Kiến thức và thực hành tiêm và truyền an toàn của điều dưỡng các khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Giang 6 tháng đầu năm 2016

An toàn người bệnh, an toàn trong thực hiện các kỹ

thuật chăm sóc người bệnh luôn là vấn đề thời sự, là một

trong những ưu tiên hàng đầu của chăm sóc y tế. Thực

hành tiêm, truyền phải đạt các tiêu chuẩn về an toàn ở mọi

lúc, mọi nơi có hoạt động tiêm, truyền. Theo đánh giá tình

hình tiêm an toàn tại 8 tỉnh của Bộ Y tế (BYT) năm 2008,

tính trung bình người bệnh điều trị nội trú được tiêm 2,2

mũi/ngày [4].

Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm tìm hiểu

kiến thức, thực hành của điều dưỡng về tiêm an toàn

tại các khoa lâm sàng Bệnh viện đa khoa (BVĐK) tỉnh

Hà Giang 6 tháng đầu năm 2016. Nghiên cứu mô tả cắt

ngang, kết hợp định lượng và định tính được tiến hành từ

tháng 1 đến tháng 6/2016 tại BVĐK tỉnh Hà Giang. Đối

tượng nghiên cứu định lượng là toàn bộ 139 điều dưỡng

viên đang công tác tại 10 khoa lâm sàng với tổng số 278

mũi tiêm được quan sát. Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến

thức chung của nhân viên y tế về tiêm an toàn còn thấp

chiếm tỷ lệ 24,5%; tỷ lệ nhân viên y tế (NVYT) thực hành

tiêm tĩnh mạch an toàn 61,9%, tỷ lệ NVYT thực hành

truyền tĩnh mạch an toàn 57,6%

pdf 7 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức và thực hành tiêm và truyền an toàn của điều dưỡng các khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Giang 6 tháng đầu năm 2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức và thực hành tiêm và truyền an toàn của điều dưỡng các khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Giang 6 tháng đầu năm 2016

Kiến thức và thực hành tiêm và truyền an toàn của điều dưỡng các khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Giang 6 tháng đầu năm 2016
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 81
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
An toàn người bệnh, an toàn trong thực hiện các kỹ 
thuật chăm sóc người bệnh luôn là vấn đề thời sự, là một 
trong những ưu tiên hàng đầu của chăm sóc y tế. Thực 
hành tiêm, truyền phải đạt các tiêu chuẩn về an toàn ở mọi 
lúc, mọi nơi có hoạt động tiêm, truyền. Theo đánh giá tình 
hình tiêm an toàn tại 8 tỉnh của Bộ Y tế (BYT) năm 2008, 
tính trung bình người bệnh điều trị nội trú được tiêm 2,2 
mũi/ngày [4].
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm tìm hiểu 
kiến thức, thực hành của điều dưỡng về tiêm an toàn 
tại các khoa lâm sàng Bệnh viện đa khoa (BVĐK) tỉnh 
Hà Giang 6 tháng đầu năm 2016. Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang, kết hợp định lượng và định tính được tiến hành từ 
tháng 1 đến tháng 6/2016 tại BVĐK tỉnh Hà Giang. Đối 
tượng nghiên cứu định lượng là toàn bộ 139 điều dưỡng 
viên đang công tác tại 10 khoa lâm sàng với tổng số 278 
mũi tiêm được quan sát. Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến 
thức chung của nhân viên y tế về tiêm an toàn còn thấp 
chiếm tỷ lệ 24,5%; tỷ lệ nhân viên y tế (NVYT) thực hành 
tiêm tĩnh mạch an toàn 61,9%, tỷ lệ NVYT thực hành 
truyền tĩnh mạch an toàn 57,6%.
Từ khóa: Tiêm an toàn, truyền an toàn, điều dưỡng.
SUMMARY:
KNOWLEDGE AND PRACTICE OF SAFETY 
INJECTION OF NURSING AT CLINICAL 
DEPARTMENTS OF HA GIANG PROVINCE 
GENERAL HOSPITAL IN 2016
Patient safety, safety in implementing patient care 
techniques is always a current issue, one of the top 
priorities of health care. Injection, transmission practices 
must meet safety standards at any time, anywhere with 
injection, transmission practices. According to the 
evaluation of the safety injection situation at 8 provinces 
made by Ministry of Health in 2008, inpatients were only 
injected 2,2 injection per day on average.
We conducted a study to describe the knowledge and 
practices of Nursing in safety injection at the clinical 
departments of Ha Giang Province General Hospital in 
first 6 months of 2016. The objects of quantitative research 
were all 139 nurses working at 10 clinical departments 
with a total number of 278 injections were observed. The 
research results showed that the general knowledge of 
healthcare workers about the safe injection was low in 
proportion of 24.5%; the proportion of healthcare workers 
implemented the safe intravenous injection was 61.9%, 
the proportion of healthcare workers implemented the 
safe intravenous transmission was 57.6%.
Keywords: Safety injection, nursing.
II. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hàng năm, toàn thế giới có khoảng 16 tỷ mũi tiêm 
được thực hiện, trong đó có khoảng 90-95% số mũi tiêm 
nhằm mục đích điều trị và khoảng 5-10% mũi tiêm dành 
cho dự phòng [7]. Vì vậy An toàn người bệnh hiện đang 
là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của 
ngành y tế, trong đó tiêm an toàn (TAT) đặc biệt được 
chú ý bởi tính phổ biến, tầm quan trọng đối với công tác 
điều trị, cũng như ảnh hưởng của nó đến hiệu quả điều 
trị [6]. Nhận thức tầm quan trọng của TAT, WHO đã 
thành lập Mạng lưới TAT toàn cầu (viết tắt là SIGN - Safe 
Injection Global Network) [8]. Tại Việt Nam, vấn đề TAT 
luôn nhận được sự quan tâm của BYT. Từ năm 2000, Hội 
Điều dưỡng Việt Nam đã phát động phong trào “Tiêm an 
toàn” trong toàn quốc. Đồng thời, trong TT07/2011/TT-
BYT năm 2011 của Bộ Y tế cũng bao gồm các nội dung 
liên quan đến TAT trong công tác chăm sóc người bệnh 
[1]. Thực hành TAT cũng đã được cụ thể hóa thông qua 
quyết định số: 3671/QĐ-BYT ngày 27 tháng 9 năm 2012 
KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH TIÊM VÀ TRUYỀN AN TOÀN CỦA 
ĐIỀU DƯỠNG CÁC KHOA LÂM SÀNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA 
TỈNH HÀ GIANG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016
Phạm Trí Dũng1, Hoàng Thị Hoa2, Phùng Thanh Hùng1, Phạm Quỳnh Anh1 
Ngày nhận bài: 16/08/2017 Ngày phản biện: 22/08/2017 Ngày duyệt đăng: 31/08/2017
 1. Trường Đại học Y tế Công cộng
 2. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Giang
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn82
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
của BYT “Hướng dẫn tiêm an toàn trong các cơ sở Khám 
bệnh, chữa bệnh” [2,3]. 
Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Giang là BVĐK tuyến tỉnh 
thực hiện công tác chăm sóc người bệnh, không những 
về con người mà cả chuyên môn. Một thực trạng tại bệnh 
viện là số lượng ĐDV còn thiếu so với chỉ tiêu, đa phần trẻ 
tuổi mới được tuyển dụng, chưa có nhiều kinh nghiệm lâm 
sàng Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu 
tìm hiểu kiến thức, thực hành của điều dưỡng về tiêm an 
toàn tại các khoa lâm sàng tại BVĐK tỉnh Hà Giang trong 
6 tháng đầu năm 2016.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Điều dưỡng trực tiếp thực hiện các mũi tiêm, truyền 
tĩnh mạch cho người bệnh tại 10 khoa lâm sàng tại các 
khoa lâm sàng BVĐK tỉnh Hà Giang.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
- Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Giang.
- Thời gian nghiên cứu: tháng 1/2016 đến tháng 6/2016.
- Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên 
cứu mô tả để xác định một tỷ lệ:
Trong đó:
+ n: cỡ mẫu tối thiểu.
+ Z1-α/2=1,96: là giá trị tương ứng với mức ý nghĩa 
thống kê α=0,05.
+ p = 0,321 tỷ lệ mũi TAT theo nghiên cứu của Hà Thị 
Kim Phượng, khi sử dụng bộ công cụ gồm 21 tiêu chuẩn 
để đánh giá thực hành tiêm an toàn. Bộ công cụ này cũng 
được sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi, nhưng để 
đúng với quy định của BYT về thực hiện các thời điểm 
rửa tay nên chúng tôi thêm bước 22 là bước Rửa tay/sát 
khuẩn tay nhanh [5].
+ d = 0,06: độ chính xác tuyệt đối mong muốn.
Sau khi thay số vào công thức, cỡ mẫu của nghiên cứu 
là n = 232 mũi tiêm, truyền. Qua tham khảo một số nghiên 
cứu về kiến thức, thực hành TAT tại Việt Nam, đa số các 
nghiên cứu quan sát từ 1 đến 2 mũi tiêm. Trên thực tế, 
để thuận lợi cho việc tính toán số mũi tiêm/1 điều dưỡng 
