Kiến thức, thực hành về đột quỵ não của người trưởng thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam năm 2013-2014

Nghiên cứu nhằm mô tả kiến thức và thực hành về bệnh đột quỵ não ở người trưởng

thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ

người dân có kiến thức đúng về các bệnh liên quan đến đột quỵ não là 54,6%; về thói

quen dễ bị đột quỵ là 50,9%; các biểu hiện của bệnh là 53,4%; về hậu quả của bệnh là

59,8%; về khả năng tái phát là 41,7%; khả năng có thể dự phòng được là 40,3% và tỷ

lệ biết cách dự phòng bệnh đột quỵ là 59,5%. Thực hành của người dân về dự phòng

đột quỵ não: 38% không uống rượu/bia; 29% bỏ thuốc lá; 28% ăn nhiều rau/hoa quả;

24% không thức quá khuya; 22% không uống cà phê; 21% ăn ít chất béo; 17% ăn nhạt/

ít muối; 16% ăn ít đường; 15% tránh căng thẳng và uống thuốc huyết áp thường xuyên;

14% giảm cân nặng. Như vậy, một số kiến thức và thực hành về đột quỵ não của người

dân còn nhiều điểm hạn chế

pdf 8 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thực hành về đột quỵ não của người trưởng thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam năm 2013-2014", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thực hành về đột quỵ não của người trưởng thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam năm 2013-2014

