Kiến thức - Thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tỉnh Hưng Yên
Nghiên cứu được thực hiện trên 622 học sinh Tiểu học huyện Kim Động, Hưng Yên. Kết quả cho thấy, tỉ
lệ học sinh biết giun truyền qua là 50,8%, đường lây là 76,5%, có 12,5% không biết nguyên nhân gây bệnh
giun truyền qua đất. 85,9% biết tác hại của giun truyền qua đất, 99,7% biết đến biện pháp phòng chống.
Thực hành; 97% học sinh rửa tay trước khi ăn, 98,1% học sinh rửa tay sau khi đi đại tiện; 94,7% cắt móng
tay; 81,2 không uống nước lã; 54,3% không ăn rau sống. Có 88,1% học sinh sử dụng hố xí hợp vệ sinh.
51,4% được tẩy giun trong vòng 6 tháng. Tỉ lệ học sinh có kiến thức tốt chiếm 66,8%, có kiến thức khá và
chưa tốt chiếm tỉ lệ lần lượt là 21,1% và 12,1%. Tỉ lệ học sinh có thực hành tốt chiếm 90,2%, thực hành khá
là 8%, có 1,8% học sinh thực hành chưa tốt. Có 2 yếu tố là thực hành tốt và tẩy giun trong vòng 6 tháng làm
giảm tỉ lệ nhiễm giun, sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức - Thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tỉnh Hưng Yên

66 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC KIẾN THỨC - THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG NHIỄM GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT Ở HỌC SINH TIỂU HỌC TỈNH HƯNG YÊN Phạm Ngọc Duấn, Phạm Ngọc Minh Bộ môn Ký sinh trùng, Trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu được thực hiện trên 622 học sinh Tiểu học huyện Kim Động, Hưng Yên. Kết quả cho thấy, tỉ lệ học sinh biết giun truyền qua là 50,8%, đường lây là 76,5%, có 12,5% không biết nguyên nhân gây bệnh giun truyền qua đất. 85,9% biết tác hại của giun truyền qua đất, 99,7% biết đến biện pháp phòng chống. Thực hành; 97% học sinh rửa tay trước khi ăn, 98,1% học sinh rửa tay sau khi đi đại tiện; 94,7% cắt móng tay; 81,2 không uống nước lã; 54,3% không ăn rau sống. Có 88,1% học sinh sử dụng hố xí hợp vệ sinh. 51,4% được tẩy giun trong vòng 6 tháng. Tỉ lệ học sinh có kiến thức tốt chiếm 66,8%, có kiến thức khá và chưa tốt chiếm tỉ lệ lần lượt là 21,1% và 12,1%. Tỉ lệ học sinh có thực hành tốt chiếm 90,2%, thực hành khá là 8%, có 1,8% học sinh thực hành chưa tốt. Có 2 yếu tố là thực hành tốt và tẩy giun trong vòng 6 tháng làm giảm tỉ lệ nhiễm giun, sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Từ khóa: Giun truyền qua đất, giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ Địa chỉ liên hệ: Phạm Ngọc Duấn, Bộ môn Ký sinh trùng – Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 16/3/2018 Ngày được chấp thuận: 18/6/2018 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh giun truyền qua đất do các loại giun chính gây nên là giun đũa (Ascaris lumbri- coides), giun tóc (Trichuris trichiura) và giun móc/mỏ (Necator americanus và Ancylostoma duodenale). Bệnh gây nhiều tác hại đến sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là trên trