Kiến thức, thực hành về đột quỵ não của người trưởng thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam năm 2013-2014
Nghiên cứu nhằm mô tả kiến thức và thực hành về bệnh đột quỵ não ở người trưởng
thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
người dân có kiến thức đúng về các bệnh liên quan đến đột quỵ não là 54,6%; về thói
quen dễ bị đột quỵ là 50,9%; các biểu hiện của bệnh là 53,4%; về hậu quả của bệnh là
59,8%; về khả năng tái phát là 41,7%; khả năng có thể dự phòng được là 40,3% và tỷ
lệ biết cách dự phòng bệnh đột quỵ là 59,5%. Thực hành của người dân về dự phòng
đột quỵ não: 38% không uống rượu/bia; 29% bỏ thuốc lá; 28% ăn nhiều rau/hoa quả;
24% không thức quá khuya; 22% không uống cà phê; 21% ăn ít chất béo; 17% ăn nhạt/
ít muối; 16% ăn ít đường; 15% tránh căng thẳng và uống thuốc huyết áp thường xuyên;
14% giảm cân nặng. Như vậy, một số kiến thức và thực hành về đột quỵ não của người
dân còn nhiều điểm hạn chế
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thực hành về đột quỵ não của người trưởng thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam năm 2013-2014
COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC 37 (1) Trường Đại học y Hà Nội (2) Vụ hợp tác Quốc tế - Bộ y tế Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thùy Linh (Email: [email protected]) Ngày nhận bài: 20/3/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 25/3/2016. Ngày bài báo được đăng: 30/3/2016 Tóm tắt Nghiên cứu nhằm mô tả kiến thức và thực hành về bệnh đột quỵ não ở người trưởng thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về các bệnh liên quan đến đột quỵ não là 54,6%; về thói quen dễ bị đột quỵ là 50,9%; các biểu hiện của bệnh là 53,4%; về hậu quả của bệnh là 59,8%; về khả năng tái phát là 41,7%; khả năng có thể dự phòng được là 40,3% và tỷ lệ biết cách dự phòng bệnh đột quỵ là 59,5%. Thực hành của người dân về dự phòng đột quỵ não: 38% không uống rượu/bia; 29% bỏ thuốc lá; 28% ăn nhiều rau/hoa quả; 24% không thức quá khuya; 22% không uống cà phê; 21% ăn ít chất béo; 17% ăn nhạt/ ít muối; 16% ăn ít đường; 15% tránh căng thẳng và uống thuốc huyết áp thường xuyên; 14% giảm cân nặng. Như vậy, một số kiến thức và thực hành về đột quỵ não của người dân còn nhiều điểm hạn chế. Summary kNOWLEDGE AND PRACTICE ON STROkE OF ADULT IN 16 COMMUNES REPRESENTING 8 ECOREGIONS OF VIETNAM 2013 – 2014 The study was to describe the knowledge and practice on stroke of adult in 16 communes representing 8 ecoregions of Vietnam. The result showed that the proportions of people know diseases related to stroke was 54.6%; bad habits affect stroke was 50.9%; symptoms of stroke was 53.4%; consequences of stroke was 59.8%; the possibility of KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ ĐỘT QUỴ NÃO CỦA NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TẠI 16 XÃ THUỘC 8 VÙNG SINH THÁI VIỆT NAM NĂM 2013 - 2014 Lê Thị Hương1, Lê Thị Tài1, Trần Thị Giáng Hương2, Nguyễn Thùy Linh1 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016 38 recurrent stroke was 41.7%; ability to preventive of stroke was 40.3% and the proportion know how to preventing stroke was 59.5%. Practice of the people on prevention of stroke: 38% quit drinking alcohol/beer; 29% quit smoking; 28% eat more vegetables/fruit; 24% stop staying up late; 22% did not drink coffee; 21% low-fat diets; 17% low-salt diet; 16% eat less sugar; 15% avoid stress and use of antihypertensive medication regularly; 14% lose weight. In conclusion, the knowledge and practice of people on stroke has been incompleted. Keywords: knowledge, practice, stroke, 8 ecoregions. ĐẶT VẤN ĐỀ Đột quỵ não (ĐQN) là một bệnh có tỷ lệ tử vong và di chứng cao và là mối quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới. Thêm vào đó, ĐQN đang có xu hướng gia tăng ở những người trẻ tuổi, gây ảnh hưởng nhiều đến những người đang trong độ tuổi lao động và là trụ cột chính trong gia đình [1],[2]. Theo báo cáo tổng hợp từ 119 ng- hiên cứu (58 nghiên cứu từ các nước có thu nhập cao và 61 nghiên cứu từ các nước có thu nhập thấp và trung bình) cho thấy năm 2010 có khoảng 5,2 triệu người dưới 64 tuổi bị ĐQN (chiếm 31%) [3]. Dự báo đến năm 2030, ĐQN sẽ tăng thêm 20,5% so với năm 2012 [4]. Trong đó, việc thực hành dự phòng và điều trị ĐQN là một trong những vấn đề rất quan trọng vì việc dự phòng ĐQN không chỉ là dự phòng cấp I (dự phòng khi chưa xảy ra) mà còn cả dự phòng cấp II (dự phòng tái phát). ĐQN có tỷ lệ tái phát cao, dao động từ 8,8% đến 35% tùy theo thời điểm [5],[6],[7]. Tổ chức Y tế Thế giới đã khẳng định ĐQN có thể dự phòng được nếu quản lý tốt các yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên, để quản lý tốt được các yếu tố nguy cơ thì ngoài sự tham gia của các nhà khoa học, các nhà quản lý y tế công cộng thì bản thân người dân mới chính là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong dự phòng ĐQN. Vì vậy, việc hiểu được kiến thức, thực hành phòng và điều trị ĐQN của người dân là hết sức quan trọng để giúp các nhà y tế công cộng đưa ra các chương trình can thiệp cộng đồng phù hợp. Để có những số liệu làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp can thiệp phù hợp, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: mô tả kiến thức và thực hành về bệnh đột quỵ não ở người trưởng thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam năm 2013-2014. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Nghiên cứu được thực hiện trên đối tượng từ 18 tuổi trở lên đang sinh sống tại 16 xã thuộc 8 tỉnh/thành phố đại diện cho 8 vùng sinh thái Việt Nam, bao gồm: Thái COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC 39 Nguyên, Yên Bái, Hà Nam, Quảng Bình, Bình Thuận, Gia Lai, Bình Dương và Cần Thơ. 2. Phương pháp Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang Cỡ mẫu và chọn mẫu Cỡ mẫu: Cỡ mẫu cho mỗi tỉnh được tính theo công thức ước lượng một tỷ lệ trong quần thể: n = Z 2 2 1 α − 2 )1( d PP − x de n: cỡ mẫu tối thiểu phải đạt được ở mỗi tỉnh Z 1 – α/2 = 1,96 là mức độ tin cậy của ng- hiên cứu cần đạt, dự kiến = 95%. p: tỷ lệ đối tượng có kiến thức, thực hành đúng về bệnh đột quỵ não, ước tính bằng 50%. d: là sai số tuyệt đối của nghiên cứu, trong nghiên cứu này là 0,05. de: là hệ số thiết kế, trong nghiên cứu này chúng tôi chọn de = 2 Thay vào công thức, cỡ mẫu cần lấy cho mỗi tỉnh là 384 người, nhân với hệ số thiết kế = 2 được 768 người. Thực tế, sau khi thu thập và làm sạch số liệu, cỡ mẫu tổng cho 8 tỉnh là 6167 đối tượng từ 18 tuổi trở lên. Chọn mẫu: phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn. Giai đoạn 1: chọn ngẫu nhiên 8 tỉnh/thành phố đại diện cho 8 vùng sinh thái Việt Nam. Giai đoạn 2: chọn ngẫu nhiên 01 quận/huyện dựa vào danh sách của tỉnh. Giai đoạn 3: chọn ngẫu nhiên đơn 02 xã/phường từ danh sách của quận/huyện. Giai đoạn 4: chọn hộ gia đình phỏng vấn. Tại mỗi xã số người cần phỏng vấn là 384. Trung bình mỗi hộ có 2 người từ 18 tuổi trở lên, vậy số hộ gia đình phỏng vấn của mỗi xã là 200, chia thành 10 cụm theo đơn vị thôn/xóm, mỗi thôn/xóm 20 hộ. Hộ gia đình đầu tiên của thôn/xóm được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên đơn dựa trên danh sách hộ gia đình do địa phương cung cấp. Các hộ tiếp theo được chọn theo phương pháp cổng liền cổng. Giai đoạn 5: chọn đối tượng phỏng vấn: tất cả đối tượng trong hộ gia đình từ 18 tuổi trở lên có khả năng cung cấp thông tin, có mặt ở nhà tại thời điểm điều tra đều được phỏng vấn để thu thập thông tin cho đến khi đủ số mẫu theo tính toán. Công cụ thu thập thông tin: Bộ câu hỏi nghiên cứu Xử lý và phân tích số liệu: số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 và được phân tích bằng phần mềm STATA 12.0. kẾT QUả NGHIÊN CỨU Nghiên cứu tiến hành trên 6167 đối tượng, trong đó nữ giới chiếm tỷ lệ 56,6% và nam giới chiếm tỷ lệ 43,4%. Về trình độ học vấn, tỷ lệ không biết đọc/biết viết là 0,8%; trình độ phổ thông là 73,9% và 25,2% có trình độ từ trung cấp trở lên. Kiến thức của người dân về bệnh đột quỵ não. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016 40 Bảng 1. Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về bệnh đột quỵ não Kiến thức về bệnh đột quỵ não (n=6167) Tần số Tỷ lệ % Kiến thức về các bệnh tật liên quan đến đột quỵ não 3364 54,6 Thói quen dễ bị đột quỵ não 3138 50,9 Các biểu hiện của đột quỵ não 3295 53,4 Hậu quả của đột quỵ não 3686 59,8 Khả năng tái phát của đột quỵ não 2571 41,7 Khả năng dự phòng được của đột quỵ não 2483 40,3 Biết cách dự phòng bệnh đột quỵ não 3666 59,5 Kết quả bảng 1 cho thấy nhìn chung tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về bệnh ĐQN là hơn 50%. Trong đó, tỷ lệ có kiến thức đúng về các bệnh tật có liên quan đến ĐQN là 54,6%; tỷ lệ có kiến thức đúng về thói quen dễ bị ĐQN là 50,9%, về các biểu hiện của ĐQN là 53,4%, về hậu quả của bệnh ĐQN là 59,8%; tỷ lệ có kiến thức đúng về khả năng tái phát là 41,7%, khả năng có thể dự phòng được của ĐQN chỉ là 40,3% và tỷ lệ biết cách dự phòng bệnh ĐQN là 59,5%. Biểu đồ 1. Tỷ lệ cho rằng ĐQN liên quan đến khí hậu, thời tiết Biểu đồ 2. Quan điểm của người dân về đặc điểm thời tiết dễ xảy ra đột quỵ Kết quả cho thấy 35,6% cho rằng ĐQN liên quan đến yếu tố khí hậu, thời tiết. Trong đó, các yếu tố thời tiết dễ xảy ra ĐQN nhất là thời tiết quá nóng (73,9%); tiếp đến là sự thay đổi thời tiết đột ngột (54,9%) và rét đậm/rét hại (26,7%). Các yếu tố khác chiếm tỷ lệ dưới 5% như khô hanh, giông bão và mưa phùn, ẩm thấp. Thực hành dự phòng bệnh đột quỵ não của người dân COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC 41 Biểu đồ 3. Nơi điều trị đột quỵ não của người dân Về nơi điều trị đột qụy não, kết quả nghiên cứu cho thấy tuyến trung ương là nơi mà người dân đến điều trị nhiều nhất với tỷ lệ 41%; tiếp theo là tuyến huyện với 27%; tỷ lệ này ở tuyến tỉnh chỉ là 15,0% và tuyến xã là 9,0%. Biểu đồ 4. Thực hành thay đổi lối sống để phòng Đột quỵ não tái phát Về thực hành thay đổi lối sống để phòng bệnh ĐQN, 38% đối tượng đã không uống rượu, bia để phòng ĐQN; 29% bỏ thuốc lá; 28% ăn nhiều rau/hoa quả; tỷ lệ không thức TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016 42 quá khuya là 24%; không uống cà phê là 22%; ăn ít chất béo là 21%; ăn nhạt, ít muối là 17% và chỉ có 15% tránh căng thẳng và uống thuốc huyết áp thường xuyên để dự phòng ĐQN và 14% thực hiện giảm cân nặng để dự phòng ĐQN. BÀN LUẬN Kiến thức của người dân về ĐQN Kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng hơn một nửa đối tượng nghiên cứu có kiến thức đúng về bệnh ĐQN. Trong đó, tỷ lệ có kiến thức đúng cao nhất là về hậu quả của bệnh ĐQN (59,8%) và thấp nhất là khả năng có thể dự phòng được của ĐQN (40,3%). Kết quả này cao hơn một chút so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng giai đoạn trước can thiệp nhưng thấp hơn sau can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe cộng đồng. Cụ thể: kết quả cho thấy hiểu biết đúng về các bệnh tật liên quan đến ĐQN trước can thiệp là 33,2% và tăng lên 80,3% sau can thiệp. Về kiến thức đối với hậu quả của ĐQN, nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng cho thấy sau can thiệp, số người biết được từ một, hai và ba di chứng tăng tương ứng là từ 69,7% lên 84,1%, từ 32,5% lên 69,7% và từ 13,2% lên 48,5%; đồng thời sau can thiệp, số đối tượng cho rằng ĐQN có khả năng dự phòng được tăng từ 39,7% lên 76,2% [8]. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Triệu (73,4%) [9]. Như vậy, các hoạt động can thiệp nhằm tăng kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng ĐQN có vai trò quan trọng trong việc giúp người dân có kiến thức đúng đắn về các yếu tố nguy cơ, các hiểu hiện cũng như hậu quả của ĐQN để có sự dự phòng và điều chỉnh lối sống, hành vi phù hợp. Biến đổi khí hậu là một trong những yếu tố góp phần làm gia tăng tình trạng ĐQN. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có 35,6% ĐTNC cho rằng ĐQN có liên quan đến biến đổi khí hậu. Trong đó, có đến 73,9% cho rằng thời tiết quá nóng sẽ dễ xảy ra ĐQN; 54,9% cho rằng thay đổi thời tiết đột ngột và 26,7% cho rằng rét đậm, rét hại là những đặc điểm thời tiết dễ xảy ra ĐQN. Kết quả này cho thấy biến đổi khí hậu đã thực sự ảnh hưởng và tác động đến suy nghĩ, sức khỏe của người dân, đặc biệt là sự tác động của thay đổi các nhiệt nóng và lạnh đột ngột lên bệnh ĐQN. Theo Đào Ngọc Phong và Phạm Ngọc Rao, lúc chuyển mùa huyết áp tăng hơn và dao động nhiều. Đột quỵ não xảy ra quanh năm nhưng thường xảy ra nhiều vào mùa lạnh và những tháng chuyển mùa (tháng 2, 3, 10 và 11) hoặc vào những ngày thay đổi khí hậu đột ngột [10]. Thêm vào đó, nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy khi nhiệt độ ngoài trời tăng 100C thì số các ca cấp cứu về nhồi máu não tăng 11,7% và các ca chảy mãu não tăng 35,6% [11]. Thực hành của người dân về ĐQN Về việc lựa chọn cơ sở điều trị ĐQN của người dân, kết quả cho thấy tuyến trung ương là nơi có tỷ lệ điều trị đột quỵ cao nhất với 41,0%; tiếp theo là tuyến huyện với 27,0% và tuyến tỉnh là 15%; tỷ COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC 43 lệ này thấp nhất tại trạm y tế với 9%. Kết quả này cho thấy người dân có xu hướng điều trị ĐQN tại các tuyến trung ương – nơi được đầu tư đầy đủ trang thiết bị y tế và đội ngũ bác sĩ có chuyên môn, kỹ thuật cao. Tuy nhiên, việc bệnh nhân đổ dồn lên các bệnh viện tuyến trung ương cũng gây quá tải bệnh viện rất lớn. Bên cạnh đó, việc lựa chọn điều trị tại bệnh viện tuyến huyện cũng chiếm tỷ lệ khá cao với 27%. Vì vậy, việc xem xét đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ trong điều trị bệnh ĐQN và việc tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ y tế tại tuyến huyện là một trong những phương pháp hữu hiệu trong việc giúp đỡ bệnh nhân ĐQN vừa có cơ sở điều trị tốt, vừa tiết kiệm thời gian và tiền trong quá trình điều trị bệnh. Về thực hành thay đổi lối sống để dự phòng ĐQN tái phát, kết quả nghiên cứu cho thấy có 38% không uống bia rượu; 29% đã bỏ thuốc lá; 28% ăn nhiều rau xanh/hoa quả và 24% không thức quá khuya để dự phòng tái phát ĐQN. Tỷ lệ không uống cà phê, ăn ít chất béo và ăn nhạt hơn tương ứng là 22%; 21% và 17%. Các hành vi ăn ít đường, tránh căng thẳng, uống thuốc huyết áp thường xuyên và giảm cân nặng xấp xỉ trong khoảng 15%. Kết quả này có cao hơn một chút so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng trước can thiệp nhưng thấp hơn rất nhiều so với sau can thiệp. Cụ thể, sau can thiệp tỷ lệ người thực hiện chế độ ăn giảm mỡ tăng từ 3,4% lên 33%, ăn giảm muối từ 4,2% tăng lên 55,1%, ăn nhiều rau tăng từ 0,8% lên 55,3%, không uống bia rượu tăng từ 6,3% lên 63%, không hút thuốc lá tăng từ 3,9 