Kiến thức, thực hành về đột quỵ não của người trưởng thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam năm 2013-2014
COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC
37
(1) Trường Đại học y Hà Nội
(2) Vụ hợp tác Quốc tế - Bộ y tế
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thùy Linh (Email: [email protected])
Ngày nhận bài: 20/3/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 25/3/2016. 
Ngày bài báo được đăng: 30/3/2016
Tóm tắt
Nghiên cứu nhằm mô tả kiến thức và thực hành về bệnh đột quỵ não ở người trưởng 
thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh thái Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ 
người dân có kiến thức đúng về các bệnh liên quan đến đột quỵ não là 54,6%; về thói 
quen dễ bị đột quỵ là 50,9%; các biểu hiện của bệnh là 53,4%; về hậu quả của bệnh là 
59,8%; về khả năng tái phát là 41,7%; khả năng có thể dự phòng được là 40,3% và tỷ 
lệ biết cách dự phòng bệnh đột quỵ là 59,5%. Thực hành của người dân về dự phòng 
đột quỵ não: 38% không uống rượu/bia; 29% bỏ thuốc lá; 28% ăn nhiều rau/hoa quả; 
24% không thức quá khuya; 22% không uống cà phê; 21% ăn ít chất béo; 17% ăn nhạt/
ít muối; 16% ăn ít đường; 15% tránh căng thẳng và uống thuốc huyết áp thường xuyên; 
14% giảm cân nặng. Như vậy, một số kiến thức và thực hành về đột quỵ não của người 
dân còn nhiều điểm hạn chế.
Summary
kNOWLEDGE AND PRACTICE ON STROkE OF ADULT IN 16 
COMMUNES REPRESENTING 8 ECOREGIONS OF VIETNAM 2013 – 2014
The study was to describe the knowledge and practice on stroke of adult in 16 
communes representing 8 ecoregions of Vietnam. The result showed that the proportions 
of people know diseases related to stroke was 54.6%; bad habits affect stroke was 50.9%; 
symptoms of stroke was 53.4%; consequences of stroke was 59.8%; the possibility of 
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ ĐỘT QUỴ NÃO CỦA NGƯỜI 
TRƯỞNG THÀNH TẠI 16 XÃ THUỘC 8 VÙNG SINH THÁI 
VIỆT NAM NĂM 2013 - 2014
Lê Thị Hương1, Lê Thị Tài1, Trần Thị Giáng Hương2, Nguyễn Thùy Linh1
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016
38
recurrent stroke was 41.7%; ability to preventive of stroke was 40.3% and the proportion 
know how to preventing stroke was 59.5%. Practice of the people on prevention of stroke: 
38% quit drinking alcohol/beer; 29% quit smoking; 28% eat more vegetables/fruit; 24% 
stop staying up late; 22% did not drink coffee; 21% low-fat diets; 17% low-salt diet; 
16% eat less sugar; 15% avoid stress and use of antihypertensive medication regularly; 
14% lose weight. In conclusion, the knowledge and practice of people on stroke has 
been incompleted.
Keywords: knowledge, practice, stroke, 8 ecoregions.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ não (ĐQN) là một bệnh có tỷ 
lệ tử vong và di chứng cao và là mối quan 
tâm của các nhà khoa học trên thế giới. 
Thêm vào đó, ĐQN đang có xu hướng gia 
tăng ở những người trẻ tuổi, gây ảnh hưởng 
nhiều đến những người đang trong độ tuổi 
lao động và là trụ cột chính trong gia đình 
[1],[2]. Theo báo cáo tổng hợp từ 119 ng-
hiên cứu (58 nghiên cứu từ các nước có 
thu nhập cao và 61 nghiên cứu từ các nước 
có thu nhập thấp và trung bình) cho thấy 
năm 2010 có khoảng 5,2 triệu người dưới 
64 tuổi bị ĐQN (chiếm 31%) [3]. Dự báo 
đến năm 2030, ĐQN sẽ tăng thêm 20,5% 
so với năm 2012 [4].
Trong đó, việc thực hành dự phòng 
và điều trị ĐQN là một trong những vấn 
đề rất quan trọng vì việc dự phòng ĐQN 
không chỉ là dự phòng cấp I (dự phòng 
khi chưa xảy ra) mà còn cả dự phòng cấp 
II (dự phòng tái phát). ĐQN có tỷ lệ tái 
phát cao, dao động từ 8,8% đến 35% tùy 
theo thời điểm [5],[6],[7]. Tổ chức Y tế 
Thế giới đã khẳng định ĐQN có thể dự 
phòng được nếu quản lý tốt các yếu tố 
nguy cơ. Tuy nhiên, để quản lý tốt được 
các yếu tố nguy cơ thì ngoài sự tham gia 
của các nhà khoa học, các nhà quản lý y 
tế công cộng thì bản thân người dân mới 
chính là chủ thể đóng vai trò quan trọng 
trong dự phòng ĐQN. Vì vậy, việc hiểu 
được kiến thức, thực hành phòng và điều 
trị ĐQN của người dân là hết sức quan 
trọng để giúp các nhà y tế công cộng đưa 
ra các chương trình can thiệp cộng đồng 
phù hợp. Để có những số liệu làm cơ sở 
cho việc đề xuất các giải pháp can thiệp 
phù hợp, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
này nhằm mục tiêu: mô tả kiến thức và 
thực hành về bệnh đột quỵ não ở người 
trưởng thành tại 16 xã thuộc 8 vùng sinh 
thái Việt Nam năm 2013-2014.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu được thực hiện trên đối 
tượng từ 18 tuổi trở lên đang sinh sống tại 
16 xã thuộc 8 tỉnh/thành phố đại diện cho 
8 vùng sinh thái Việt Nam, bao gồm: Thái 
COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC
39
Nguyên, Yên Bái, Hà Nam, Quảng Bình, 
Bình Thuận, Gia Lai, Bình Dương và Cần 
Thơ. 
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang
 Cỡ mẫu và chọn mẫu
Cỡ mẫu: 
Cỡ mẫu cho mỗi tỉnh được tính theo 
công thức ước lượng một tỷ lệ trong quần 
thể: 
n = Z 
2
2
1
α
−
 2
)1(
d
PP −
x de
n: cỡ mẫu tối thiểu phải đạt được ở 
mỗi tỉnh
Z
1 – α/2 
= 1,96 là mức độ tin cậy của ng-
hiên cứu cần đạt, dự kiến = 95%.
p: tỷ lệ đối tượng có kiến thức, thực 
hành đúng về bệnh đột quỵ não, ước tính 
bằng 50%.
d: là sai số tuyệt đối của nghiên cứu, 
trong nghiên cứu này là 0,05.
de: là hệ số thiết kế, trong nghiên cứu 
này chúng tôi chọn de = 2
Thay vào công thức, cỡ mẫu cần lấy 
cho mỗi tỉnh là 384 người, nhân với hệ số 
thiết kế = 2 được 768 người. Thực tế, sau 
khi thu thập và làm sạch số liệu, cỡ mẫu 
tổng cho 8 tỉnh là 6167 đối tượng từ 18 
tuổi trở lên.
Chọn mẫu: phương pháp chọn mẫu 
nhiều giai đoạn. Giai đoạn 1: chọn ngẫu 
nhiên 8 tỉnh/thành phố đại diện cho 8 vùng 
sinh thái Việt Nam. Giai đoạn 2: chọn 
ngẫu nhiên 01 quận/huyện dựa vào danh 
sách của tỉnh. Giai đoạn 3: chọn ngẫu 
nhiên đơn 02 xã/phường từ danh sách của 
quận/huyện. Giai đoạn 4: chọn hộ gia đình 
phỏng vấn. Tại mỗi xã số người cần phỏng 
vấn là 384. Trung bình mỗi hộ có 2 người 
từ 18 tuổi trở lên, vậy số hộ gia đình phỏng 
vấn của mỗi xã là 200, chia thành 10 cụm 
theo đơn vị thôn/xóm, mỗi thôn/xóm 20 
hộ. Hộ gia đình đầu tiên của thôn/xóm 
được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên 
đơn dựa trên danh sách hộ gia đình do địa 
phương cung cấp. Các hộ tiếp theo được 
chọn theo phương pháp cổng liền cổng. 
Giai đoạn 5: chọn đối tượng phỏng vấn: 
tất cả đối tượng trong hộ gia đình từ 18 
tuổi trở lên có khả năng cung cấp thông 
tin, có mặt ở nhà tại thời điểm điều tra đều 
được phỏng vấn để thu thập thông tin cho 
đến khi đủ số mẫu theo tính toán.
Công cụ thu thập thông tin: Bộ câu 
hỏi nghiên cứu 
Xử lý và phân tích số liệu: số liệu 
được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 và 
được phân tích bằng phần mềm STATA 
12.0. 
kẾT QUả NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến hành trên 6167 đối 
tượng, trong đó nữ giới chiếm tỷ lệ 56,6% 
và nam giới chiếm tỷ lệ 43,4%. Về trình 
độ học vấn, tỷ lệ không biết đọc/biết viết 
