Kiến thức và thái độ của điều dưỡng về chăm sóc giảm nhẹ cho người bệnh ung thư tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM tháng 3/2018-4/2018

Mục tiêu: Khảo sát kiến thức và thái độ của Điều dưỡng (ĐD) về Chăm sóc giảm nhẹ (CSGN) cho người

bệnh ung thư (UT).

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 196 ĐD đang công tác tại 15 khoa lâm sàng tại BVUB,

Tp.HCM năm 2018. Phương pháp chọn mẫu phân tầng. Sử dụng bộ câu hỏi (BCH) để thu thập số liệu. Thống

kê mô tả được sử dụng để phân tích số liệu.

Kết quả: 61.2% ĐD có kiến thức về CSGN ở mức trung bình, 4.1% ĐD có kiến thức tốt về CSGN và 34.7%

ĐD có kiến thức kém về CSGN; điểm trung bình thái độ của ĐD về CSGN đạt ở mức trung bình

= 3.32, SD= 0.46).

Kết luận/Kiến nghị: Tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng về CSGN thấp và thái độ ĐD về CSGN ở mức trung bình.

Bệnh viện cần tăng cường các chương trình đào tạo liên tục về CSGN cho đội ngũ ĐD lâm sàng tại bệnh viện

nhằm cải thiện hiệu quả chăm sóc, nâng cao chất lượng sống người bệnh, đặc biệt là các BN giai đoạn cuối.

pdf 6 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức và thái độ của điều dưỡng về chăm sóc giảm nhẹ cho người bệnh ung thư tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM tháng 3/2018-4/2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức và thái độ của điều dưỡng về chăm sóc giảm nhẹ cho người bệnh ung thư tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM tháng 3/2018-4/2018

