Kiến thức-Thực hành về phân định chất thải y tế của điều dưỡng tại một số bệnh viện

Nghiên cứu nhằm mục đích mô tả thực trạng kiến thức, thực hành về phân định chất thải y tế của

điều dưỡng tại một số Bệnh viện ở Hà Nội, Thái Nguyên, Nghệ An và Kiên Giang. Trong nghiên cứu cắt

ngang này, 800 điều dưỡng đã tham gia với bộ câu hỏi tự điền được thiết kế sẵn. Kết quả nghiên cứu cho

thấy 67,5% điều dưỡng có kiến thức đúng về số loại chất thải y tế, tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đúng về

phân định chất thải lây nhiễm, chất thải y tế nguy hại không lây nhiễm, chất thải y tế thông thường lần

lượt là 86,9%; 63,8% và 64,1%. Tỷ lệ điều dưỡng thực hành đúng phân định chất thải y tế lây nhiễm là

43,9%, chất thải y tế thông thường là 25,4%. Thực hành phân định chất thải y tế chưa đúng là một vấn

đề cần được giải quyết, các Bệnh viện cần có những giải pháp can thiệp để cải thiện thực trạng này

pdf 8 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức-Thực hành về phân định chất thải y tế của điều dưỡng tại một số bệnh viện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức-Thực hành về phân định chất thải y tế của điều dưỡng tại một số bệnh viện

Kiến thức-Thực hành về phân định chất thải y tế của điều dưỡng tại một số bệnh viện
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
220 TCNCYH 130 (6) - 2020
Tác giả liên hệ: Bùi Văn Tùng,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 26/05/2020
Ngày được chấp nhận: 23/08/2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất thải y tế (CTYT) được định nghĩa là 
chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động 
khám chữa bệnh của các cơ sở y tế.1,2 CTYT 
bao gồm chất thải y tế thông thường chiếm 
85% tổng lượng chất thải, 15% còn lại là CTYT 
nguy hại.1 Những chất thải này có khả năng gây 
thương tích và lây lan bệnh truyền nhiễm cao 
hơn các loại chất thải khác,3 ít nhất 50% dân 
số thế giới bị đe dọa bởi môi trường bị ô nhiễm 
do quản lý chất thải y tế kém.4 Đặc biệt là nhân 
viên y tế, những người tiếp xúc đầu tiên với 
CTYT đều có nguy cơ mắc những bệnh truyền 
nhiễm như viêm gan B, viêm gan C, HIV.5 
Do quá trình hiện đại hóa các dịch vụ y tế 
và số lượng bệnh nhân tăng lên, các cơ sở y 
tế tạo ra một lượng lớn CTYT. Theo báo cáo 
của Cục Quản lý Môi trường Y tế - Bộ Y tế năm 
2010, bình quân mỗi ngày, các cơ sở y tế trên 
cả nước thải ra khoảng 380 tấn chất thải rắn, 
trong đó có khoảng 45 tấn là chất thải rắn y tế 
nguy hại và ước tính tới năm 2020 là khoảng 
800 tấn/ngày.6 Tuy nhiên công tác phân định, 
phân loại xử lý chất thải của các cơ sở y tế 
còn nhiều bất cập và hạn chế. Hầu hết CTYT 
chưa được phân định, phân loại đúng, chưa 
được khử khuẩn trước khi thải bỏ, công tác 
xử lý không đảm bảo vệ sinh môi trường,7 một 
phần nguyên nhân ở đây là do thiếu kiến thức 
và thiếu được đào tạo cho các nhân viên y tế 
trong việc quản lý CTYT.8 
Hiện nay quy trình quản lý CTYT được Bộ 
Y tế - Bộ Tài Nguyên và Môi Trường đưa ra 
theo thông tư 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT bao 
gồm một chuỗi các quá trình từ phân định, phân 
loại đến khâu xử lý, trong đó khâu quan trọng 
đầu tiên là phân định CTYT.9 Việc phân định 
đúng CTYT sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá 
trình phân loại và xử lý, bên cạnh đó giúp giảm 
chi phí cho công tác xử lý. Trong các cơ sở 
KIẾN THỨC-THỰC HÀNH VỀ PHÂN ĐỊNH CHẤT THẢI Y TẾ 
CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN 
Bùi Văn Tùng1, , Nguyễn Thị Phương Oanh1, Nguyễn Thanh Hà2,
 Lê Thị Hoàn1
1Viện Đào tạo YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội,
2 Cục Quản lý môi trường, Bộ Y tế. 
Nghiên cứu nhằm mục đích mô tả thực trạng kiến thức, thực hành về phân định chất thải y tế của 
điều dưỡng tại một số Bệnh viện ở Hà Nội, Thái Nguyên, Nghệ An và Kiên Giang. Trong nghiên cứu cắt 
ngang này, 800 điều dưỡng đã tham gia với bộ câu hỏi tự điền được thiết kế sẵn. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy 67,5% điều dưỡng có kiến thức đúng về số loại chất thải y tế, tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đúng về 
phân định chất thải lây nhiễm, chất thải y tế nguy hại không lây nhiễm, chất thải y tế thông thường lần 
lượt là 86,9%; 63,8% và 64,1%. Tỷ lệ điều dưỡng thực hành đúng phân định chất thải y tế lây nhiễm là 
43,9%, chất thải y tế thông thường là 25,4%. Thực hành phân định chất thải y tế chưa đúng là một vấn 
đề cần được giải quyết, các Bệnh viện cần có những giải pháp can thiệp để cải thiện thực trạng này. 
Từ khóa: Chất thải y tế, điều dưỡng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
221TCNCYH 130 (6) - 2020
y tế, điều dưỡng là người trực tiếp phân định 
CTYT ngay tại nguồn phát sinh, do vậy việc có 
kiến thức và thực hành tốt về vấn đề này là 
rất cần thiết. Hiện nay rất ít nghiên cứu về kiến 
thức thực hành của điều dưỡng về phân định 
CTYT đươc thực hiện và quy mô dừng lại ở một 
Bệnh viện. Nhằm có một đánh giá tổng thể nhất 
về kiến thức, thực hành của điều dưỡng trong 
phân định CTYT tại một số Bệnh viện trên cả 
nước, tạo tiền đề cho việc đưa ra các đề xuất 
đào tạo và giám sát chúng tôi thực hiện nghiên 
cứu này với mục tiêu: “So sánh kiến thức - thực 
hành phân định CTYT giữa 3 nhóm Bệnh viện 
ở Hà Nội, Thái Nguyên, Nghệ An và Kiên Giang 
năm 2018”.
II. PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Điều dưỡng làm việc tại 12 bênh viện tham 
gia nghiên cứu thỏa mãn các tiêu chuẩn lựa 
chọn sau: 
Điều dưỡng được ký hợp đồng làm việc tại 
Bệnh viện thuộc các khoa lâm sàng, khoa cận 
lâm sàng và khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn.
Có mặt tại thời điểm nghiên cứu 
2. Phương pháp
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được triển 
khai tại 12 Bệnh viện thuộc 4 tỉnh Thái Nguyên, 
Nghệ An và Kiên Giang và Hà Nội. Mỗi tỉnh tiến 
hành nghiên cứu tại 01 Bệnh viện đa khoa tỉnh, 
01 Bệnh viện đa khoa huyện và 01 Bệnh viện 
tư nhân. 
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8/2018 đến 
12/2018 
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu 
cho một tỷ lệ: 
n: là cỡ mẫu tối thiểu.
Z (1-α/2): là hệ số tin cậy (với độ tin cậy 95%, 
Z = 1,96).
α: mức ý nghĩa thống kê (sử dụng α = 0,05).
p: ước lượng tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức 
về phân định CTRYT (ước tính p = 63,3% theo 
nghiên cứu của tác giả Trần Thị Minh Tâm).10 
e: độ chính xác tương đối (sử dụng = 0,055)
Từ công thức trên ta tính được cỡ mẫu n 
= 736, dự kiến 5% đối tượng từ chối tham gia 
nghiên cứu, ta có cỡ mẫu tối thiểu là 773 người. 
Cỡ mẫu thực tế thu thập là n = 800 điều dưỡng, 
trong đó Bệnh viện tỉnh là 330, Bệnh viện huyện 
là 222, Bệnh viện tư nhân là 248 điều dưỡng. 