viên, chúng tôi chọn toàn bộ 139 điều dưỡng viên, với 02 
mũi tiêm/điều dưỡng viên (gồm 01 mũi tiêm tĩnh mạch và 
01 mũi truyền tĩnh mạch) nghiên cứu thực hiện quan sát 
278 mũi tiêm (gồm 139 mũi tiêm tĩnh mạch và 139 mũi 
truyền tĩnh mạch)
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
4.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 139 điều dưỡng viên 
đang công tác ở 10 khoa lâm sàng Bệnh viện đa khoa tỉnh 
Hà Giang. Điều dưỡng tại Bệnh viện chủ yếu là nữ giới 
với 113 cán bộ chiếm 81,3%; nam giới chiếm 18,7%.
Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 34,12 
tuổi, điều dưỡng viên trẻ nhất ở độ tuổi 22 và cao tuổi 
nhất là 54 tuổi. Phần lớn thuộc nhóm trên 30 tuổi chiếm 
53,2% và nhóm nhỏ hơn hoặc bằng 30 tuổi chiếm 46,8%.
Về trình độ học vấn, điều dưỡng viên có trình độ trung 
cấp chiếm tỷ lệ cao 77% và nhóm có trình độ cao đẳng và 
đại học chiếm 23%.
Thời gian công tác trung bình của điều dưỡng viên 
9,26; ít nhất là nhân viên công tác 1 năm và lâu năm nhất 
là 36 năm. Về thâm niên công tác chủ yếu từ 5 đến 10 
năm chiếm 54,7%; đứng thứ hai là nhóm trên 10 năm 
chiếm tỷ lệ 27,3% và thấp nhất là nhóm dưới 5 năm 
chiếm tỷ lệ 18%.
4.2. Kiến thức về tiêm, truyền an toàn của đối tượng 
nghiên cứu
Hầu hết điều dưỡng viên đều biết đến khái niệm tiêm 
an toàn là không làm tổn hại đến người được tiêm, không 
làm tổn hại đến người tiêm và không làm tổn hại đến cộng 
đồng chiếm tỷ lệ 96,4%. Bên cạnh đó vẫn còn 3,6% có 
kiến thức chưa đúng về khái niệm tiêm an toàn cho rằng 
tiêm an toàn chỉ là không làm tổn hại đến người được 
tiêm. Có 74,1% biết rằng nguy cơ của tiêm không an toàn 
là áp xe tại nơi tiêm; 71,9% biết là nhiễm khuẩn chéo giữa 
những người bệnh; 61,9% biết là sốc phản vệ.
Bảng 4.1. Kiến thức về chuẩn bị người bệnh, người điều dưỡng
Đặc điểm Số lượng (n = 139) Tỉ lệ (%)
Có mấy thời điểm cần vệ sinh tay
5 thời điểm 119 85,6
n = Z2(1 - /2)
p(1-p)
d2
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 83
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đặc điểm Số lượng (n = 139) Tỉ lệ (%)
Khác 20 14,4
Thời điểm phải rửa tay bằng nước và xà phòng
Khi trên tay có vết bẩn nhìn thấy được 30 21,6
Khác 109 78,4
Động tác cần làm trước khi chuẩn bị dụng cụ tiêm truyền
Vệ sinh tay 133 95,7
Khác 6 4,3
5 đúng cần để đảm bảo an toàn cho người bệnh trước khi tiêm
Người bệnh, thuốc, liều lượng, thời điểm, đường tiêm 113 81,3
Khác 26 18,7
Điều cần chú ý trước khi tiêm kháng sinh mũi đầu tiên
Hỏi người bệnh về tiền sử dị ứng thuốc, thức ăn 9 6,5
Khác 130 93,5
Chỉ định mang găng trong trường hợp
Khi có nguy cơ tiếp xúc với máu, dịch tiết của người bệnh hoặc da 
tay của NVYT bị tổn thương
117 84,2
Khác 22 15,8
Điều dưỡng phải thay găng tay sau khi thực hiện
Tiêm cho 1 người bệnh 132 95,0
Khác 7 5,0
Điều dưỡng được chỉ định mang khẩu trang trong trường hợp
Người bệnh mắc bệnh lây qua đường hô hấp 55 39,6
Khác 84 60,4
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức về chuẩn bị 
người bệnh, người điều dưỡng chưa cao: chỉ 21,6% biết 
thời điểm phải rửa tay bằng nước và xà phòng là khi trên 
tay có vết bẩn nhìn thấy được; 6,5% biết hỏi người bệnh 
về tiền sử dị ứng thuốc, thức ăn trước khi tiêm kháng sinh 
mũi đầu tiên. 95,7% điều dưỡng biết động tác cần làm 
trước khi chuẩn bị dụng cụ tiêm truyền là vệ sinh tay và 
81,3% nhắc được 5 đúng để đảm bảo an toàn cho người 
bệnh trước tiêm. Bên cạnh đó, chỉ có 84,2% điều dưỡng 
biết chỉ định mang găng trong trường hợp khi có nguy cơ 
tiếp xúc với máu, dịch tiết của người bệnh hoặc da tay của 
NVYT bị tổn thương.
Bảng 4.2. Kiến thức về dụng cụ tiêm và chuẩn bị thuốc tiêm
Đặc điểm Số lượng (n = 139) Tỉ lệ (%)
Kiến thức về dụng cụ tiêm
Cơ số thuốc trong hộp chống sốc gồm
Adrenalin 1 mg x 2 ống, Solumedrol 40 mg hoặc Depersolon 30 mg 
x 2 ống
132 95,0
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn84
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
Đặc điểm Số lượng (n = 139) Tỉ lệ (%)
Khác 7 5,0
Thùng đựng vật sắc nhọn (VSN) phải đảm bảo những yếu tố nào
Thành và đáy cứng không bị xuyên thủng 115 82,7
Có khả năng chống thấm 2 1,4
Có nắp đóng mở dễ dàng 12 8,6
Thời điểm niêm phong thùng đựng VSN
Đầy ¾ thùng 54 38,8
Khác 85 61,2
Loại cồn dùng để sát khuẩn da vùng tiêm
70 Cồn và cồn iod 21 15,1
Khác 118 84,9
Kiến thức về chuẩn bị thuốc tiêm
Khi lấy thuốc tiêm cần thực hiện động tác
Không pha 2 hay nhiều loại thuốc vào 1 BKT 108 77,7
Không lưu kim lấy thuốc 25 18,0
Cách bẻ ống thuốc đúng
Sát khuẩn, dùng gạc bẻ thuốc 101 72,7
Khác 38 27,3
Cách trì hoãn thực hiện mũi tiêm
Đậy kim tiêm bằng kỹ thuật múc 1 tay sau đó đưa vào bao ni lông 
đựng bơm tiêm
72 51,8
Khác 67 48,2
Trường hợp lưu kim lấy thuốc trên lọ thuốc đa liều
Không được để lưu kim trong bất kỳ tình huống nào 114 82,0
Khác 25 18,0
Kết quả cho thấy kiến thức về dụng cụ tiêm của NVYT 
còn thấp như 1,4% điều dưỡng viên biết thùng đựng VSN 
có khả năng chống thấm; 8,6% thùng đựng VSN có nắp 
đóng mở dễ dàng; 38,8% biết thời điểm niêm phong thùng 
đựng VSN khi đầy ¾ thùng và 15,1% biết loại cồn dùng 
để sát khuẩn da vùng tiêm là cồn 70o và cồn iod.
Về kiến thức về chuẩn bị thuốc tiêm: có 77,7% biết 
cần thực hiện động tác không pha 2 hay nhiều loại thuốc 
vào 1 bơm kim tiêm và 18% biết cần thực hiện động tác là 
không lưu kim lấy thuốc. 72,7% NVYT biết cách bẻ ống 
thuốc đúng là sát khuẩn và dùng gạc bẻ thuốc. 51,8% biết 
cách trì hoãn thực hiện mũi tiêm bằng cách đậy kim tiêm 
bằng kỹ thuật múc 1 tay sau đó đưa vào bao ni lông đựng 
bơm tiêm. Và 82% điều dưỡng viên biết không được để 
lưu kim trong bất kỳ tình huống nào.
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 85
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 4.3. Kiến thức về kỹ thuật tiêm thuốc và xử lý chất thải sau tiêm
Đặc điểm Số lượng (n = 139) Tỉ lệ (%)
Kiến thức về kỹ thuật tiêm thuốc
Phương thức sát khuẩn da vùng tiêm trước trước khi tiêm đúng
Sử dụng kẹp không mấu gắp bông gạc tẩm cồn, sau mỗi buổi tiêm 
phải hấp vô khuẩn.
Dùng tay (sau khi đã vệ sinh tay) để cầm bông cồn sát khuẩn.
Sử dụng tăm bông tẩm cồn để sát khuẩn.
65 46,8
Khác 74 53,2
Kỹ thuật nào sát khuẩn da vùng tiêm đúng
Sát khuẩn da vùng tiêm theo hình xoáy ốc từ trong ra ngoài với 
đường kính khoảng 10 cm cho đến khi sạch
114 82,0
