Kiến thức, thực hành về phòng bệnh sốt xuất huyết dengue của người dân thị trấn Vân Canh, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định năm 2016

Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 220 người dân tại thị trấn Vân Canh, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định từ tháng 12/2015 đến tháng 9/2016 nhằm tìm hiểu kiến thức và thực hành của người dân về phòng bệnh sốt xuất huyết Dengue (SXHD). Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người dân có kiến thức tốt về biểu hiện, nguyên nhân gây SXHD là do muỗi truyền và nơi sống của bọ gậy Aedes (trên 90%). Có 76,4% người biết phòng bệnh SXHD bằng cách diệt muỗi và bọ gậy. Mặc dù vậy, kiến thức chung về phòng bệnh SXHD chưa cao, với 63,6% người được phỏng vấn có kiến thức chưa đạt về phòng bệnh SXHD. Về thực hành phòng bệnh, chỉ có 29,5% người dân được hỏi có thực hành đạt về phòng bệnh SXHD. Tỷ lệ người dân thực hiện các biện pháp phòng bệnh SXHD chỉ chiếm tỷ lệ từ 21,4%-63,2%, trong đó thau rửa dụng cụ chứa nước là biện pháp được người dân sử dụng nhiều nhất (63,2%). Để phòng bệnh SXHD, ngành y tế địa phương cần đẩy mạnh các hoạt động truyền thông cho người dân về bệnh và thực hiện các hoạt động vệ sinh môi trường xung quanh khu vực

pdf 5 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thực hành về phòng bệnh sốt xuất huyết dengue của người dân thị trấn Vân Canh, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định năm 2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thực hành về phòng bệnh sốt xuất huyết dengue của người dân thị trấn Vân Canh, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định năm 2016

Kiến thức, thực hành về phòng bệnh sốt xuất huyết dengue của người dân thị trấn Vân Canh, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định năm 2016
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 35- Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn4
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ PHÒNG BỆNH 
SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE CỦA NGƯỜI DÂN 
THỊ TRẤN VÂN CANH, HUYỆN VÂN CANH, 
TỈNH BÌNH ĐỊNH NĂM 2016
Nguyễn Đỗ Ngọc Nhuận1, Vũ Sinh Nam2, Lê Thị Thanh Hương3
1. Trung tâm Y tế Dự phòng Bình Định
2. Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
3. Đại học Y tế Công cộng; Email:[email protected]
TÓM TẮT
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 220 người dân 
tại thị trấn Vân Canh, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định từ 
tháng 12/2015 đến tháng 9/2016 nhằm tìm hiểu kiến thức và 
thực hành của người dân về phòng bệnh sốt xuất huyết Dengue 
(SXHD). Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người dân có 
kiến thức tốt về biểu hiện, nguyên nhân gây SXHD là do muỗi 
truyền và nơi sống của bọ gậy Aedes (trên 90%). Có 76,4% 
người biết phòng bệnh SXHD bằng cách diệt muỗi và bọ gậy. 
Mặc dù vậy, kiến thức chung về phòng bệnh SXHD chưa cao, 
với 63,6% người được phỏng vấn có kiến thức chưa đạt về 
phòng bệnh SXHD. Về thực hành phòng bệnh, chỉ có 29,5% 
người dân được hỏi có thực hành đạt về phòng bệnh SXHD. 
Tỷ lệ người dân thực hiện các biện pháp phòng bệnh SXHD 
chỉ chiếm tỷ lệ từ 21,4%-63,2%, trong đó thau rửa dụng cụ 
chứa nước là biện pháp được người dân sử dụng nhiều nhất 
(63,2%). Để phòng bệnh SXHD, ngành y tế địa phương cần 
đẩy mạnh các hoạt động truyền thông cho người dân về bệnh 
và thực hiện các hoạt động vệ sinh môi trường xung quanh 
khu vực.
Từ khóa: Kiến thức, thực hành, sốt xuất huyết Dengue.
ABSTRACT
COMMUNITY’S KNOWLEDGE AND PRACTICE 
ON DENGUE FEVER IN VAN CANH TOWN, VAN 
CANH DISTRICT, BINH DINH PROVINCE, 2016
This cross-sectional study was conducted with the aim 
to describe the knowledge, practice on dengue fever of 220 
people in Van Canh town, Van Canh district, Binh Dinh 
province from 12/2015 to 9/2016. The results showed that 
a majority of the study participants were aware the symptoms 
and causes of dengue fever and Aedes larva habitat (> 90%). 
76.4% of people knew how to prevent dengue fever 
by killing mosquitoes and mosquito larvae. However, the 
general appropriate knowledge on dengue fever was not 
high, with 63.6% selected participants having inappropriate 
knowledge on dengue fever. Regarding the disease prevention 
practice, only 25.9% of people had appropriate practice on 
prevention of dengue fever. The prevalence of people 
implementing measures to prevent dengue fever was ranging 
from 21.4% to 63.2%. Cleaning water storage was the most 
common measure used by 63.2% selected participants. To 
prevent dengue fever, the local health sector needs to 
promote communication activities about the dengue fever to 
community and implement environmental sanitation activities 
around the living area.
Keywords: Knowledge, practice, dengue fever
I. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU
Sốt xuất huyết (SXH) là bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi 
rút gây nên. Bệnh lây truyền từ người sang người qua vật chủ 
trung gian truyền bệnh là muỗi vằn. Bệnh có thể gây thành 
dịch lớn và có tỷ lệ tử vong tương đối cao. Bệnh lưu hành tại 
trên 100 quốc gia thuộc các khu vực có khí hậu nhiệt đới và 
á nhiệt đới như vùng Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, 
châu Mỹ, châu Phi với khoảng 2,5 tỷ người sống trong vùng 
nguy cơ [2]. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới, tỷ lệ mắc 
bệnh sốt xuất huyết trên phạm vi toàn cầu đã gia tăng đáng 
Ngày nhận bài: 30/09/2016 Ngày phản biện: 07/10/2016 Ngày duyệt đăng: 12/10/2016
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 35 - Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn 5
kể trong vài thập kỷ gần đây, với khoảng 390 triệu ca nhiễm 
sốt xuất huyết mỗi năm [2]. Tại Việt Nam, sốt xuất huyết tập 
trung chủ yếu tại các tỉnh miền Nam và miền Trung. Theo 
thống kê của Bộ Y tế, đến đầu tháng 8 năm 2016 cả nước ghi 
nhận gần 50.000 ca mắc tại 48 tỉnh/thành phố và 17 trường 
hợp tử vong. Số ca mắc tập trung chủ yếu ở một số tỉnh như 
Tây Nguyên, Kon Tum, Gia Lai, Khánh Hòa, Bình Định, Phú 
Yên, Đà Nẵng [12]. 
Bình Định là một tỉnh thuộc khu vực duyên hải miền 
Trung, có khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho sự phát triển của 
muỗi truyền bệnh SXH. Theo báo cáo của Sở Y tế tỉnh Bình 
Định, tình hình dịch bệnh SXH trên địa bàn tỉnh trong năm 
2016 đang tiếp tục diễn biến rất phức tạp, số ca mắc ngày càng 
tăng [7]. Huyện Vân Canh đang là một trong những điểm nóng 
của tỉnh Bình Định về sốt xuất huyết Dengue (SXHD). Đến 
ngày 15/11/2015, huyện Vân Canh có 196 trường hợp mắc 
SXHD, tỷ lệ mắc 712,5 ca/100.000 dân, trong đó thị trấn Vân 
Canh có số mắc cao nhất 123 trường hợp, chiếm 62,7% tổng 
số ca mắc toàn huyện, tỷ lệ mắc 1.943,4 ca /100.000 dân [11]. 
Do chưa có vắc xin phòng bệnh, chưa có thuốc điều trị đặc 
hiệu, nên kiến thức và thực hành phòng bệnh của người dân 
được cho là đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ lệ mắc 
SXHD tại cộng đồng. Bài báo này được thực hiện với mục tiêu 
tìm hiểu kiến thức và thực hành của người dân tại thị trấn Vân 
Canh, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định về phòng chống bệnh 
sốt xuất huyết Dengue năm 2016.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là chủ hộ gia đình, tuổi từ 18-65 
tuổi, không bị câm điếc, không bị rối loạn tâm thần, đồng ý 
tham gia nghiên cứu, có khả năng hợp tác trả lời phỏng vấn 
và sinh sống liên tục trên địa bàn huyện ít nhất là từ 6 tháng 
trở lên.
- Thời gian: Từ tháng 12 năm 2015 đến tháng 9 năm 2016.
- Địa điểm nghiên cứu: Thị trấn Vân Canh, huyện Vân 
Canh, tỉnh Bình Định
2. Thiết kế nghiên cứu: Thiết kế cắt ngang có phân tích.
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu:
 p(1-p)
 n= Z2
(1-α⁄2 )
 ----------------------------- 
 d2. n = Cỡ mẫu tối thiểu . α = 0,05, với độ tin cậy 95%, vậy Z(1- α/2) = 1,96.. p = 0,15 (tỷ lệ hộ gia đình có bọ gậy là 15%, theo kết 
quả điều tra bọ gậy nguồn trên địa bàn tỉnh vào tháng 7/2015 
của Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Bình Định) [10]. Do bài báo 
này sử dụng một phần số liệu của nghiên cứu tìm hiểu về ổ bọ 
gậy nguồn nên cỡ mẫu hộ gia đình được tính theo cỡ mẫu liên 
quan tới ổ bọ gậy nguồn. .Độ chính xác mong muốn d = 0,05.
Áp dụng công thức tính được cỡ mẫu n = 195. Để tránh 
mất một số hộ gia đình không điều tra được hoặc không đồng 
ý tham gia nghiên cứu, cỡ mẫu được tăng lên 10% và làm tròn 
số là 220, tương ứng với 220 hộ gia đình. Cỡ mẫu để điều tra 
kiến thức, thực hành là 220 người chủ hộ, đại diện cho 220 hộ 
gia đình được chọn ở cỡ mẫu điều tra bọ gậy.
3. Phương pháp thu thập số liệu
Nghiên cứu sử dụng bộ phiếu hỏi về kiến thức và thực 
hành của người dân về phòng chống SXHD, quan sát tình 
trạng vệ sinh nhà ở và dụng cụ chứa nước với các biến số 
nghiên cứu sau:. Thông tin chung: Tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, 
nghề nghiệp. Nguồn thông tin về phòng chống SXHD. Kiến thức về phòng bệnh SXHD: Biểu hiện, đường lây 
truyền, vật lây truyền, phòng bệnh. Thực hành của người dân về phòng bệnh SXHD: Các 
biện pháp phòng chống, diệt muỗi/bọ gậy, vệ sinh dụng cụ 
chứa nước
4. Phân tích số liệu
Số liệu được nhập bằng phần mềm EpiData, xử lý bằng 
phần mềm SPSS 16.0 và Exel. Sử dụng các test nghiên cứu: 
OR, khi bình phương (χ2); KTC 95% và p với mức ý nghĩa 
thống kê p<0,05.
5. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được Hội đồng đạo đức của trường Đại học 
Y tế Công cộng đồng ý thông qua ngày 18 tháng 01 năm 2016 
(Số: 079/2016/YTCC-HĐ3).
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Tổng số có 220 người dân tham gia nghiên cứu, thuộc các 
dân tộc Kinh (80%), Chăm (12,3%) và Ba Na (7,7%). Tỷ lệ 
phân bổ độ tuổi từ 31 - 45 chiếm tỷ lệ cao nhất là 47,3%. 