là 0,8%; trình độ phổ thông là 73,9% và 
25,2% có trình độ từ trung cấp trở lên. 
Kiến thức của người dân về bệnh đột quỵ 
não.
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016
40
Bảng 1. Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về bệnh đột quỵ não 
Kiến thức về bệnh đột quỵ não (n=6167) Tần số Tỷ lệ %
Kiến thức về các bệnh tật liên quan đến đột quỵ não 3364 54,6
Thói quen dễ bị đột quỵ não 3138 50,9
Các biểu hiện của đột quỵ não 3295 53,4
Hậu quả của đột quỵ não 3686 59,8
Khả năng tái phát của đột quỵ não 2571 41,7
Khả năng dự phòng được của đột quỵ não 2483 40,3
Biết cách dự phòng bệnh đột quỵ não 3666 59,5
Kết quả bảng 1 cho thấy nhìn chung 
tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về bệnh 
ĐQN là hơn 50%. Trong đó, tỷ lệ có kiến 
thức đúng về các bệnh tật có liên quan đến 
ĐQN là 54,6%; tỷ lệ có kiến thức đúng về 
thói quen dễ bị ĐQN là 50,9%, về các biểu 
hiện của ĐQN là 53,4%, về hậu quả của 
bệnh ĐQN là 59,8%; tỷ lệ có kiến thức 
đúng về khả năng tái phát là 41,7%, khả 
năng có thể dự phòng được của ĐQN chỉ 
là 40,3% và tỷ lệ biết cách dự phòng bệnh 
ĐQN là 59,5%.
Biểu đồ 1. Tỷ lệ cho rằng ĐQN liên 
quan đến khí hậu, thời tiết
Biểu đồ 2. Quan điểm của người dân về đặc 
điểm thời tiết dễ xảy ra đột quỵ 
Kết quả cho thấy 35,6% cho rằng ĐQN liên quan đến yếu tố khí hậu, thời tiết. Trong 
đó, các yếu tố thời tiết dễ xảy ra ĐQN nhất là thời tiết quá nóng (73,9%); tiếp đến là sự 
thay đổi thời tiết đột ngột (54,9%) và rét đậm/rét hại (26,7%). Các yếu tố khác chiếm tỷ 
lệ dưới 5% như khô hanh, giông bão và mưa phùn, ẩm thấp.
Thực hành dự phòng bệnh đột quỵ não của người dân
COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC
41
Biểu đồ 3. Nơi điều trị đột quỵ não của người dân
Về nơi điều trị đột qụy não, kết quả nghiên cứu cho thấy tuyến trung ương là nơi mà 
người dân đến điều trị nhiều nhất với tỷ lệ 41%; tiếp theo là tuyến huyện với 27%; tỷ lệ 
này ở tuyến tỉnh chỉ là 15,0% và tuyến xã là 9,0%.
Biểu đồ 4. Thực hành thay đổi lối sống để phòng Đột quỵ não tái phát
Về thực hành thay đổi lối sống để phòng bệnh ĐQN, 38% đối tượng đã không uống 
rượu, bia để phòng ĐQN; 29% bỏ thuốc lá; 28% ăn nhiều rau/hoa quả; tỷ lệ không thức 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016
42
quá khuya là 24%; không uống cà phê là 
22%; ăn ít chất béo là 21%; ăn nhạt, ít muối 
là 17% và chỉ có 15% tránh căng thẳng và 
uống thuốc huyết áp thường xuyên để dự 
phòng ĐQN và 14% thực hiện giảm cân 
nặng để dự phòng ĐQN.
BÀN LUẬN
Kiến thức của người dân về ĐQN
Kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng 
hơn một nửa đối tượng nghiên cứu có kiến 
thức đúng về bệnh ĐQN. Trong đó, tỷ 
lệ có kiến thức đúng cao nhất là về hậu 
quả của bệnh ĐQN (59,8%) và thấp nhất 
là khả năng có thể dự phòng được của 
ĐQN (40,3%). Kết quả này cao hơn một 
chút so với nghiên cứu của Nguyễn Văn 
Thắng giai đoạn trước can thiệp nhưng 
thấp hơn sau can thiệp truyền thông giáo 
dục sức khỏe cộng đồng. Cụ thể: kết quả 
cho thấy hiểu biết đúng về các bệnh tật 
liên quan đến ĐQN trước can thiệp là 
33,2% và tăng lên 80,3% sau can thiệp. 
Về kiến thức đối với hậu quả của ĐQN, 
nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng cho 
thấy sau can thiệp, số người biết được từ 
một, hai và ba di chứng tăng tương ứng là 
từ 69,7% lên 84,1%, từ 32,5% lên 69,7% 
và từ 13,2% lên 48,5%; đồng thời sau can 
thiệp, số đối tượng cho rằng ĐQN có 
khả năng dự phòng được tăng từ 39,7% 
lên 76,2% [8]. Kết quả này cũng phù hợp 
