tăng dần hàng năm, từ 26,4% dân số toàn thế giới năm 2000 dự tính sẽ tăng lên 29,2% vào năm 2025 [1]. Tăng huyết áp là nguyên nhân gây tàn phế và tử vong hàng đầu ở các nước đang phát triển [2]. Điều trị tăng huyết áp có thể giảm 40% nguy cơ tai biến mạch máu não và 15% nguy cơ nhồi máu cơ tim. Tỉ lệ tăng huyết áp tại Việt Nam đang ngày càng gia tăng, từ 1% năm 1960 lên đến 11,7% năm 1992 và đến 47,3% ở người từ 25 tuổi trở lên [3; 4]. Một trong những khuyến cáo để tăng hiệu quả điều trị tăng huyết áp là giảm các hành vi nguy cơ bao gồm uống rượu, hút thuốc lá, hạn chế vận động thể lực, chế độ ăn giàu chất béo, mặn, không khám định kỳ và theo dõi huyết áp thường xuyên. Tuy nhiên, tuân thủ các khuyến cáo về hành vi của người bệnh tăng huyết áp còn hạn chế. Nghiên cứu tại Israel năm 2011 cho thấy chỉ có khoảng 1/2 người bệnh tuân thủ khuyến cáo về hoạt động thể lực (48%) và chế độ ăn (45%) và chỉ có 36% bỏ hút thuốc [5]. Có nghiên cứu báo cáo tỉ lệ tuân thủ về chế độ ăn chỉ là 22,5% [6]. Nghiên cứu trước đây cho thấy tỉ lệ tuân thủ điều trị tăng huyết áp nói chung ở Việt Nam chỉ đạt hơn 30% [7, 8]. Ở Việt Nam, nghiên cứu liên quan đến tuân thủ các khuyến cáo về hành vi của người bệnh tăng huyết áp chưa được công bố rộng rãi. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu mô tả kiến thức về bệnh tăng huyết áp và phân tích một số yếu tố liên quan với tuân thủ các khuyến cáo về hành vi của người bệnh tăng huyết áp tại bệnh viện Đa khoa huyện Cẩm Khê tỉnh Phú Thọ năm 2015 - 2016. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu: từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2016 tại Khoa Khám bệnh của bệnh viện đa khoa huyện Cẩm Khê. 174 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2. Đối tượng Người bệnh được chẩn đoán là tăng huyết áp trong chương trình quản lý bệnh tăng huyết áp đã được điều trị nội trú dò liều thuốc, tham gia điều trị ngoại trú, khám bệnh định kỳ từ 12 tháng trở lên. 3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả bao gồm nghiên cứu hồ sơ bệnh án và phỏng vấn trực tiếp người bệnh. Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu của Tổ chức Y tế thế giới cho ước lượng tỉ lệ. Tỉ lệ tuân thủ với khuyến cáo hành vi về chế độ ăn là p = 0,225 theo số liệu được báo cáo trước [6] và với độ xác định tương đối ε = 0,2, với độ tin cậy α = 0,05. Dự phòng 20% đối tượng không đến khám và 10% các trường hợp mất dữ liệu. Cỡ mẫu là 269 người bệnh. Chọn mẫu: Từ danh sách người bệnh khám bệnh ngoại trú có mã ICD là J10 và có thời gian điều trị tại bệnh viện ít nhất 12 tháng, chọn ngẫu nhiên 269 người. Kết quả thu thập được đầy đủ thông tin của 263 người bệnh. 4. Biến số nghiên cứu chính Các đặc điểm của người bệnh: bao gồm tuổi, giới, nghề nghiệp, học vấn, thời gian mắc bệnh theo năm, số lần khám tại bệnh viện trong 12 tháng qua. Kiến thức về bệnh được đánh giá thông qua hiểu biết về 5 vấn đề gồm chế độ ăn, chế độ vận động, lối sống phù hợp, thời điểm phải hỏi bác sĩ, các loại thuốc đang dùng. Mỗi câu trả lời cho các câu hỏi này được bác sĩ điều trị tại Khoa khám bệnh hỏi theo bảng hỏi thiết kế sẵn và đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 3 với 1 là “Không biết”; 2 là “Biết nhưng chưa đủ”; 3 là “Biết đầy đủ”. “Biết đầy đủ” có nghĩa là kể đầy đủ tên thuốc hoặc kể đủ lưu ý về chế độ ăn, chế độ luyện tập, về hút thuốc lá, uống rượu bia, theo dõi huyết áp, giờ uống thuốc, các dấu hiệu biến chứng. “Biết nhưng chưa đủ” là kể được một vài nhưng chưa đủ hết tên thuốc hoặc kể đủ lưu ý về chế độ ăn, chế độ luyện tập, về hút thuốc lá, uống rượu bia, theo dõi huyết áp, giờ uống thuốc, các dấu hiệu biến chứng. Điểm kiến thức thấp nhất là 5 và cao nhất là 15 và phân loại dựa trên khoảng tứ phân vị, gồm kiến thức kém ( 5 - 8 điểm); kiến thức trung bình ( 9 - 12 điểm); kiến thức tốt (13 - 15 điểm). Mức độ tuân thủ các khuyến cáo về hành vi gồm có ăn giảm mặn, ăn giảm mỡ/chất béo, giảm/cai rượu bia, giảm/cai hút thuốc, tăng cường hoạt động thể lực, theo dõi huyết áp tại nhà. Mức độ tuân thủ cho từng hành vi bao gồm: 1 điểm (không tuân thủ; tuân thủ rất ít: thực hiện < 25% số ngày trong tháng); 2 điểm (tuân thủ ít , thực hiện từ 25% đến dưới 50% số ngày trong tháng); 3 điểm (tuân thủ thường xuyên từ 50 đến < 75% số ngày trong tháng); 4 điểm (tuân thủ rất thường xuyên từ 75 đến 100% số ngày trong tháng). Mức độ tuân thủ được thể hiện bằng tổng điểm tuân thủ, dao động từ 6 đến 30 điểm. Mức độ tuân thủ chung được phân loại dựa trên khoảng tứ phân vị của tổng điểm: từ 6- 18 điểm là không tuân thủ/tuân thủ kém; từ 19 - 24 điểm là tuân thủ trung bình; từ 25 đến 30 điểm là tuân thủ tốt. Quá trình thu thập số liệu: 7 cán bộ bệnh viện trao đổi thống nhất để tham gia phỏng vấn người bệnh được chọn tại khoa khám bệnh khi đến tái khám. 5. Xử lý và phân tích số liệu: Các phiếu điều tra được kiểm tra để loại trừ các phiếu điền không đầy đủ. Số liệu được nhập vào phần mềm Epi Data 3.1., được làm sạch và được phân tích bằng phần mềm STATA 12. Thống kê mô tả, ước tính tần số và tỷ lệ của các biến số; Để xác định liên quan của tuân thủ khuyến cáo về hành vi với các yếu tố văn TCNCYH 113 (4) - 2018 175 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC hoá, xã hội hồi quy tuyến tính đa biến với biến phụ thuộc là điểm tuân thủ thực hành hành vi, biến độc lập là biến số về đặc trưng cá nhân của người bệnh như tuổi, giới, nghề nghiệp, học vấn, thời gian bị bệnh, điểm nhận thức, huyết áp tối đa cao nhất. 6. Đạo đức trong nghiên cứu: Đối tượng hoàn toàn tự nguyện tham gia sau khi được giải thích về mục đích, nội dung nghiên cứu. Mọi thông tin cá nhân thu được qua phỏng vấn đều được bảo mật. Nghiên cứu được sự cho phép của lãnh đạo bệnh viện và đề cương được thông qua hội đồng đào tạo chuyên khoa cấp II tại trường đại học Y Hà Nội. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Biến số Số lượng Tỷ lệ % Giới Nam 157 59,7 Nữ 106 40,3 Nhóm tuổi < 60 59 22,4 61 - 80 179 68,1 > 80 25 9,5 Nghề nghiệp Cán bộ hành chính, hưu trí 100 38,0 Nghề nông 151 57,4 Buôn bán 2 0,8 Khác 10 3,8 Trinh độ học vấn Trung cấp trở lên 34 12,9 Trung học phổ thông 77 29,3 Trung học cơ sở 98 37,3 Tiểu học 26 9,9 Dưới tiểu học 28 10,6 Nguồn thu nhập Lương tháng, lương hưu 104 39,6 Chăn nuôi, trồng trọt, buôn bán 141 53,6 Khác 18 6,8 Thời gian bị bệnh < 2 năm 77 29,3 Từ 3 - 6 năm 117 44,5 Từ 7 - 10 năm 47 17,9 > 10 năm 22 8,4 Tổng số 263 100,0 176 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 1 cho thấy, trong số 263 đối tượng nghiên cứu có 59,7% là nam và 40,3% nữ. Tỷ lệ đối tượng dưới 60 tuổi chiếm 22,4%, từ 60 đến 80 tuổi chiếm 68,1%. Có 57,4% đối tượng nghiên cứu làm nghề nông, 38% là cán bộ hành chính hoặc hưu trí. Đối tượng học hết trung học cơ sở chiếm 37,3%, trung học phổ thông chiếm 29,3%. Có 51,7% số người có nguồn thu nhập từ chăn nuôi và trồng trọt. Có tới 91,6% người bệnh có thời gian bị bệnh dưới 10 năm. Bảng 2. Kiến thức của người bệnh về bệnh tăng huyết áp Biến số Số lượng Tỷ lệ % Hiểu biết về chế độ ăn Không biết 4 1,5 Biết nhưng không đầy đủ 174 66,2 Biết đầy đủ 85 32,3 Hiểu biết về chế độ vận động Không biết 19 7,2 Biết nhưng không đầy đủ 210 79,8 Biết đầy đủ 34 12,9 Hiểu biết về lối sống phù hợp Không biết 13 4,9 Biết nhưng không đầy đủ 228 86,7 Biết đầy đủ 22 8,4 Khi nào phải hỏi ý kiến bác sĩ Không biết 18 6,8 Biết nhưng không đầy đủ 231 87,8 Biết đầy đủ 14 5,3 Kể tên các loại thuốc đang dùng Không biết 141 53,6 Biết nhưng không đầy đủ 95 36,1 Biết đầy đủ 27 10,3 Mức độ nhận thức Kém 29 11,0 Trung bình 212 80,6 Tốt 22 8,4 Tổng số 263 100,0 Liên quan đến kiến thức có các nội dung về chế độ ăn, chế độ vận động, lối sống phù hợp, dấu hiệu nguy hiểm cần đi khám, tên một số thuốc hạ huyết áp thông thường. Kết quả cho thấy có 80,6% số người bệnh có mức độ kiến thức về bệnh tăng huyết áp ở mức độ trung bình, có hiểu biết nhưng không đầy đủ, chỉ có 8,4% số người bệnh có kiến thức tương đối đầy đủ, và còn 11% số người bệnh hiểu biết kém về bệnh tăng huyết áp. Đối với từng chủ đề về kiến thức, tỉ lệ người bệnh biết đầy đủ cao nhất là về chế độ ăn (32,3%), về chế độ vận động (12,9%), về tên các loại thuốc đang dùng (10,3%). TCNCYH 113 (4) - 2018 177 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2. Tuân thủ các khuyến cáo về hành vi Bảng 3. Thực hành các hành vi được khuyến cáo của người bệnh tăng huyết áp Biến số Số lượng Tỷ lệ% Ăn giảm mặn Rất ít (< 25% số ngày) 33 12,5 Ít (từ 25 - 50% số ngày) 47 17,9 Thường xuyên (50 - 75%) 168 63,9 Rất thường xuyên (75 - 100%) 15 5,7 Ăn giảm mỡ Không 3 1,1 Rất ít (<25% số ngày) 33 12,5 Ít (từ 25 - 50% số ngày) 24 9,1 Thường xuyên (50 - 75%) 159 60,5 Rất thường xuyên (75 - 100%) 44 16,7 Giảm/cai rượu bia Không 3 1,1 Rất ít (< 25% số ngày) 31 11,8 Ít (từ 25 - 50% số ngày) 17 6,5 Thường xuyên (50 - 75%) 71 27,0 Rất thường xuyên (75 - 100%) 141 53,6 Giảm/cai thuốc lá/ thuốc lào Không 9 3,4 Rất ít (< 25% số ngày) 33 12,5 Ít (từ 25 - 50% số ngày) 7 2,7 Thường xuyên (50 - 75%) 38 14,4 Rất thường xuyên (75 - 100%) 176 66,9 Tăng cường vận động thể lực Rất ít (< 25% số ngày) 27 10,3 Ít (từ 25 - 50% số ngày) 29 11,0 Thường xuyên (50 - 75%) 133 50,6 Rất thường xuyên (75 - 100%) 74 28,1 Theo dõi huyết áp tại nhà Không đo huyết áp 4 1,5 Không có máy đo, thỉnh thoảng nhờ đo 100 38,0 Có máy đo, thỉnh thoảng mới đo 68 25,9 Có máy đo, đo hàng ngày, không ghi chép 38 14,4 Có máy đo, đo, ghi chép hàng ngày 53 20,1 178 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biến số Số lượng Tỷ lệ% Mức độ tuân thủ khuyến cáo về hành vi Kém 7 2,7 Trung bình 205 77,9 Tốt 51 19,4 Tổng số 263 100,0 Tỉ lệ % người bệnh tăng huyết áp có tuân thủ các khuyến cáo về hành vi ở mức tốt là 19,4%, ở mức trung bình là 77,9%. Hành vi được thực hiện ở mức độ “rất thường xuyên” cao nhất là “cai thuốc lá” (66,9%), tiếp theo là “Giảm/cai bia rượu” (53,6%), “tăng cường vận động thể lực” (28,1%), “đo huyết áp và ghi chép hàng ngày” (20,1%). 3. Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ khuyến cáo về hành vi Bảng 4. Mô hình hồi quy tuyến tính về một số yếu tố liên quan đến mức độ tuân thủ khuyến cáo về hành vi Biến số Hệ số p Tuổi 0,01 0,4530 Giới Nam Nữ* 1,20 0,0000 Học vấn Trung cấp trở lên Trung học phổ thông 0,18 0,6960 Trung học cơ sở 0,26 0,6000 Tiểu học 0,41 0,5250 Dưới tiểu học 0,16 0,8150 Nghề nghiệp Cán bộ hành chính Hưu trí -0,58 0,4230 Nghề nông -0,45 0,2020 Buôn bán 1,72 0,2600 Khác -0,79 0,2650 Điểm nhận thức 0,03 0,7700 Thời gian mắc bệnh -0,03 0,3370 Huyết áp tối đa cao nhất 0,01 0,0470 Huyết áp tối thiểu cao nhất -0,03 0,0730 Số lần đi khám -0,03 0,5800 _cons 22,29 0,0000 p = 0,012; R2 = 0,11 TCNCYH 113 (4) - 2018 179 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Kết quả ở bảng 4 cho thấy việc tuân thủ các khuyến cáo hành vi có liên quan có ý nghĩa thống kê với giới và với chỉ số huyết áp cao nhất người bệnh từng có. Theo kết quả nữ tuân thủ tốt hơn nam 1,2 điểm mức độ tuân thủ, với độ tin cậy trên 99%. Người có huyết áp cao hơn tuân thủ tốt hơn. IV. BÀN LUẬN Theo nghiên cứu này mức độ kiến thức về bệnh tăng huyết áp của người bệnh tăng huyết áp còn hạn chế, dù thời gian theo dõi và điều trị tăng huyết áp từ 12 tháng trở lên. Phần lớn (80,6%) người bệnh chỉ có kiến thức ở mức chưa đầy đủ và chỉ có 8,4% người bệnh có đủ kiến thức cơ bản. Chủ đề mà người bệnh có kiến thức cao nhất là “những lưu ý về chế độ ăn” cũng chỉ có tỉ lệ hiểu biết đầy đủ ở mức 32,3%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về kiến thức của người bệnh tăng huyết áp thấp hơn kiến thức của một số nghiên cứu khác. Nghiên cứu tại Pakistan cho thấy tỉ lệ người bệnh trả lời đúng câu hỏi liên quan đến chế độ ăn là 45,2% [6]. Nghiên cứu trên người bệnh tăng huyết áp ở Israel, với tỉ lệ trả lời đúng các câu hỏi liên quan đến hậu quả của huyết áp không ổn định, quá cân là yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp, cần thiết cải thiện chế độ ăn đều trên 80% [5]. Nghiên cứu của Angelina Alphonce Joho cho thấy tỉ lệ người bệnh có nhận thức tốt về mức độ trầm trọng của bệnh từ 46% ở nhóm không tuân thủ điều trị và 53,7% ở nhóm tuân thủ điều trị [9]. Khác nhau về mức độ kiến thức của người bệnh giữa các nghiên cứu có thể giải thích bởi sự khác biệt về cấu trúc và câu hỏi phỏng vấn, cách tiếp cận trong đánh giá kiến thức. Nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu đặt câu hỏi để đối tượng trả lời, sau đó người phỏng vấn sẽ đánh dấu và những lựa chọn phù hợp với câu trả lời của người trả lời. Nghiên cứu của tác giả ở Israel là câu hỏi đóng với câu trả lời là “Đúng” hoặc “sai”. Vì vậy có thể tỉ lệ có kiến thức đúng ở nghiên cứu của chúng tôi có thể thấp hơn do câu hỏi khó hơn, đòi hỏi đối tượng phải có câu trả lời cụ thể, trong khi nghiên cứu của Israel chỉ cần lựa chọn câu trả lời có sẵn. Nghiên cứu của Angelina laị đánh giá kiến thức dựa trên các câu hỏi theo mô hình Niềm tin sức khoẻ, với nhiều câu hỏi được đặt ra cho phần “Nhận thức về mức độ trầm trọng của bệnh” và “Nhận thức về mức nhạy cảm của bệnh”. Sự khác biệt cũng có thể do tư vấn hỗ trợ nâng cao nhận thức cho người bệnh khác nhau giữa các hệ thống chăm sóc sức khoẻ. Việc tuân thủ các khuyến cáo về hành vi của người bệnh cũng còn rất khiêm tốn. Hành vi có mức độ tuân thủ thường xuyên cao nhất là tuân thủ trong giảm/cai thuốc lá chỉ là 66,9% và giảm/cai rượu bia là 53,6%. Các tuân thủ liên quan đến chế độ ăn, vận động thể lực còn rất thấp (từ 5,7% đến 20,1% ). So với nghiên cứu tại Phần Lan từ năm 1999, nghiên cứu này tương tự về tỉ lệ tuân thủ hành vi uống rượu là 53%, thấp hơn về tuân thủ hành vi vận động thể lực (54%) và về hành vi liên quan đến chế độ ăn (30%) [10]. Tuân thủ về hành vi liên quan đến chế độ ăn trong nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn nghiên cứu tại Pakistan năm 2014 (22,5%) [6]. Kết quả của chúng tôi cho thấy chỉ có giới và chỉ số huyết áp tối đa cao nhất là có liên quan có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của các tác giả tại một số nước khác cho thấy tuân thủ 180 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC với các khuyến cáo về hành vi có liên quan rất nhiều đến nhận thức của người bệnh [5, 6], giới, trình độ học vấn, tiếp cận với tư vấn về hành vi [5]. Nữ giới có mức độ tuân thủ hành vi cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi cũng có thể giải thích bởi thực trạng những hành vi được khuyến cáo đều là những hành vi có nhiều hơn ở nam giới do những đặc trưnng văn hoá, xã hội ở Việt Nam là nam uống bia, rượu, hút thuốc và ăn uống bên ngoài nhiều hơn nữ giới rất rõ rệt. V. KẾT LUẬN Người bệnh tăng huyết áp có thời gian điều trị từ 12 tháng trở lên tại Bệnh viên Đa khoa Cẩm Khê có kiến thức về bệnh và tuân thủ các khuyến cáo về hành vi còn hạn chế. Hạn chế về kiến thức tập trung nhiều hơn đến nội dung liên quan đến các dấu hiệu cần thiết phải hỏi ý kiến bác sĩ, các tên thuốc đang dùng, hành vi lối sống phù hợp. Tuân thủ về hành vi còn chưa tốt, đặc biệt liên quan đến chế độ ăn uống và theo dõi tình trạng huyết áp. Vì vậy, cần có các can thiệp tích cực hơn, trực tiếp hơn để tăng cường mức độ tuân thủ và hiệu quả điều trị tăng huyết áp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy An (2006). Nhận thức cơ bản và cách xử trí ở bệnh nhân tăng huyết áp, , in Hội nghị khoa học Tim mạch toàn quốc lần thứ 11. 2. Đào Duy An(2007). Tăng huyết áp thầm lặng như thế nào Tạp chí Tim mạch học Việt Nam. 47, 445 - 451. 3. Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phòng chống Chấn thương. Thực trạng tăng huyết áp ở Việt Nam. 2016 [cited 2016 De- cember 31]; Available from: http:// cippr.huph.edu.vn/vi/node/98. 4. Hội Tim mạch Việt Nam (2014). Tài liệu hội thảo Tim mạch toàn quốc năm 2014. Hội nghị Tim mạch toàn quốc. 5. Anthony D. Heymann (2011). Factors associated with Hypertensive Patients’ compli- ance with recommended lifestyle Behaviors. IMAJ, 13, 553 - 557. 6. Muhammad Shahzeb Khan, F.I.B., Arslan Mirza, Mehwish Hussain et al (2014). Frequency and Predictors of Non-compliance to Dietary Recommendations Among Hyper- tensive Patients. J Community Health. 7. Ninh Văn Đông (2010). Đánh giá sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp trên 60 tuổi tại phường Hàng Bông- Hoàn Kiếm - Hà Nội, năm 2010, Trường Đại học Y tế Công cộng. 8. Tâm, P.T., N.T. Đạt, Lê Minh Hữu, (2014). Nghiên cứu tình hình tăng huyết áp và việc thực hiện theo dõi và điều trị ở ngưởi từ 25 tuổi trở lên tại huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Y học thực hành. 944, 312 - 314. 9. Angelina Alphonce Joho,(October, 2012). Factors affecting treatment compliance among hypertension patients in three district hospitals - Dar Es Salaam, in Thesis for De- gree of Master of Science Nursing (Critical Care & Trauma) of Muhimbili University of Health and Allied Sciences, (MUHAS). 26. 10. Helvi Kyngas and Tiina Lahdenpera (1999). Compliance of patients with hyperten- sion and associated factors. Journal of Ad- vanced Nursing, 29(4), 832 - 839. TCNCYH 113 (4) - 2018 181 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Summary KNOWLEDGE ABOUT HYPERTENSION AND COMPLIANCE TO RECOMMENDED HEALTH BEHAVIORS AMONG HYPERTENSIVE PATIENTS MANAGED AT CAM KHE HOSPITAL IN VINH PHUC PROVINCE, 2015 - 2016 The purpose of this study is to describe the patient knowledge about hypertension and analyze some associated factors with the compliance to recommended health behaviors among hyperten- sive patients managed at the Camkhe district hospital in Phu Tho province in 2015 - 2016. A cross-sectional study was conducted consisting of patients’ record extraction and direct interview with 263 hypertensive patients who had been regularly treated and managed at the outpatient clinic for at least 12 months. Collected data included knowledge about hypertension, compliance level to behaviors such as reduction of salt and lipid intakes, reduction of alcohol beverage, tobacco cessation or reduction, physical activities, blood pressure monitoring and regular check up. The results shows that only 8.6% of patients had good knowledge about diet, appropriate life styles, current drugs in use, symptoms that need doctor’s consultation. The proportion of patients with good compliance to recommended behaviors was only 19%. Female patients were more likely to be compliant to treatment than males. Therefore, interventions targeting hypertensive patients should be more active and direct to improve effectiveness for patients treatment. Key words: Hypertension, treatment compliance, behavior, Vietnam
File đính kèm:
kien_thuc_ve_benh_va_tuan_thu_cac_khuyen_cao_ve_hanh_vi_o_ng.pdf