Phương pháp chọn mẫu: Áp dụng phương 
pháp chọn mẫu 2 giai đoạn: 
- Chọn chủ đích Bệnh viện nghiên cứu: tại 
mỗi tỉnh chọn 01 Bệnh viện tuyến tỉnh, 01 Bệnh 
viện tuyến huyện, 01 Bệnh viện tư nhân. 
- Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn điều dưỡng tại 
mỗi Bệnh viện theo danh sách Bệnh viện cung 
cấp. 
Công cụ nghiên cứu
Bộ công cụ nghiên cứu được xây dựng dựa 
trên quy định về quản lý CTYT tại thông tư liên 
tịch 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT của Bộ Y tế-Bộ 
Tài Nguyên và Môi Trường gồm 2 phần
Phần 1: Kiến thức về phân định CTYT: bao 
gồm 15 câu hỏi 
Kiến thức về số loại CTYT: 4 câu
Kiến thức về phân định CTYT thông thường: 
3 câu 
CTYT nguy hại lây nhiễm: 4 câu
CTYT nguy hại không lây nhiễm: 4 câu
Phần 2: Thực hành phân định CTYT bao 
gồm 2 câu hỏi tình huống về thực hành phân 
định CTYT thông thường và CTYT lây nhiễm
Quy trình tiến hành nghiên cứu 
n= Z
(1 - 
α
2
)
2 p(1 - p)
(pε)
2
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
222 TCNCYH 130 (6) - 2020
Bước 1: Xây dựng, thử nghiệm và hoàn 
thiện bộ công cụ thu thập 
Bước 2: Tập huấn điều tra viên về triển khai 
và cách thu thập số liệu 
Bước 3: Tiến hành thu thập số liệu, số liệu 
được thu thập trên danh sách điều dưỡng đã 
có theo phương pháp tự điền dưới sự giám sát 
của điều tra viên. 
3. Xử lý số liệu
Số liệu được nhập, quản lý bằng phần mềm 
Epidata 3.1 và phân tích bằng phần mềm SPSS 
22.0. Sử dụng thống kê mô tả: tần số, tỷ lệ phần 
trăm với các biến định tính, sử dụng test χ2 để 
tìm sự khác biệt về kiến thức, thực hành phân 
định CTYT của điều dưỡng giữa các Bệnh viện. 
3. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu là một phần của Nhiệm vụ bảo 
vệ môi trường, được Cục Quản lý môi trường 
y tế thông qua, được sự chấp thuận của các 
Bệnh viện tham gia. 
Trước khi tham gia nghiên cứu, đối tượng 
nghiên cứu được giải thích về mục đích, nội 
dung của nghiên cúu và tự nguyện tham gia 
vào nghiên cứu
Các thông tin thu thập được chỉ phục vụ cho 
mục đích nghiên cứu ngoài ra không nhằm mục 
đích nào khác
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu được thực hiện trên 800 điều dưỡng trên 12 Bệnh viện thuộc 3 miền trên cả nước 
(4 Bệnh viện tuyến tỉnh, 4 Bệnh viện tuyến huyện và 4 Bệnh viện tư nhân). Tuổi trung bình của đối 
tượng nghiên cứu là 31,9±7,5, trong đó người nhỏ tuổi nhất là 21 và cao tuổi nhất là 63 tuổi. Trong 
số đối tượng tượng tham gia nghiên cứu nam giới chiếm 14,1% và nữ giới là 75,9%. Thời gian công 
tác trung bình của đối tượng nghiên cứu là 7,8±6,3 năm, trong đó ít nhất là 1 năm và nhiều nhất là 
37 năm. Trình độ chuyên môn kĩ thuật có 0,3% đối tượng có trình độ sau đại học, 50,2% đại học, cao 
đẳng, 49,1% trung cấp và sơ cấp là 0,4%. 
1. Kiến thức về phân định chất thải y tế của điều dưỡng
Biểu đồ 1. Kiến thức về phân định số loại chất thải y tếcủa điều dưỡng
Có 67,5% điều dưỡng tại các Bệnh viện biết đúng có 3 loại CTYT, trả lời sai là 32,5%. Trong đó, 
tỷ lệ biết đúng cao nhất là nhóm Bệnh viện tư nhân (87,1%), sau đó là nhóm Bệnh viện tuyến tỉnh 
(62,7%) và Bệnh viện tuyến huyện (52,7%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. 
62,7%
52,7%
87,1%
67,5%
37,3%
47,3%
12,9%
32,5%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Bệnh viện tỉnh 
(n = 330)
Bệnh viện huyện 
(n = 222)
Bệnh viện tư nhân 
(n = 248)
Tổng (n = 800)
Sai
Đúng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
223TCNCYH 130 (6) - 2020
Bảng 1. Kiến thức về phân định chất thải lây nhiễm của điều dưỡng
Chất thải lây nhiễm
Bệnh viện 
tỉnh 
Bệnh viện 
huyện
Bệnh viện 
tư nhân p
Tổng
n (%) n (%) n (%) n (%)
Biết đầy đủ các loại 278 (84,2) 186 (83,8) 231 (93,2) 0,002 695 (86,9)
Chất thải lây nhiễm sắc nhọn 319 (96,7) 210 (94,6) 247 (99,6) 0,006 776 (97,0)
Chất thải lây nhiễm không 
sắc nhọn
311 (94,2) 208 (93,7) 243 (98,0) 0,049 762 (95,2)
Chất thải có nguy cơ lây 
nhiễm cao
315 (95,4) 203 (91,4) 240 (96,8) 0,027 758 (94,7)
Chất thải giải phẫu 291 (88,2) 191 (86,0) 236 (95,2) 0,002 718 (89,8)
Hầu hết các điều dưỡng tại các Bệnh viện có kiến thức đúng đầy đủ về phân định chất thải lây 
nhiễm (86,9 %), Bệnh viện tư nhân có tỷ lệ cao nhất là 93,2%, tiếp theo là Bệnh viện tỉnh 84,2%, 
Bệnh viện tư nhân là 83,8%. Trong đó, tỷ lệ biết từng loại trong nhóm chất thải lây nhiễm khá tương 
đồng: chất thải lây nhiễm sắc nhọn (97,0%), chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (95,2%), chất thải 
có nguy cơ lây nhiễm cao (94,7%) và chất thải giải phẫu (89,8%). Nhưng tỷ lệ biết từng loại chất thải 
lây nhiễm lại khác nhau giữa 3 nhóm Bệnh viện tỉnh, huyện và tư nhân, với ý nghĩa thống kê p < 0,05.
Bảng 2. Kiến thức về phân định chất thải nguy hại không lây nhiễm của điều dưỡng
Chất thải nguy hại không lây nhiễm
Bệnh viện 
tỉnh
Bệnh viện 
huyện
Bệnh viện 
tư nhân p
Tổng
n (%) n (%) n (%) n (%)
Biết đầy đủ các loại 218 (66,1) 127 (57,2) 165 (66,5) 0,058 510 (63,8)
Hóa chất thải bỏ bao gồm hoặc có 
thành phần nguy hại
264 (80,0) 175 (78,8) 224 (90,3) 0,001 663 (82,9)
Dược phẩm thải bỏ thuộc nhóm gây 
độc tế bào hoặc có cảnh báo nguy hại 
từ nhà sản xuất
260 (78,8) 180 (81,1) 224 (90,3) 0,001 664 (83,0)
Thiết bị y tế vỡ, hỏng, thải bỏ có chứa 
thủy ngân và các kim loại nặng
274 (83,0) 188 (84,7) 231 (93,2) 0,001 693 (86,6)
Chất hàn răng amalgam thải bỏ 269 (81,5) 161 (72,5) 181 (73,0) 0,016 611 (76,4)
Chỉ có 63,8% điều dưỡng có kiến thức đúng đầy đủ về phân định chất thải nguy hại không lây 
nhiễm, trong đó tỷ lệ cao nhất là Bệnh viện tư nhân 66,5%, Bệnh viện tỉnh là 66,1%, Bệnh viện huyện 
là 57,2%. Tỷ lệ biết về hóa chất thải bỏ, dược phẩm thải bỏ và thiết bị y tế vỡ hỏng khá tương đồng 
(trên 80 %) đặc biệt tỷ lệ này ở Bệnh viện tư nhân đều trên 90%, trừ chất hàn răng amalgam có tỷ 
lệ thấp nhất (76,4%). Và tỷ lệ có kiến thức đúng về phân định từng loại chất thải nguy hại không lây 
nhiễm cũng khác nhau giữa 3 nhóm Bệnh viện tỉnh, huyện và tư nhân, với ý nghĩa thống kê p < 0,05.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
224 TCNCYH 130 (6) - 2020
Bảng 3. Kiến thức về phân định chất thải y tế thông thường của điều dưỡng
CTYT thông thường
Bệnh viện 
tỉnh
Bệnh viện 
huyện
Bệnh viện 
tư nhân p
Tổng
n (%) n (%) n (%) n (%)
Biết đầy đủ các loại 218 (66,1) 125 (56,3) 170 (68,6) 0,014 513 (64,1)
Chất thải rắn sinh hoạt 268 (81,2) 166 (74,8) 204 (82,3) 0,09 638 (79,8)
Chất thải ngoại cảnh trong cơ sở y tế 258 (78,2) 175 (78,8) 206 (83,1) 0,315 639 (79,9)
Chất thải rắn thông thường phát sinh 
từ cơ sở y tế
292 (88,5) 191 (86,0) 228 (91,9) 0,122 711 (88,9)
Tỷ lệ có kiến thức phân định đầy đủ CTYT thông thường của điều dưỡng tại các Bệnh viện chỉ có 
64,1%, Tỷ lệ này ở Bệnh viện tư nhân là 68,6%, Bệnh viện tỉnh là 66,1%, Bệnh viện huyện là 56,3%. 