với nghiên cứu của Nguyễn Văn Triệu 
(73,4%) [9]. Như vậy, các hoạt động can 
thiệp nhằm tăng kiến thức, thái độ và 
thực hành dự phòng ĐQN có vai trò quan 
trọng trong việc giúp người dân có kiến 
thức đúng đắn về các yếu tố nguy cơ, các 
hiểu hiện cũng như hậu quả của ĐQN để 
có sự dự phòng và điều chỉnh lối sống, 
hành vi phù hợp.
Biến đổi khí hậu là một trong những 
yếu tố góp phần làm gia tăng tình trạng 
ĐQN. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy 
có 35,6% ĐTNC cho rằng ĐQN có liên 
quan đến biến đổi khí hậu. Trong đó, có 
đến 73,9% cho rằng thời tiết quá nóng sẽ 
dễ xảy ra ĐQN; 54,9% cho rằng thay đổi 
thời tiết đột ngột và 26,7% cho rằng rét 
đậm, rét hại là những đặc điểm thời tiết dễ 
xảy ra ĐQN. Kết quả này cho thấy biến đổi 
khí hậu đã thực sự ảnh hưởng và tác động 
đến suy nghĩ, sức khỏe của người dân, đặc 
biệt là sự tác động của thay đổi các nhiệt 
nóng và lạnh đột ngột lên bệnh ĐQN. Theo 
Đào Ngọc Phong và Phạm Ngọc Rao, lúc 
chuyển mùa huyết áp tăng hơn và dao động 
nhiều. Đột quỵ não xảy ra quanh năm nhưng 
thường xảy ra nhiều vào mùa lạnh và những 
tháng chuyển mùa (tháng 2, 3, 10 và 11) 
hoặc vào những ngày thay đổi khí hậu đột 
ngột [10]. Thêm vào đó, nghiên cứu của 
các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy khi 
nhiệt độ ngoài trời tăng 100C thì số các ca 
cấp cứu về nhồi máu não tăng 11,7% và 
các ca chảy mãu não tăng 35,6% [11]. 
Thực hành của người dân về ĐQN
Về việc lựa chọn cơ sở điều trị ĐQN 
của người dân, kết quả cho thấy tuyến 
trung ương là nơi có tỷ lệ điều trị đột quỵ 
cao nhất với 41,0%; tiếp theo là tuyến 
huyện với 27,0% và tuyến tỉnh là 15%; tỷ 
COÂNG TRÌNH NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC
43
lệ này thấp nhất tại trạm y tế với 9%. Kết 
quả này cho thấy người dân có xu hướng 
điều trị ĐQN tại các tuyến trung ương – 
nơi được đầu tư đầy đủ trang thiết bị y tế 
và đội ngũ bác sĩ có chuyên môn, kỹ thuật 
cao. Tuy nhiên, việc bệnh nhân đổ dồn lên 
các bệnh viện tuyến trung ương cũng gây 
quá tải bệnh viện rất lớn. Bên cạnh đó, việc 
lựa chọn điều trị tại bệnh viện tuyến huyện 
cũng chiếm tỷ lệ khá cao với 27%. Vì vậy, 
việc xem xét đầu tư cơ sở vật chất, trang 
thiết bị hỗ trợ trong điều trị bệnh ĐQN và 
việc tăng cường đào tạo, nâng cao chất 
lượng đội ngũ cán bộ y tế tại tuyến huyện 
là một trong những phương pháp hữu hiệu 
trong việc giúp đỡ bệnh nhân ĐQN vừa có 
cơ sở điều trị tốt, vừa tiết kiệm thời gian và 
tiền trong quá trình điều trị bệnh.
Về thực hành thay đổi lối sống để dự 
phòng ĐQN tái phát, kết quả nghiên cứu 
cho thấy có 38% không uống bia rượu; 29% 
đã bỏ thuốc lá; 28% ăn nhiều rau xanh/hoa 
quả và 24% không thức quá khuya để dự 
phòng tái phát ĐQN. Tỷ lệ không uống cà 
phê, ăn ít chất béo và ăn nhạt hơn tương 
ứng là 22%; 21% và 17%. Các hành vi ăn 
ít đường, tránh căng thẳng, uống thuốc 
huyết áp thường xuyên và giảm cân nặng 
xấp xỉ trong khoảng 15%. Kết quả này có 
cao hơn một chút so với nghiên cứu của 
Nguyễn Văn Thắng trước can thiệp nhưng 
thấp hơn rất nhiều so với sau can thiệp. Cụ 
thể, sau can thiệp tỷ lệ người thực hiện 
chế độ ăn giảm mỡ tăng từ 3,4% lên 33%, 
ăn giảm muối từ 4,2% tăng lên 55,1%, ăn 
nhiều rau tăng từ 0,8% lên 55,3%, không 
uống bia rượu tăng từ 6,3% lên 63%, 
không hút thuốc lá tăng từ 3,9 lên 64%, 
thể dục thường xuyên tăng từ 29% lên 
68,7% [8]. Tuy nhiên, tỷ lệ này chưa thực 
sự cao vì vậy việc giáo dục thay đổi lối 
sống có lợi cho sức khỏe của người dân là 
hết sức cần thiết. Theo Ủy ban chuyên gia 
về giáo dục sức khỏe cho công chúng 
của Tổ chức y tế thế giới thì đích của 
giáo dục sức khỏe là giúp cho người dân 
có được sức khoẻ tốt bằng chính những 
hành động và sự nỗ lực của bản thân họ. 
Việc cung cấp kiến thức hiểu biết về dự 
phòng ĐQN qua các hoạt động truyền 
thông đã giúp cho người cao tuổi thực 
hành trong sinh hoạt, lối sống lành mạnh 
để bảo vệ sức khoẻ cho bản thân; giảm 
thiểu nguy cơ tái phát ĐQN [8].
kẾT LUẬN
Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về 
ĐQN chưa cao, dao động khoảng 50%. Có 
35,6% cho rằng ĐQN có liên quan đến khí 
hậu, thời tiết; trong đó các thời điểm dễ 
xảy ra ĐQN là thời tiết quá nóng (73,9%); 
thay đổi thời tiết đột ngột (54,9%) và khi 
rét đậm/rét hại (26,7%). Tuyến trung ương 
và tuyến huyện là nơi điều trị ĐQN cao 
nhất, tương ứng 41% và 27%. Các thực 
hành thay đổi lối sống dự phòng ĐQN tái 
phát còn thấp dao động từ 14% đến 38% 
tùy từng hành vi, lối sống. Như vậy, kiến 
thức và thực hành của người dân về bệnh 
ĐQN còn nhiều hạn chế.
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 5 - 3/2016
44
TÀI LIệU THAM kHảO
1. Nguyễn Thi Hùng và Nguyễn 
Văn Dũng (2010). Khảo sát sự khác biệt 
về giới, yếu tố nguy cơ, bệnh lý đi kèm, 
nguyên nhân và hậu quả lâm sàng đột quỵ 
thiếu máu não cấp theo tuổi. Y học thành 
phố Hồ Chí Minh, 14(1), 373 - 382.
2. Béjot Y., Daubail Y., Jacquin A., 
et al (2014). Trends in the incidence of 
ischaemic stroke in young adults between 
1985 and 2011: the Dijon Stroke Registry. 
Neurol Neurosurg Psychiatry, 85, 509-
513.
3. Feigin V.L., Forouzanfar M.H., 
Krishnamurthi R., et al (2014). Global 
and regional burden of stroke during 1990-
2010: findings from the Global Burden of 
Disease Study 2010. Lancet, 383(9913), 
245-54.
4. Ovbiagele B., Goldstein L.B., Hi-
gashida R.T., et al. (2013). Forecasting 
the future of stroke in the United States: a 
policy statement from the American Heart 
Association and American Stroke Asso-
ciation. Stroke, 44(8), 2361-75.
5. O’Neill M.S., Carter R., Kish J.K., 
et al (2009). Preventing heat-related mor-
bidity and mortality: New approaches in 
a changing climate. Maturitas, 64(2), 98-
103.
6. Đinh Hữu Hùng (2014). Nguy cơ 
tái phát sau đột quỵ thiếu máu não cục 
bộ cấp theo phân tầng một số yếu tố liên 
quan, Luận án tiến sỹ Y học, Đại học Y 
dược thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí 
Minh.
7. McGeehin M.A. and Mirabelli M. 
(2001). The potential impacts of climate 
variability and change on temperature-re-
lated morbidity and mortality in the Unit-
ed States. Environmental Health Perspec-
tive., 109(2), 185-189.
8. Nguyễn Văn Thắng (2006). Nghiên 
cứu đặc điểm dịch tễ học và hiệu quả một 
số giải pháp can thiệp dự phòng đột quỵ 
não tại tỉnh Hà Tây, Luận văn tiến sĩ Y 
học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Triệu và Tưởng Thị 
Hồng Hạnh (2009). Nghiên cứu một số 
yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân tai biến 
mạch máu não tại cộng đồng. Y học thực 
hành, 560(12),7-8.
10. Hoàng Khánh (2007). Các yếu 
tố nguy cơ gây tai biến mạch máu não, 
Hướng dẫn chẩn đoán và xử trí. Nhà xuất 
bản Y học, 203-208.
11. Hori A., Hashizume M., Tsuda Y., 
et al (2012). Effects of weather variability 
and air pollutants on emergency admis-
sions for cardiovascular and cerebrovas-
cular diseases. Internatioal Journal of En-
vironmental Health Respective, 5p.

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thuc_hanh_ve_dot_quy_nao_cua_nguoi_truong_thanh_ta.pdf