Kiến thức và thái độ của điều dưỡng về chăm sóc giảm nhẹ cho người bệnh ung thư tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM tháng 3/2018-4/2018
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
379 
KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA ĐIỀU DƯỠNG 
VỀ CHĔM SÓC GIẢM NHẸ CHO NGƯỜI BỆNH UNG THƯ 
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU TP. HCM THÁNG 3/2018 - 4/2018 
HOÀNG THỊ MỘNG HUYỀN1, ĐẶNG HUY QUỐC THỊNH2, QUÁCH THANH KHÁNH3,TRỊNH HỒNG GẤM4, 
NGUYỄN THỊ TUYẾT NGA4, TRẦN KIM NGUYÊN4, NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN4, 
NGUYỄN NGỌC HƯƠNG THẢO5, PHAN ĐỖ PHƯƠNG THẢO5, ĐẶNG TRẦN NGỌC THANH6 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức và thái độ của Điều dưỡng (ĐD) về Chĕm sóc giảm nhẹ (CSGN) cho người 
bệnh ung thư (UT). 
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 196 ĐD đang công tác tại 15 khoa lâm sàng tại BVUB, 
Tp.HCM nĕm 2018. Phương pháp chọn mẫu phân tầng. Sử dụng bộ câu hỏi (BCH) để thu thập số liệu. Thống 
kê mô tả được sử dụng để phân tích số liệu. 
Kết quả: 61.2% ĐD có kiến thức về CSGN ở mức trung bình, 4.1% ĐD có kiến thức tốt về CSGN và 34.7% 
ĐD có kiến thức kém về CSGN; điểm trung bình thái độ của ĐD về CSGN đạt ở mức trung bình 
 = 3.32, SD= 0.46). 
Kết luận/Kiến nghị: Tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng về CSGN thấp và thái độ ĐD về CSGN ở mức trung bình. 
Bệnh viện cần tĕng cường các chương trình đào tạo liên tục về CSGN cho đội ngũ ĐD lâm sàng tại bệnh viện 
nhằm cải thiện hiệu quả chĕm sóc, nâng cao chất lượng sống người bệnh, đặc biệt là các BN giai đoạn cuối. 
Từ khóa: Kiến thức, thái độ, chĕm sóc giảm nhẹ, Điều dưỡng. 
ABSTRACT 
Knowledge and attitude of oncology nurses toward palliative care for cancer patients 
at Oncology Hospital In Ho Chi Minh City 
Objective: To investigate knowledge and attitude among nurses toward palliative care for cancer patients 
Method: A cross – sectional study conducted in 196 nurses working in 15 wards of Oncology hospital in 
Ho Chi Minh City. Questionaire was used for data collection. Descriptive statistic were used for data analysis. 
Results: Of the total participants, 61.2% nurses had moderate knowledge, 4.1% nurses had good 
knowledge and 34.7% nurses had poor knowledge toward palliative care; Attitude of nurses towards pallative 
care is at moderate level ( = 3.32, SD= 0.46). 
Conclusion/implication: The hospital need to increase the number of continuing medical education (CME) 
for nurses in order to improve health care efficiency and quality of life, especially in the end of life patients. 
Keyword: Knowledge, Attitude, Palliative Care, Nurse. 
1
 ĐDKI. Điều dưỡng Trưởng Khoa Chĕm sóc giảm nhẹ - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
2
 TS.BS. Phó Giám đốc Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
3
 ThS.BSCKII. Trưởng Phòng Kế hoạch Tổng hợp, kiêm Trưởng Khoa Chĕm sóc giảm nhẹ – Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
4
 CNĐD. Điều dưỡng Khoa Chĕm sóc giảm nhẹ - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