Đa số đối tượng tham gia nghiên cứu làm nghề nông nghiệp 
(51,8%). Về trình độ học vấn chiếm tỷ lệ cao là nhóm THCS 
(31,8%) và tiểu học (26,4%). Trong số 220 người được hỏi, có 
98,2% người dân trả lời là đã từng nghe về bệnh SXHD.
2. Kiến thức của người dân về phòng bệnh sốt xuất 
huyết Dengue
Kiến thức của người dân về phòng bệnh SXHD được trình 
bày tại Bảng 3.1. Kết quả nghiên cứu tại Bảng 3.1 cho thấy, 
đa số đối tượng tham gia nghiên cứu đều biết đến biểu hiện 
của bệnh SXHD, nguyên nhân gây bệnh SXHD là do muỗi 
truyền (trên 90%). Mặc dù có 96,4% người dân biết muỗi 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 35- Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn6
là nguyên nhân truyền bệnh SXHD, tuy nhiên chỉ có 55,9% 
người dân biết muỗi truyền bệnh SXHD là muỗi vằn. Tỷ lệ 
người dân biết thời gian hoạt động của muỗi là ban ngày khá 
thấp (25,9%); 55% người được phỏng vấn cho biết muỗi vằn 
thường đậu trong nhà. Có 91,9% người dân biết nơi sống của 
bọ gậy Aedes là các dụng cụ chứa nước xung quanh nhà và 
các dụng cụ phế thải có nước. Phần lớn người dân biết diệt 
muỗi và bọ gây là biện pháp hữu hiệu để phòng bệnh SXHD 
(76,4%). 76,4% người dân cũng nắm được cách diệt muỗi và 
bọ gậy SXHD.
Bảng 3.1. Kiến thức của đối tượng phỏng vấn về phòng 
chống SXHD (n=220)
Kiến thức Số lượng Tỉ lệ %
Biết biểu hiện của bệnh SXHD 198 90%
Biết bệnh SXHD do muỗi 
truyền
212 96,4%
Muỗi truyền bệnh 
SXHD là muỗi vằn
123 55,9%
Thời gian muỗi đốt là ban ngày 57 25,9%
Muỗi vằn thường đậu trong nhà 121 55%
Nơi sống của bọ gậy Aedes 202 91,9%
Cách phòng SXHD là diệt 
muỗi và bọ gậy
168 76,4%
Biết cách diệt muỗi, bọ gậy 
SXHD
168 76,4%
Kiến thức chung về phòng bệnh SHXD được trình bày ở 
Biểu đồ 3.1.
Biểu đồ 3.1. Phân loại kiến thức chung của người dân 
về phòng bệnh SXHD
Kiến thức 
chưa đúng 
140 (63,6%)
Kiến thức 
đúng 80 
(36,4%)
Từ kết quả ở biểu đồ 3.1 có thể thấy, tỷ lệ người dân có 
kiến thức đúng về phòng bệnh SXHD chưa cao, chỉ chiếm 
36,4% tổng số người được hỏi, còn lại là có kiến thức chưa 
đúng về bệnh (63,6%).
3. Thực hành của người dân về phòng bệnh sốt xuất 
huyết Dengue
Thực hành phòng bệnh SXHD được trình bày ở Bảng 3.2. 
Kết quả bảng 3.2 cho thấy, trong 220 đối tượng được phỏng 
vấn và kèm theo quan sát thực hành phòng bệnh SXHD tại 
hộ gia đình có 57,7% hộ gia đình có ngủ màn nhưng chỉ có 
41,8% hộ gia đình ngủ màn cả ngày lẫn đêm, 47,3% phun 
thuốc diệt muỗi, 52,7% dùng đèn, vợt điện diệt muỗi và chỉ 
có 21,4% dùng hương diệt muỗi. 