Trong khi đó tỷ lệ biết từng loại lại cao hơn, cụ thể có 79,8 % và 79,9 % biết chất thải rắn sinh hoạt 
của con người và chất thải ngoại cảnh trong cơ sở y tế, 88,9% biết chất thải rắn thông thường phát 
sinh từ cơ sở y tế. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) về kiến thức phân định này giữa 
3 nhóm Bệnh viện tỉnh, huyện và tư nhân.
2. Thực hành của điều dưỡng về phân định phân loại chất thải y tế
Biểu đồ 2. Thực hành về phân định CTYT của điều dưỡng
*CTYT lây nhiễm: Thực hành phân định ống tiêm sắc nhọn không thuộc nhóm thuốc gây độc tế 
bào hoặc không có dấu hiệu cảnh báo nguy hại của nhà sản xuất
**CTYT thông thường: Thực hành phân định chất thải bỏ là găng tay y tế không có dính dịch hoặc 
máu phát sinh từ các khoa/phòng của Bệnh viện (trừ khoa cách ly)
Tỷ lệ điều dưỡng thực hành đúng phân định CTYT lây nhiễm tương đối thấp, chiếm 43,9%, 
trong đó ở Bệnh viện tư nhân chỉ là 30,2%, Bệnh viện tỉnh và Bệnh viện huyện đều là 50%. Sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê giữa 3 nhóm Bệnh viện (p < 0,001). Bên cạnh đó tỉ lệ điều dưỡng thực 
50,0%
34,90%
50,0%
23,0%
30,2%
14,9%
43,9%
25,4%
0,0%
10,0%
20,0%
30,0%
40,0%
50,0%
60,0%
70,0%
80,0%
90,0%
100,0%
CTYT lây nhiễm* CTYT thông thường**
Bệnh viện tỉnh (n = 330) Bệnh viện huyện (n = 222)
Bệnh viện tư nhân (n = 248) Tổng (n = 800)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
225TCNCYH 130 (6) - 2020
hành phân định CTYT thông thường đúng rất 
thấp chỉ chiếm 25,4% và có sự khác nhau giữa 
các nhóm Bệnh viện (p < 0,001), cụ thể chỉ có 
14,9% điều dưỡng ở Bệnh viện tư nhân phân 
định đúng, Bệnh viện huyện là 23,0%, Bệnh 
viện tỉnh là 34,9%. 
IV. BÀN LUẬN
Kiến thức đầy đủ là rất quan trọng để có thể 
thực hành phân định đúng CTYT. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi có 67,5% điều dưỡng có 
kiến thức đúng về số loại CTYT, kết quả này 
tương đồng với nghiên cứu của tác giả Deress 
T (69,3%),8 cao hơn so với nghiên cứu của tác 
giả Phùng Xuân Sơn (36,7%)11 sự khác biệt này 
có thể do hiện nay công tác đào tạo cho đội 
ngũ nhân viên y tế được chú trọng hơn, bên 
cạnh đó với việc đưa ra quy định mới về quản 
lý CTYT, điều dưỡng chỉ phải phân định CTYT 
vào 3 nhóm thay vì 5 nhóm như trước kia. 