5
 ThS.BS. Bác sĩ Điều trị Khoa Chĕm sóc giảm nhẹ - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
6
 TS.ĐD. Phó Trưởng Bộ môn Điều dưỡng Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
380 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chĕm sóc giảm nhẹ (Palliative care, CSGN) là 
một lĩnh vực y học mới rất được quan tâm hiện nay, 
và đặc biệt cần thiết trong lĩnh vực điều trị UT[1].Theo 
Tổ chức y tế thế giới (WHO), CSGN là một phần 
thiết yếu của việc chĕm sóc điều dưỡng (ĐD) 
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của BN 
đang đối mặt với vấn đề sức khỏe đe doạ đến tính 
mạng. ĐD có thể ngĕn ngừa và làm giảm gánh nặng 
mà người bệnh chịu đựng bằng cách nhận biết sớm, 
đánh giá toàn diện, điều trị đau và các vấn đề khác 
bao gồm thể lực, tâm lý xã hội và tinh thần. Việc 
phát triển CSGN có hiệu quả, chi phí thấp, dễ tiếp 
cận sẽ giúp cho người bệnh những chĕm sóc cần 
thiết cuối đời[2]. 
Nhận thức được tầm quan trọng của CSGN, 
Bệnh viện Ung Bướu (BVUB) Thành phố Hồ Chí 
Minh (TP.HCM) đã thành lập Khoa CSGN từ tháng 
1/2011 nhằm cung cấp dịch vụ CSGN một cách 
chuyên nghiệp và rộng khắp từ bệnh viện đến các 
cơ sở chĕm sóc sức khỏe tuyến cơ sở và tại nhà. 
Trong thời gian qua, với sự giúp đỡ của chuyên gia 
quốc tế, một số đợt hội thảo đã được tiến hành 
nhằm nâng cao kiến thức của các nhân viên y tế về 
CSGN như tiến trình chết bình thường, chĕm sóc 
cận tử và cách kiểm soát triệu chứng, dùng thuốc và 
các can thiệp xâm lấn. ĐD đóng vai trò quan trọng 
trong CSGN cho người bệnh UT và gia đình, tuy 
nhiên cho đến hiện tại chưa có một nghiên cứu nào 
được tiến hành một cách hệ thống nhằm đánh giá 
kiến thức và thái độ của ĐD về vấn đề này. Chính vì 
thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá kiến 
thức và thái độ của ĐD về chĕm sóc giảm nhẹ tại 
các khoa lâm sàng của BVUB TP. HCM”. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
Khảo sát tỷ lệ ĐD có kiến thức và thái độ đúng 
về CSGN tại các khoa lâm sàng của BVUB, 
Tp.HCM. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang. 
Đối tượng nghiên cứu 
196 ĐD đang công tác tại 15 khoa lâm sàng của 
BVUB, Tp.HCM trong thời gian nghiên cứu. 
Tiêu chí chọn mẫu: 
ĐD trực tiếp chĕm sóc BN tại 15 khoa lâm 
sàng; Có trình độ trung cấp trở lên; Đồng ý tham gia 
nghiên cứu; Hoàn tất bộ câu hỏi. 
Công cụ thu thập số liệu 
Tham khảo BCH “The palliative care quiz for 
nursing (PCQN)”, đánh giá kiến thức ĐD về CSGN 
được hình thành và phát triển bởi ROSS MM, 
McDonald B và McGuinness J. thông qua một hội 
nghị do Hiệp hội ĐD Đại học Ottawa[3]; tham khảo 
BCH “ Frommel Attitude Toward Care of the Dying, 
FATCOD” được phát triển bởi Frommel[4]; Sử dụng 
và cải tiến BCH của Nguyễn Thúy Ly qua nghiên 
cứu trên Điều dưỡng tại Hà Nội[5]. BCH gồm 3 phần. 
Phần 1.Thông tin đối tượng tham gia 
khảo sát các đặc điểm nhân khẩu học của ĐD 
gồm có 06 câu hỏi tìm hiểu về tuổi, giới, đơn vị công 
tác, trình độ chuyên môn, thời gian thực hành lâm 
sàng, mức độ tiếp cận CSGN 
Phần 2. Bộ câu hỏi Kiến thức ĐD về CSGN 