lên 64%, thể dục thường xuyên tăng từ 29% lên 68,7% [8]. Tuy nhiên, tỷ lệ này chưa thực sự cao vì vậy việc giáo dục thay đổi lối sống có lợi cho sức khỏe của người dân là hết sức cần thiết. Theo Ủy ban chuyên gia về giáo dục sức khỏe cho công chúng của Tổ chức y tế thế giới thì đích của giáo dục sức khỏe là giúp cho người dân có được sức khoẻ tốt bằng chính những hành động và sự nỗ lực của bản thân họ. Việc cung cấp kiến thức hiểu biết về dự phòng ĐQN qua các hoạt động truyền thông đã giúp cho người cao tuổi thực hành trong sinh hoạt, lối sống lành mạnh để bảo vệ sức khoẻ cho bản thân; giảm thiểu nguy cơ tái phát ĐQN [8]. kẾT LUẬN Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về ĐQN chưa cao, dao động khoảng 50%. Có 35,6% cho rằng ĐQN có liên quan đến khí hậu, thời tiết; trong đó các thời điểm dễ xảy ra ĐQN là thời tiết quá nóng (73,9%); thay đổi thời tiết đột ngột (54,9%) và khi rét đậm/rét hại (26,7%). Tuyến trung ương và tuyến huyện là nơi điều trị ĐQN cao nhất, tương ứng 41% và 27%. Các thực hành thay đổi lối sống dự phòng ĐQN tái phát còn thấp dao động từ 14% đến 38% tùy từng hành vi, lối sống. Như vậy, kiến thức và thực hành của người dân về bệnh ĐQN còn nhiều hạn chế. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016 44 TÀI LIệU THAM kHảO 1. Nguyễn Thi Hùng và Nguyễn Văn Dũng (2010). Khảo sát sự khác biệt về giới, yếu tố nguy cơ, bệnh lý đi kèm, nguyên nhân và hậu quả lâm sàng đột quỵ thiếu máu não cấp theo tuổi. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 373 - 382. 2. Béjot Y., Daubail Y., Jacquin A., et al (2014). Trends in the incidence of ischaemic stroke in young adults between 1985 and 2011: the Dijon Stroke Registry. Neurol Neurosurg Psychiatry, 85, 509- 513. 3. Feigin V.L., Forouzanfar M.H., Krishnamurthi R., et al (2014). Global and regional burden of stroke during 1990- 2010: findings from the Global Burden of Disease Study 2010. Lancet, 383(9913), 245-54. 4. Ovbiagele B., Goldstein L.B., Hi- gashida R.T., et al. (2013). Forecasting the future of stroke in the United States: a policy statement from the American Heart Association and American Stroke Asso- ciation. Stroke, 44(8), 2361-75. 5. O’Neill M.S., Carter R., Kish J.K., et al (2009). Preventing heat-related mor- bidity and mortality: New approaches in a changing climate. Maturitas, 64(2), 98- 103. 6. Đinh Hữu Hùng (2014). Nguy cơ tái phát sau đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp theo phân tầng một số yếu tố liên quan, Luận án tiến sỹ Y học, Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh. 7. McGeehin M.A. and Mirabelli M. (2001). The potential impacts of climate variability and change on temperature-re- lated morbidity and mortality in the Unit- ed States. Environmental Health Perspec- tive., 109(2), 185-189. 8. Nguyễn Văn Thắng (2006). Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học và hiệu quả một số giải pháp can thiệp dự phòng đột quỵ não tại tỉnh Hà Tây, Luận văn tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 9. Nguyễn Văn Triệu và Tưởng Thị Hồng Hạnh (2009). Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân tai biến mạch máu não tại cộng đồng. Y học thực hành, 560(12),7-8. 10. Hoàng Khánh (2007). Các yếu tố nguy cơ gây tai biến mạch máu não, Hướng dẫn chẩn đoán và xử trí. Nhà xuất bản Y học, 203-208. 11. Hori A., Hashizume M., Tsuda Y., et al (2012). Effects of weather variability and air pollutants on emergency admis- sions for cardiovascular and cerebrovas- cular diseases. Internatioal Journal of En- vironmental Health Respective, 5p.
File đính kèm:
kien_thuc_thuc_hanh_ve_dot_quy_nao_cua_nguoi_truong_thanh_ta.pdf