Việc phân định chất thải đúng cũng góp phần 
làm giảm thiểu lượng chất thải y tế nguy hại 
đang ngày càng ra tăng hiện nay, do đó đào tạo 
nâng cao kiến thức cho nhân viên y tế về vấn đề 
này là cần thiết. Nghiên cứu của chúng tôi cũng 
cho thấy phần lớn điều dưỡng có kiến thức đầy 
đủ về phân định chất thải lây nhiễm (86,9%), 
chất thải nguy hại không lây nhiễm (63,8%), 
chất thải thông thường (64,1%), kết quả này 
thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả Sarker 
MA về tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đúng trong 
phân định CTYT lây nhiễm (92,3%),12 tác giả 
Trần Thị Minh Tâm với kiến thức đúng về phân 
định chất thải lây nhiễm là 92,86%, CTYT thông 
thường là 96,94% và trên 85% điều dưỡng có 
kiến thức đúng về phân định CTYT nguy hại 
không lây nhiễm.10 Sự chênh lệch này có thể 
do sự thiếu hụt về kiến thức ở các nội dung 
của điều dưỡng làm việc tại tuyến huyện, mà 
nguyên nhân có thể do thiếu sự đào tạo và giám 
sát thường xuyên. Bên cạnh đó trình độ chuyên 
môn cũng ảnh hưởng đến kiến thức của điều 
dưỡng, theo số liệu thu thập được thì 58,1% 
điều dưỡng tuyến huyện có trình độ trung cấp 
và sơ cấp, cao nhất trong 3 tuyến Bệnh viện. 
Nghiên cứu còn chỉ ra có sự khác nhau về tỷ 
lệ kiến thức đúng về phân định CTYT giữa các 
Bệnh viện, điều dưỡng ở Bệnh viện tư nhân 
luôn có tỷ lệ kiến thức đúng cao hơn so với các 
Bệnh viện tuyến huyện và tuyến tỉnh. 
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ điều dưỡng thực 
hành đúng phân loại chất thải y tế lây nhiễm và 
chất thải y tế thông thường còn thấp (43,9% 
và 25,4%). Kết quả này thấp hơn nhiều so với 
nghiên cứu của tác giả Trần Thị Minh Tâm với 
tỷ lệ phân định đúng là 97,96% và 80,15%,10 tác 
giả Sarker MA với tỷ lệ phân định đúng CTYT 
lây nhiễm là 89,1%.12 Sự khác biệt này có thể 
do nghiên cứu của chúng tôi tiến hành ở nhiều 
khu vực với nhiều tuyến Bệnh viện. Tại các 
khu vực này các điều dưỡng có thể ít được tập 
huấn thực hành, đặc biệt giám sát việc phân 
định CTYT của điều dưỡng chưa hiệu quả nhất 
là ở những Bệnh viện tuyến huyện. Nghiên cứu 
này chúng tôi còn thấy việc không tương đồng 
giữa tỷ lệ kiến thức đúng và thực hành đúng, 
đặc biệt là tại Bệnh viện tư nhân. Sự không 
tương đồng này có thể do chưa thống nhất về 
quy định phân định CTYT của Bộ Y tế và quy 
định Bộ ngành khác dẫn đến khó khăn cho điều 
dưỡng khi phân định CTYT trên thực tế, vì vậy 
tỷ lệ thực hành đúng có tỷ lệ thấp. 
Hạn chế của nghiên cứu, nghiên cứu chỉ 
dừng lại ở mức độ mô tả thực trạng chưa xác 
định được những yếu tố ảnh hưởng đến kiến 
thức và thực hành của đối tượng nghiên cứu. 
Kết quả nghiên cứu chỉ đánh giá được tại thời 
điểm nghiên cứu vì được thiết kế dưới dạng 
nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
V. KẾT LUẬN 
Đa phần điều dưỡng tại các Bệnh viện đều 
có kiến thức đúng về phân định chất thải rắn y 
tế. Tuy nhiên tỷ lệ điều dưỡng thực hành đúng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
226 TCNCYH 130 (6) - 2020
phân định CTRYT lại rất thấp đặc biệt là tại các 
Bệnh viện tư nhân. Cần tăng cường đào tạo 
liên tục và giám sát đối với điều dưỡng để nâng 
cao kiến thức và thực hành về phân định CTYT. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chartier Y., Emmanuel J., Pieper U. PA, 
Rushbrook P., Stringer R. Safe Management 
of Wastes from Healthcare Activities. Vol 
2nd. Geneva, Switzerland: World Health 
Organization (WHO); 2014.