Hầu hết các hộ gia đình tại thị trấn Vân Canh đều có trữ nước 
để ăn uống và sinh hoạt nhưng chỉ có 48,2% hộ gia đình 
đậy kín các dụng cụ chứa nước để ngăn muỗi sinh sản. Khi 
quan sát tình trạng vệ sinh phòng bệnh SXHD ở các hộ gia 
đình tham gia nghiên cứu cho thấy 63,2% hộ gia đình có súc 
rửa các dụng cụ chứa nước ăn uống trong nhà, nhưng chỉ có 
35,9% hộ gia đình dọn dẹp tốt phế liệu phế thải chứa nước 
trong và quanh nhà, chỉ có 24,1% hộ gia đình có thả các loài 
cá ăn bọ gậy vào các bể chứa nước. Có 53,6% hộ gia đình 
súc rửa dụng cụ chứa nước và 51,4% hộ gia đình dọn dẹp vật 
phế thải đúng cách, có 20,9% hộ gia đình trong nghiên cứu 
có bọ gậy Aedes.
Bảng 3.2. Thực hành về phòng chống SXHD của người dân
Thực hiện các biện pháp
phòng chống SXHD
Số lượng Tỉ lệ %
Nằm màn phòng tránh muỗi đốt 127 57,7%
Ngủ màn cả ngày lẫn đêm 92 41,8%
Phun thuốc diệt muỗi 104 47,3%
Dùng hương diệt muỗi 47 21,4%
Dùng đèn, vợt 116 52,7%
Đậy nắp kín dụng cụ chứa nước 106 48,2%
Thau rửa dụng cụ chứa nước 139 63,2%
Thả cá vào dụng cụ chứa nước 53 24,1%
Thu nhặt phế liệu phế thải 79 35,9%
Súc rửa định kỳ dụng cụ 
chứa nước 1 tuần/ 1 lần
118 53,6%
Dọn dẹp dụng cụ phế thải trong 
và ngoài nhà 1 tuần/ 1 lần
113 51,4%
Hộ gia đình có bọ gậy Aedes 46 20,9%
Kết quả về thực hành chung phòng bệnh SXHD của người 
dân tại thị trấn Vân Canh được trình bày ở Biểu đồ 3.2.
Biểu đồ 3.2. Thực hành chung của người dân về phòng 
bệnh SXHD
Thực hành 
chưa đúng 
155 (70,5%)
Thực hành 
đúng 65 
(29,5%)
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 35 - Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn 7
Từ kết quả Biểu đồ 3.2 cho thấy tỷ lệ người dân được 
phỏng vấn có thực hành đạt về phòng SXHD chiếm tỷ lệ 
thấp (29,5%) và tỷ lệ người có thực hành không đạt là 70,5%.
IV. BÀN LUẬN
Kết quả phân tích số liệu nghiên cứu và biểu đồ 3.1 cho 
thấy, trong 220 đối tượng tham gia nghiên cứu chỉ có 80 đối 
tượng có kiến thức chung đúng về phòng bệnh SXHD, đạt tỷ 
lệ 36,4% và có đến 140 đối tượng có kiến thức chung chưa 
đúng về phòng bệnh SXHD, chiếm tỷ lệ 63,6%. Kết quả này 
cao hơn kết quả nghiên cứu của Hồ Thị Phương Như ở xã 
Đại Yên, Chương Mỹ năm 2003 (23,2% đối tượng có kiến 
thức đúng) [6] và tương đương với nghiên cứu của Nguyễn 
Văn Kiệt năm 2015 tại An Giang với 39,6% đối tượng có 
kiến thức đúng [5], nhưng thấp hơn kết quả nghiên cứu của 
Nguyễn Hồng Thanh năm 2009 tại phường Lý Thái Tổ, quận 
Hoàn Kiếm (65,5%), nghiên cứu của Trương Phi Hùng tại 
thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 (63%) và nghiên cứu của 
Huỳnh Ngọc Ánh năm 2014 tại Quảng Ngãi (66,3%) [1], 
[3], [9].
Kết quả phân tích số liệu nghiên cứu và biểu đồ 3.2 cho 
thấy, trong 220 đối tượng tham gia nghiên cứu chỉ có 65 đối 
tượng có thực hành chung đúng về phòng bệnh SXHD, đạt tỷ 
lệ 29,5% và có đến 155 đối tượng có thực hành chung chưa 
đúng về phòng bệnh SXHD, chiếm tỷ lệ 70,5%. Kết quả này 
tương đương với nghiên cứu của Nguyễn Văn Kiệt tại An 
Giang năm 2015 (28,8% đối tượng có thực hành đúng về 
phòng bệnh SXHD) [5], cao hơn nghiên cứu của Lê Thành 
Tài tại Cần Thơ năm 2007 (22,1%) [8] và cũng cao hơn 
nghiên cứu của Đặng Thị Kim Hạnh tại quận Hoàng Mai 
năm 2007 ở phường Thịnh Liệt (17%) và phường Trần Phú 
(17,4%) [4]. Sở dĩ tỷ lệ thực hành phòng chống SXHD trong 
nghiên cứu này có sự chênh lệch cao hơn với các nghiên 
cứu của Lê Thành Tài và Đặng Thị Kim Hạnh là vì những 
nghiên cứu trên thực hiện cách nay gần 10 năm. Hiện nay 
trình độ dân trí có phần tăng lên, công tác phòng chống dịch 
bệnh được chú trọng, phương tiện thông tin đại chúng phủ 
sóng rộng khắp, kinh tế hộ gia đình phát triển Đó là những 
điều kiện thuận lợi để người dân quan tâm đến sức khỏe của 
bản thân và gia đình nhiều hơn, có ý thức hơn trong công tác 
phòng bệnh nói chung và bệnh SXHD nói riêng.
Tuy nhiên, kiến thức chung và thực hành chung trong 
phòng bệnh SXHD của người dân trên địa bàn thị trấn Vân 
Canh còn rất thấp, thể hiện ở số liệu có đến trên 60% người 
được phỏng vấn và trên 70% hộ gia đình tham gia nghiên cứu 
có kiến thức và thực hành phòng bệnh SXHD chưa đúng. Vì 
vậy, ngoài việc tuyên truyền, giáo dục sức khỏe cho người 
dân về phòng bệnh SXHD thì cần phải hướng dẫn thực hành 
cách phòng bệnh SXHD trực tiếp tại các hộ gia đình là việc 
làm cần thiết, để người dân từng bước thay đổi hành vi phòng 
chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe cho bản thân, gia đình và 
cộng đồng.
V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn người dân trong 
nghiên cứu chưa có kiến thức đúng về bệnh SXHD, chiếm 
tỷ lệ 63,6%. Đa số người dân có kiến thức tốt về biểu hiện, 
nguyên nhân gây SXHD là do muỗi truyền và nơi sống của 
bọ gậy Aedes (trên 90%). Tuy nhiên chỉ có 55,9% người dân 
biết muỗi truyền bệnh SXHD là muỗi vằn. Có 76,4% người 
biết phòng bệnh SXHD bằng cách diệt muỗi và bọ gậy.
Về thực hành phòng bệnh, chỉ có 29,5% người dân được 
hỏi có thực hành đạt về phòng bệnh SXHD. Tỷ lệ người dân 
thực hiện các biện pháp phòng bệnh SXHD chỉ chiếm tỷ lệ 
từ 21,4-63,2%, trong đó thau rửa dụng cụ chứa nước là biện 
pháp được người dân sử dụng nhiều nhất (63,2%).
Để làm giảm tỷ lệ mắc SXHD tại địa bàn nghiên cứu, 
ngành y tế địa phương cần đẩy mạnh các biện pháp truyền 
thông nhằm nâng cao kiến thức và thực hành của người dân 
về phòng bệnh: phát tờ rơi, sách mỏng; tổ chức các buổi 
truyền thông tại thôn, xóm; truyền thông qua loa phát thanh 
về cách diệt muỗi và bọ gậy, hướng dẫn người dân thực hành 
phòng chống SXHD trực tiếp tại nhà. Đồng thời, cần đẩy 
mạnh các hoạt động thu gom phế thải, thau cọ chum vại, bể 
cảnh, đậy nắp kín dụng cụ chứa nước hoặc thả cá diệt bọ gậy 
tại thị trấn Vân Canh nhằm làm giảm quần thể véc tơ truyền 
bệnh SXHD tại khu vực này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Huỳnh Ngọc Ánh (2014), "Thực trạng kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan đến phòng bệnh sốt xuất huyết 
của người dân xã Bình Trị, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi năm 2014", Luận văn thạc sỹ Y tế công cộng, Đại học Y tế 
Công cộng, Hà Nội, tr. 38-45.
2. Bộ Y tế (2014). Tình hình sốt xuất huyết và các hoạt động phòng chống dịch đã triển khai đến tháng 5/2014. Truy cập 
ngày 29/9/2016 tại trang web:  us/news/pages/phongchongdichsoi.aspx?ItemID=578
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 35- Tháng 11+12/2016
Website: yhoccongdong.vn8
3. Trương Phi Hùng (2010), "Kiến thức, thái độ và thực hành về phòng chống sốt xuất huyết của thân nhân bệnh nhân sốt 
xuất huyết tại Bệnh viện Nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh năm 2010", tr. 32-35.
4. Đặng Thị Kim Hạnh (2007), "Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến quần thể muỗi truyền bệnh sốt Dengue/sốt xuất 
huyết Dengue tại 2 phường Thịnh Liệt và Trần Phú, quận Hoàng Mai, Hà Nội, năm 2007", Luận văn thạc sỹ Y tế công 
cộng, Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội, tr. 32-41.
5. Nguyễn Văn Kiệt (2015), "Kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan về phòng bệnh sốt xuất huyết của người 
dân xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang năm 2015", Luận văn thạc sỹ Y tế Công cộng, Đại học Y tế Công cộng, 
Hà Nội, tr. 36-41.
6. Hồ Thị Phương Như (2003), "Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến véc tơ truyền bệnh SD/SXHD tại xã Đại Yên, 
huyện Chương Mỹ, Hà Tây năm 2003", Luận văn thạc sỹ Y tế công cộng, Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội, tr. 38-41.
7. Sở Y tế tỉnh Bình Định (2016). Ghi nhận công tác giám sát dịch bệnh sốt xuất huyết tại Phù Mỹ. Truy cập ngày 
29/9/2016 tại trang web: 
8. Lê Thành Tài và Nguyễn Thị Kim Yến (2008), "Kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan đến phòng sốt 
xuất huyết Dengue của người dân xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ năm 2007", Tạp chí Y học thành 
phố Hồ Chí Minh, 12, tr. 19-24.
9. Nguyễn Hồng Thanh (2009), "Xác định ổ bọ gậy nguồn và một số yếu tố liên quan đến quần thể bọ gậy của muỗi truyền 
bệnh SD/SXHD tại 2 phường Lý Thái Tổ và Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội 2009", Luận văn thạc sỹ Y tế công cộng, 
Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội, tr. 38-44.
10. Trung tâm Y tế dự phòng Bình Định (2015), Báo cáo kết quả điều tra bọ gậy nguồn trên địa bàn tỉnh, tháng 7 năm 2015.
11. Trung tâm Y tế dự phòng Bình Định (2015), Báo cáo tình hình phòng chống dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue đến ngày 
15 tháng 11 năm 2015.
12. Viện Sốt rét Ký sinh trùng côn trùng Quy Nhơn (2016). Tình hình sốt xuất huyết và chỉ đạo phòng chống sốt xuất huyết 
của Chính phủ và Bộ Y tế. Truy cập 29/9/2016 tại trang web: 
jsp?area=58&cat=1175&ID=9973

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thuc_hanh_ve_phong_benh_sot_xuat_huyet_dengue_cua.pdf