Khác 25 18,0
Góc độ kim tiêm trong tiêm tĩnh mạch, truyền tĩnh mạch ngoại biên
15 – 30 độ 105 75,5
Khác 34 24,5
Kiến thức về xử lý chất thải sau tiêm
Cách xử lý bơm kim tiêm (BKT) sau tiêm
Bỏ cả BKT vào thùng đựng VSN 43 30,9
Khác 96 69,1
Thời điểm BKT được cô lập vào hộp đựng VSN sau khi tiêm
Ngay sau khi rút kim ra khỏi vị trí tiêm 56 40,3
Khác 83 59,7
Xử lý các VSN sau khi tiêm
Phân loại chất thải ngay tại nguồn 69 49,6
Cô lập ngay các VSN vào hộp kháng thủng đủ tiêu chuẩn 82 59,0
Không đậy lại nắp kim 39 28,1
Không uốn cong hoặc bẻ gẫy kim 60 43,2
Về kỹ thuật tiêm thuốc 46,8% NVYT biết phương thức sát 
khuẩn da vùng tiêm trước khi tiêm đúng là gồm 3 hoạt động. 
82% điều dưỡng viên biết kỹ thuật sát khuẩn da vùng tiêm 
theo hình xoáy ốc từ trong ra ngoài với đường kính khoảng 10 
cm cho đến khi sạch và 75,5% biết góc độ kim tiêm trong tĩnh 
mạch, truyền tĩnh mạch ngoại biên là 15 – 30 độ.
Về xử lý chất thải sau tiêm: có 30,9% NVYT biết cách 
xử lý bơm kim tiêm sau tiêm là bỏ cả vào thùng đựng vật 
sắc nhọn và 40,3% biết thời điểm bơm kim tiêm được cô 
lập vào hộp đựng vật sắc nhọn sau khi tiêm là ngay sau khi 
rút kim ra khỏi vị trí tiêm. Kiến thức về xử lý các vật sắc 
nhọn sau khi tiêm của NVYT chưa cao; 59% biết cô lập 
ngay các vật sắc nhọn vào hộp kháng thủng đủ tiêu chuẩn; 
49,6% biết phân loại chất thải ngay tại nguồn và chỉ có 
28,1% biết không đậy lại nắp kim.
4.3. Thực hành về tiêm, truyền an toàn của đối tượng 
nghiên cứu
4.3.1. Thực hành tiêm tĩnh mạch của điều dưỡng viên
Về thực hành các bước chuẩn bị tiêm: trong chuẩn bị 
người bệnh, có 99,3% điều dưỡng thực hiện 5 đúng, nhận 
định, giải thích cho người bệnh biết việc mình sắp làm, trợ 
giúp tư thế an toàn, thuận tiện. Có 51,8% điều dưỡng viên 
sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân và chỉ có 35,3% 
điều dưỡng viên thực hiện rửa tay thường qui/sát khuẩn tay 
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn86
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
nhanh. Về việc chuẩn bị dụng cụ NVYT làm rất tốt với 3 hoạt 
động đạt 100% thực hiện đúng như: Hộp chống sốc, cơ số và 
còn hạn sử dụng; Thùng đựng VSN và thùng đựng chất thải 
sau tiêm và chai đựng dung dịch sát khuẩn tay nhanh có sẵn 
trên xe tiêm. Còn hoạt động chuẩn bị bông gạc tẩm cồn đúng 
qui định chiếm tỷ lệ 93,5%. Có 4 hoạt động chuẩn bị thuốc 
tiêm trong đó 2 hoạt động điều dưỡng làm rất tốt đạt 100% đó 
là: Xé bỏ bao bơm tiêm và thay kim lấy thuốc và kim lấy thuốc 
và kim tiêm không chạm vùng không vô khuẩn. Chỉ có 66,9% 
điều dưỡng kiểm tra lại thuốc, sát khuẩn ống thuốc, dùng gạc 
vô khuẩn bẻ ống thuốc.
Về thực hiện kỹ thuật tiêm thuốc và xử lý chất thải sau 
tiêm: có 1 kỹ thuật mà điều dưỡng viên thực hành đạt 100% 
là Sát khuẩn lại vị trí tiêm, dùng bông khô đặt lên vị trí tiêm 
phòng chảy máu; đứng thứ hai là hoạt động xác định vị trí 
tiêm, đặt gối kê tay và thắt dây garo đúng qui định (Dây 
garo trên vị trí tiêm 10 – 15cm) chiếm tỷ lệ 99,3% và hoạt 
động kém nhất là Sát khuẩn vùng tiêm từ trong ra ngoài 
theo hình xoáy chôn ốc đường kính trên 10 cm cho đến khi 