2. Pandey A, Ahuja S, Madan M, Asthana 
AK. Bio-Medical Waste Managment in a Tertiary 
Care Hospital: An Overview. Journal of clinical 
and diagnostic research: JCDR. 2016;10 
(11):Dc01-dc03.
3. Rutala WA, Mayhall CG. Medical waste. 
Infection control and hospital epidemiology. 
1992;13 (1):38-48.
4. Caniato M, Tudor T, Vaccari M. 
International governance structures for health-
care waste management: a systematic review 
of scientific literature. Journal of environmental 
management. 2015;153:93-107.
5. Marinkovic N, Vitale K, Janev Holcer N, 
Dzakula A, Pavic T. Management of hazardous 
medical waste in Croatia. Waste management 
(New York, NY). 2008;28 (6):1049-1056.
6. Trần Đắc Phu. Báo cáo một số chuyên 
đề về bảo vệ môi trường ngành Y tế giai đoạn 
2006-2010. Cục quản lý môi trường Bộ Y tế 
2010.
7. Đặng Ngọc Chánh, Lê Ngọc Diệp, Lê 
Việt Anh, Hồ Nguyễn Thanh Thảo. Kiến thức, 
thực hành về quản lý và xử lý chất thải y tế 
của nhân viên tế tại một số Bệnh viện tuyến 
tỉnh năm 2012. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí 
Minh. 2012;18 (6):104-110.
8. Deress T, Hassen F, Adane K, 
Tsegaye A. Assessment of Knowledge, 
Attitude, and Practice about Biomedical Waste 
Management and Associated Factors among 
the Healthcare Professionals at Debre Markos 
Town Healthcare Facilities, Northwest Ethiopia. 
Journal of environmental and public health. 
2018;2018:7672981.
9. Bộ Y tế- Bộ tài nguyên và môi trường. 
Thông tư liên tịch 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT 
quy định về quản lý chất thải y tế. In: Hà Nội; 
2015.
10. Trần Thị Minh Tâm, Lưu Minh Châu. 
Thực trạng kiến thức và thực hành phân loại 
chất thải rắn y tế của điều dưỡng tại các khoa 
lâm sàng Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn năm 
2015. Tạp chí Y học Việt Nam. 2017;459 
(2):111-116.
11. Phùng Xuân Sơn, Nguyễn Văn Huỳnh, 
Hà Anh Đức. Kiến thức của điều dưỡng và hộ 
lý về quản lý chất thải rắn y tế tại một số khoa, 
trung tâm thuộc Bệnh viện E năm 2016. Tạp chí 
Y học dự phòng 2017;5 (27):309-314.
12. Sarker MA, Harun-Or-Rashid M, 
Hirosawa T, et al. Evaluation of knowledge, 
practices, and possible barriers among 
healthcare providers regarding medical 
waste management in Dhaka, Bangladesh. 
Medical science monitor: international medical 
journal of experimental and clinical research. 
2014;20:2590-2597.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
227TCNCYH 130 (6) - 2020
Summary
KNOWLEDGE AND PRACTICE OF NURSES TOWARDS 
HEALTH-CARE WASTE CLASSIFICATION AT SEVERAL 
HOSPITALS
This purpose of this study is to describe the knowledge and practice of the nurses towards medical 
waste classification at several hospitals located in Hanoi, Thai Nguyen, Nghe An and Kien Giang. 
In this cross-sectional study, 800 selected nurses completed the self-reported questionnaire. We 
found that 67.5% nurses had the correct knowledge of the number of types of health-care waste, 
while the percentage for those having correct knowledge of the classsification of infectious wastes, 
non-contagious hazardous wastes and general health-care wastes was 86.9%; 63.8% and 64.1%, 
respectively. The proportion of those practicing segregation according to the correct classification 
of infectious wastes was 43.9%, for general wastes was 25.4%. Poor practice of health-care waste 
segregation is an issue to be solved, which hospital leaders should intervene to improve the situation.
Keywords: medical waste; nurse

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thuc_hanh_ve_phan_dinh_chat_thai_y_te_cua_dieu_duo.pdf