Gồm 20 câu hỏi, đánh giá kiến thức ĐD trên 
các nội dung (a) triết học và nguyên tắc của CSGN 
(4 câu), (b) quản lý đau và các triệu chứng khác (13 
câu), và (c) các khía cạnh tâm lý xã hội của chĕm 
sóc (3 câu). Mỗi câu hỏi có ba ý kiến trả lời: Đúng”, 
“Sai”, hoặc “Không biết câu trả lời”. Câu trả lời 
“Đúng” được 1 điểm; “Sai”, hoặc “Không biết câu trả 
lời” là điểm 0. Điểm số càng cao cho biết kiến thức 
tốt hơn như kiến thức kém (<50%), kiến thức trung 
bình (50 - <75%), kiến thức tốt(≥75%). Độ tin cậy 
của bộ câu hỏi trong nghiên cứu này là 0.93[3]. 
Phần 3. Bộ câu hỏi thái độ ĐD về CSGN 
Gồm 30 câu hỏi, hai phần ba các mục liên quan 
trực tiếp đến thái độ của ĐD đối với bệnh nhân đang 
hấp hối và một phần ba các hạng mục liên quan trực 
tiếp đến thái độ đối với các thành viên trong gia đình 
bệnh nhân với lĩnh vực: nhận thức (12 câu), tình 
cảm (9 câu); sự chết và gia đình bệnh nhân (9 câu). 
Công cụ này sử dụng thang điểm Likert 5 điểm; 
nghĩa là 1 (Rất không đồng ý), 2 (Không đồng ý), 3 
(Không chắc chắn), 4 (Đồng ý) đến 5 (Rất đồng ý). 
Điểm số cao hơn thể hiện thái độ tích cực hơn đối 
với việc chĕm sóc cho bệnh nhân sắp chết. Điểm 
thái độ được tính như sau: thái độ không thích hợp 
(<50%); thái độ trung bình (50 - <75%) và thái độ tốt 
(≥75%) trên tổng số điểm. Độ tin cậy của bộ câu hỏi 
trong nghiên cứu này là 0.716[5]. 
Đạo đức trong nghiên cứu 
Nghiên cứu này được tiến hành sau khi Hội 
đồng Khoa học kỹ thuật và công nghệ, Hội đồng 
đạo đức bệnh viện đồng ý. Trong phiếu nghiên cứu 
không thu thập họ và tên của người tham gia nghiên 
cứu, đảm bảo tính bảo mật của người tham gia. 
Phân tích số liệu 
Sử dụng phần mềm SPSS 22.0. 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
381 
Thống kê mô tả: Sử dụng tần số, tỷ lệ %, giá trị 
trung bình cộng và độ lệch chuẩn (SD), được sử 
dụng để mô tả các biến số nhân khẩu học, kiến thức, 
thái độ của của Điều dưỡng về CSGN. 
KẾT QUẢ 
Thông tin của đối tượng nghiên cứu 
Nhận xét: Bảng 1 cho thấy độ tuổi trung bình 
của đối tượng nghiên cứu là 33 ( SD = 
9.17), 86.2% đối tượng là nữ; 70.4% là ĐD trung 
cấp; 25.5% CNĐD và sau đại học 4.1%. 65.3% đối 
tượng có thời gian làm việc trên 5 nĕm. Về kinh 
nghiệm tham gia các lớp tập huấn, 67.9% ĐD chưa 
được tập huấn về CSGN; 63.8% chưa được tập 
huấn về đau và 50.5% ĐD không biết về bậc thang 
giảm đau của WHO chiếm 5%. 
Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu về 
giới tính, tuổi, trình độ chuyên môn và thời gian 
thực hành lâm sàng và tập huấn (n = 196) 
Biến số Tần số Tỷ lệ (% ) 
Giới Nam 27 13.8 Nữ 169 86.2 
Tuổi (33.6 , SD = 
9.17) 
Trình độ chuyên 
môn 
Trung cấp 138 70.4 
CNDD 50 25.5 
Sau đại học 8 4.1 
Thời gian thực 
hành lâm sàng 
< 1 nĕm 6 3.1 
Từ 1-5 nĕm 62 31.6 
> 5 nĕm 128 65.3 
Tập huấn về CSGN Có 62 32.1 
Không 134 67.9 
Tập huấn về đau Có 71 36.2 
Không 125 63.8 
Tập huấn bậc 
thang giảm đau của 
WHO 
Có 97 49.4 
Không 99 50.5 
Kiến thức đúng của ĐD về CSGN 
4.1%
61.2%
34,7%
Có kiến thức tốt 
trả lời đúng ≥75% số câu hỏi
Có kiến thức trung bình
trả lời đúng 50% - ≤75% số câu hỏi
Có kiến thức kém
trả lời đúng <50% số câu hỏi
Hình 1. Biểu đồ tỷ lệ kiến thức về CSGN của ĐD 
Nhận xét: Biểu đồ 1 và Bảng 2 cho thấy kiến thức ĐD về CSGN ở mức độ trung bình (10.3 ± 2.3 trên tổng 
số điểm 20). Trong đó, có 61.2% ĐD có kiến thức về CSGN ở mức trung bình, 4.1% ĐD có kiến thức tốt về 
CSGN và 34.7% ĐD có kiến thức kém về CSGN. Ngoài ra, Bảng 2 cho thấy có 88.8% ĐD trả lời đúng “điều 
quan trọng nhất của gia đình là ở bên cạnh bệnh khi BN hấp hối tử vong”; 87.8% ĐD biết điều trị bỗ trợ đóng 
vai trò quan trọng trong kiểm soát đau; 86.2% ĐD biết các biểu hiện đau mạn tính khác với những cơn đau cấp 
tính; 79.1% ĐD biết đau khổ và đau cơ thể thì giống nhau; 78.1% ĐD biết “Sự tích tụ các mất mát khiến không 
tránh khỏi cảm thấy kiệt sức”; 77.6% ĐD biết “Mức độ tiến triển của bệnh quyết định phương pháp kiểm soát 
đau” và “lo lắng hoặc mệt mỏi sẽ làm giảm ngưỡng chịu đựng đau”. Ngược lại, một số nội dung ĐD chưa có 
trả lời đúng (<30%) gồm “Nghiện thuốc khi morphine được sử dụng lâu dài”; “sử dụng giả dược là phù hợp 
trong điều trị một số loại đau”, “Sự mất mát của một quan hệ họ hàng xa sẽ dễ giải quyết hơn” 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
382 
Bảng 2. Kiến thức đúng của ĐD về CSGN (n = 196) 
Kiến Thức Đúng 
Tần số Tỉ lệ 
1. Chĕm sóc giảm nhẹ chỉ thích hợp trong những tình huống có bằng chứng chuyển biến xấu 121 61.7 
2. Morphine là tiêu chuẩn được sử dụng để so sánh tác dụng giảm đau của các opioid khác 152 77.6 
3. Mức độ tiến triển của bệnh quyết định phương pháp kiểm soát đau. 49 25 
4. Điều trị bỗ trợ đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát đau. 172 87.8 
5. Điều quan trọng nhất của gia đình là ở bên cạnh bệnh khi bệnh nhân hấp hối tử vong 174 88.8 
6. Sử dụng opioid nên theo một chế độ sử dụng thuốc nhuận tràng 135 68.9 
7.Trong những ngày cuối đời, lơ mơ do rối loạn điên giải có thể làm giảm nhu cầu sử dụng 
thuốc an thần 122 62.2 
8. Nghiện thuốc là một vấn đề chính khi morphine được sử dụng lâu dài để quản lý cơn đau 47 24 
9. Việc cung cấp dịch vụ CSGNđòi hỏi sự tách rời cảm xúc 33 16.8 
10. Trong giai đoạn cuối của bệnh, những loại thuốc có thể gây ức chế hô hấp vẫn có thể được 
sử dụng để điều trị khó thở nặng 103 52.6 
11.Đàn ông thường chấp nhận sự mất mát nhanh hơn phụ nữ 87 44.4 
12. Triết lý của CSGN phù hợp với triết lý điều trị tích cực 66 33.7 
13. Việc sử dụng giả dược là phù hợp trong điều trị một số loại đau 50 25.5 
14. Khi sử dụng liều cao, codeine gây buồn nôn và nôn nhiều hơn morphine 108 55.1 
15. Đau khổ và đau cơ thể thì giống nhau 155 79.1 
16. Demerol không phải là một thuốc giảm đau hiệu quả trong việc kiểm soát đau mạn tính 82 41.8 
17. Sự tích tụ các mất mát khiến cho nhân viên CSGN không tránh khỏi cảm thấy kiệt sức 
153 78.1 
18. Các biểu hiện đau mạn tính khác với những cơn đau cấp tính 169 86.2 
19. Sự mất mát của một quan hệ họ hàng xa sẽ dễ giải quyết hơn mất sự mất mát của một 
quan hệ họ hàng gần, thân thiết 44 22.4 
20. Lo lắng hoặc mệt mỏi sẽ làm giảm ngưỡng chịu đựng đau 152 77.6 
Tổng kiến thức (10.3 ± 2.3) 
Thái độ về CGGN của ĐD 
Bảng 3.Thái độ về CGGN của ĐD (n=196) 
Thái độ về CSGN Min-Max + SD Mức độ 
Thái độ liên quan 
đến nhận thức 1.10 – 4.50 3.35 + 0.51 Trung bình 
Thái độ liên quan 
đến tình cảm 1.22 – 4.44 3.12 + 0.61 Trung bình 
Thái độ liên quan 
đến sự chết 1.44 – 4.56 3.50 + 0.47 Trung bình 
Tổng điểm thái độ 
về CSGN 3.32 + 0.46 Trung bình 
Nhận xét: Bảng 3 cho thấy thái độ của ĐD về 
CSGN ở mức độ trung bình ( = 3.32, SD= 0.46). 
Trong đó thái độ liên quan đến sự chết đạt điểm cao 
nhất ( = 3.50, SD = 0.47); kế đến là thái độ liên 
quan đến nhận thức ( = 3.35, SD = 0.51), và thấp 
nhất là thái độ liên quan đến tình cảm ( = 3.12, SD 
= 0.61). Trong đó ý thức được “Gia đình nên quan 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
383 
tâm tới việc giúp người sắp mất có được thời gian 
còn lại tốt đẹp nhất” là cao nhất ( = 4.20, SD = 
0.99); Thái độ “muốn trốn chạy khi người bệnh đã 
mất” và không muốn liên can đến BN “Khi một BN 
gần mất, những người chĕm sóc ngoài gia đình 
nên ngừng liên can tới BN” là thấp nhất ( = 2.33, 
SD = 1). 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm đối tượng tham gia nghiên cứu 
Độ tuổi trung bình của nhóm đối tượng tham gia 
nghiên cứu là 33.5 (+ 9.1), cao nhất là 58 tuổi và 
thấp nhất là 23 tuổi, tương đồng với nghiên cứu của 
tác giả Nguyễn Thúy Ly, Hà Nội (từ 21-55 tuổi), với 
251 ĐD làm việc tại 3 Bệnh viện điều trị ung bướu tại 
Hà Nội là BV. K Hà Nội, BVUB Hà Nội và Bệnh viện 
Bạch Mai nghiên cứu ( =30.98, SD= 7.09)[5]. 
Tỷ lệ nữ trong nghiên cứu này nhiều hơn nam 
khoảng 6 lần, với trình độ chuyên môn ĐD trung cấp 
chiếm đa số 70.4%. Kết quả này có cao hơn so với 
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thúy Ly, Hà Nội tại 3 
bệnh viện ở Hà Nội, Việt Nam với 251 đối tượng 
tham gia nghiên cứu (60.8%)[5]. Thời gian làm việc 
trên 5 nĕm tại BVUB chiếm tỉ lệ cao nhất 65.3%. 
Điều này cho thấy các ĐD tham gia trong nghiên cứu 
cũng có kinh nghiệm chĕm sóc trong lãnh vực ung 
thư nhưng nghiên cứu cũng chỉ ra việc tập huấn về 
CSGN nói chung (32.1%) và tập huấn về đau nói 
riêng rất khiêm tốn (36.2%). Kết quả này cho thấy sự 
quan tâm cập nhật về kiến thức CSGN cơ bản chưa 
đúng mức, ĐD biết và không biết về bậc thang giảm 
đau của WHO thì tương đương nhau (49.5% và 
50.5%). 
Kiến thức của ĐD về CSGN 
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức ĐD về 
CSGN đạt mức độ tốt chỉ có 4% và 61% đạt mức độ 
trung bình. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu 
của Fernandes thực hiện tại Mangalore, Ấn Độ trên 
sinh viên ĐD về CSGN; với 4% đạt mức độ tốt và 
đạt mức độ trung bình 68%[6]. Tuy vậy, kết quả của 
nghiên cứu này thấp hơn với 1 số nghiên cứu của 
Ayed nĕm 2015 khảo sát trên ĐD tại phía Bắc, 
Palestine và tìm ra rằng 33,3% ĐD có kiến thức 
trung bình và 20.8% ĐD có kiến thức tốt về CSGN[7]. 
Tuy nhiên, cao hơn kết quả nghiên cứu của Sorifa 
và Mosphea (2014) trên 100 ĐD tại bệnh viện của 
thành phố Guwahati, Assam với 79% không đủ kiến 
thức, 21% có kiến thức vừa đủ và không có ĐD nào 
có kiến thức đầy đủ về CSGN[8]. 
Thái độ liên quan đến việc chĕm sóc BN cận tử 
Thái độ của ĐD về CSGN ở mức độ trung bình 
( = 3.32, SD = 0.46). Trong đó thái độ liên quan 
đến sự chết đạt điểm cao nhất; kế đến là thái độ liên 
quan đến nhận thức, và thấp nhất là thái độ liên 
quan đến tình cảm. Kết quả của nghiên cứu này 
khác với nghiên cứu của Youssef và cộng sự thực 
hiện trên 100 điều dưỡng làm việc tại một số bệnh 
viện tại thành phố Taif, Ả-rập Xê-út nĕm 2015 với 
83% có thái độ tích cực về chĕm sóc cận tử[9]. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Kết luận 
Qua khảo sát kiến thức, thái độ về CSGN cho 
BN Ung thư của 196 ĐD tại 15 Khoa lâm sàng tại 
BVUB TP.HCM, chúng tôi có một số nhận xét sau: 
61.2% ĐD có kiến thức về CSGN ở mức trung 
bình, 4.1% ĐD có kiến thức tốt về CSGN và 34.7% 
ĐD có kiến thức kém về CSGN. 
Thái độ về CSGN đạt mức độ trung bình 
( = 3.32, SD= 0.46). 
Kiến nghị: 
Cần thiết phát triển nghiên cứu này với cỡ mẫu 
lớn hơn nhằm đưa ra kết quả có tính thuyết phục 
cao hơn mang tính đại diện cho bệnh viện. 
Bệnh viện cần tĕng cường các chương trình 
đào tạo liên tục về CSGN cho đội ngũ ĐD lâm sàng 
tại bệnh viện nhằm cải thiện hiệu quả chĕm sóc, 
nâng cao chất lượng sống người bệnh, đặc biệt là 
các BN giai đoạn cuối. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. WHO. Cancer. 2017 [07/07/2017]; Available 
from: 
en/. 
2. Andershed B. Relatives in end‐of‐life care–part 
1: A systematic review of the literature the five 
last years, January 1999–February 2004. 
Journal of clinical nursing. 2006; 15 (9):1158-69. 
3. M Ross M, McDonald B, McGuinness J. The 
palliative care quiz for nursing (PCQN): the 
development of an instrument to measure 
nurses' knowledge of palliative care. Journal of 
advanced nursing. 1996; 23 (1):126-37. 
4. Frommelt KH (2003) Attitudes toward care of the 
terminally ill (1):13-22, 
doi:10.1177/104990910302000108 Gama G, 
Barbosa F, Vieira M (2012) Factors influencing 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
384 
nurses ' attitudes toward death. Int Palliat Nurs 
18(6): 267-73 
5. Nguyen LT, Yates P, Osborne Y. Palliative care 
knowledge, attitudes and perceived self-
competence of nurses working in Vietnam. Int J 
Palliat Nurs. 2014; 20 (9):448-56. 
6. Kulkarni VR, Kulkarni RV. Awareness of 
palliative care medicine among medical and 
health care students. International Journal of 
Advances in Medicine. 2017. 
7. Ayed A, Sayej S, Harazneh L, Fashafsheh I, 
Eqtait F. The Nurses' Knowledge and Attitudes 
towards the Palliative Care. Journal of Education 
and Practice. 2015; 6 (4):91-9. 
8. Sorifa B, Mosphea K. Knowledge and Practice of 
Staff Nurses on Palliative Care. 2014. 
9. Youssef H, Mansour M, Al-Zahrani S, Ayasreh I, 
Abd El-Karim R. Prioritizing Palliative Care: 
Assess Undergraduate Nursing Curriculum, 
knowledge and Attitude among Nurses Caring 
End-of-Life Patients. European Journal of 
Academic Essays. 2015; 2 (2): 90-101. 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_va_thai_do_cua_dieu_duong_ve_cham_soc_giam_nhe_cho.pdf