sạch (tối thiểu 2 lần) chiếm tỷ lệ 38,1%. Kỹ thuật xử lý chất 
thải sau tiêm có ba hoạt động nhưng không đạt được 100%. 
Cao nhất là hoạt động rửa tay/sát khuẩn tay nhanh ngay sau 
khi kết thúc quy trình tiêm chiếm tỷ lệ 91,4% và thấp nhất 
là hoạt động không dùng tay để đậy nắp kim tiêm hoặc tháo 
kim tiêm ra khỏi bơm tiêm chiếm tỷ lệ 36%.
Biểu đồ 4.1. Thực hành về tiêm tĩnh mạch an toàn của 
điều dưỡng
Đánh giá thực hành tiêm, truyền tĩnh mạch an toàn 
theo quy trình bao gồm 22 bước. Trong đó điều dưỡng 
viên nhất thiết phải thực hiện được 2 bước quan trọng 
trong quy trình là: bước 1 và bước 15 và trên 17 điểm.
Điểm thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng 
cao nhất là 22 điểm và trung bình 18,3 điểm. Có 24 điều 
dưỡng viên thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn đạt tất cả các 
bước. Kết quả biểu đồ 4.1 cho thấy 86 điều dưỡng viên có 
thực hành đạt về tiêm tĩnh mạch an toàn chiếm 61,9% và 
38,1% điều dưỡng thực hành không đạt.
4.3.2. Thực hành truyền tĩnh mạch của điều dưỡng viên
Về thực hành các bước chuẩn bị truyền: Đối với vấn 
đề chuẩn bị người bệnh của điều dưỡng viên, kết quả cho 
thấy hoạt động “Thực hiện 5 đúng, nhận định, giải thích 
cho người bệnh biết việc mình sắp làm, trợ giúp tư thế an 
toàn, thuận tiện” đạt 100%. Thấp nhất là hoạt động rửa tay 
thường qui/sát khuẩn tay nhanh chiếm tỷ lệ 36%. Về việc 
chuẩn bị dụng cụ, điều dưỡng viên làm rất tốt với 2 hoạt 
động đạt 100% thực hiện đúng như: Hộp chống sốc, cơ số 
và còn hạn sử dụng; Thùng đựng VSN và thùng đựng chất 
thải sau tiêm. Còn hoạt động chuẩn bị bông gạc tẩm cồn 
đúng qui định chiếm tỷ lệ 95,7% và chuẩn bị chai đựng 
dung dịch sát khuẩn tay nhanh có sẵn trên xe tiêm chiếm 
tỷ lệ 98,6%. Có 4 hoạt động chuẩn bị thuốc tiêm trong đó 
2 hoạt động điều dưỡng làm rất tốt đạt 100% đó là: Xé 
bỏ bao bơm truyền và cắm đầu bầu dây truyền vào chai 
thuốc/dịch, mở khóa cho chảy 2/3 bầu để thông kim rồi 
khóa lại và kim lấy thuốc và kim truyền không chạm vùng 
không vô khuẩn.
Về thực hiện kỹ thuật truyền thuốc và xử lý chất thải 
sau tiêm, 100% điều dưỡng thực hiện đúng hoạt động Hết 
thuốc, gỡ băng dính, căng da rút kim nhanh, cho ngay 
bơm kim tiêm vào hộp an toàn và hoạt động Sát khuẩn 
lại vị trí tiêm, dùng bông khô đặt lên vị trí chọc kim vừa 
rút phòng chảy máu. Hoạt động thực hiện kém nhất là Sát 
khuẩn vùng truyền từ trong ra ngoài theo hình xoáy chôn 
ốc đường kính trên 10 cm cho đến khi sạch (tối thiểu 2 
lần), chiếm tỷ lệ 44,6%. Hoạt động xử lý chất thải sau 
truyền có ba hoạt động nhưng không hoạt động nào đạt 
được 100%. Cao nhất là hoạt động rửa tay/sát khuẩn tay 
nhanh ngay sau khi kết thúc quy trình truyền chiếm tỷ lệ 
92,8% và thấp nhất là hoạt động không dùng tay để đậy 
nắp kim truyền hoặc tháo kim truyền ra khỏi bơm tiêm 
chiếm tỷ lệ 40,3%.
Biểu đồ 4.2. Thực hành về truyền tĩnh mạch an toàn 
của điều dưỡng viên
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 87
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Điểm thực hành truyền tĩnh mạch an toàn của điều 
dưỡng cao nhất là 22 điểm và trung bình 18,2 điểm. Có 20 
điều dưỡng thực hành truyền tĩnh mạch an toàn đạt tất cả 
các bước. Kết quả biểu đồ 4.2 cho thấy 80 điều dưỡng có 
thực hành đạt về truyền tĩnh mạch an toàn chiếm 57,6% 
và 42,4% không đạt thực hành.
V. KẾT LUẬN
5.1. Kiến thức của điều dưỡng viên về tiêm, truyền an toàn 
- Điều dưỡng viên biết khái niệm tiêm an toàn là tương 
đối cao, chiếm tỷ lệ 96,4%.
- 91,4% điều dưỡng viên biết hành động đầu tiên khi 
người bệnh biết có sốc phản vệ là ngưng truyền ngay. 
- 74,1% điều dưỡng viên biết rằng nguy cơ của tiêm 
không an toàn là áp xe tại nơi tiêm.
- 89,2% biết luôn mang theo hộp chống sốc khi đi tiêm.
- 85,6% điều dưỡng viên biết có 5 thời điểm cần vệ 
sinh tay nhưng chỉ 21,6% có kiến thức đúng về thời điểm 
rửa tay bằng nước và xà phòng là khi trên tay có vết bẩn 
nhìn thấy được.
- 6,5% điều dưỡng biết hỏi người bệnh về tiền sử dị 
ứng thuốc, thức ăn khi tiêm kháng sinh mũi đầu tiên.
5.2. Thực hành của điều dưỡng viên về tiêm, truyền an toàn
- Tỷ lệ điều dưỡng viên có thực hành đạt về tiêm tĩnh 
mạch an toàn là 61,9%.
- Trong thực hành tiêm an toàn, tỷ lệ điều dưỡng viên 
thực hành rửa tay thường qui/sát khuẩn tay nhanh còn thấp 
(35,3%), và Sát khuẩn vùng tiêm từ trong ra ngoài theo 
hình xoáy chôn ốc đường kính trên 10 cm cho đến khi 
sạch (tối thiểu 2 lần) thấp (38,1%). Chỉ 36% điều dưỡng 
viên thực hiện không dùng tay để đậy nắp kim tiêm hoặc 
tháo kim tiêm ra khỏi bơm tiêm.
- Tỷ lệ điều dưỡng viên có thực hành đạt về truyền tĩnh 
mạch an toàn là 57,6%.
- Trong thực hành truyền an toàn, tỷ lệ điều dưỡng 
viên thực hành rửa tay thường qui/sát khuẩn tay nhanh 
còn thấp (36%). Hoạt động Sát khuẩn vùng tiêm từ trong 
ra ngoài theo hình xoáy chôn ốc đường kính trên 10 cm 
cho đến khi sạch (tối thiểu 2 lần) cũng có tỷ lệ thực hành 
thấp (44,6%). 40,3% điều dưỡng viên thực hiện không 
dùng tay để đậy nắp kim tiêm hoặc tháo kim tiêm ra khỏi 
bơm tiêm.
1. Bộ Y tế (2011), Thông tư số 07/2011/TT- BYT ngày 26/1/2011 về việc hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm 
sóc người bệnh trong bệnh viện.
2. Bộ Y tế (2012), Quyết định số 1352/QĐ-BYT ngày 21/4/2012 về việc chuẩn năng lực cơ bản của điều dưỡng 
Việt Nam.
3. Bộ Y tế (2012), Quyết định số 3671/QĐ-BYT ngày 27/9/2012 về việc hướng dẫn tiêm an toàn trong các cơ sở 
khám bệnh, chữa bệnh.
4. Phòng Điều dưỡng - Bộ Y tế (2008), Kết quả nghiên cứu tiêm an toàn tại bệnh viện điểm - Tài liệu tiêm an toàn, 
Hà Nội.
5. Hà Thị Kim Phượng (2014), Kiến thức, thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên lâm sàng và các yếu tố liên 
quan tại 3 bệnh viện trực thuộc Sở Y tế Hà Nội năm 2014, Luận văn thạc sỹ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế Công 
cộng, Hà Nội.
6. Tổ chức Y tế thế giới (2011), Hướng dẫn chương trình giảng dạy về An toàn bệnh nhân, Tổ chức Y tế thế giới, 
Geneve.
7. HutinYJ, Hauri AM and Armstrong GL (2003), “Use of injections in healthcare settings worldwide, 2000: liter-
ature review and regional estimates”, BMJ. 327(7423), pg. 15 - 24.
8. WHO (2003), Safe Injection Global Network, Geneva.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_va_thuc_hanh_tiem_va_truyen_an_toan_cua_dieu_duong.pdf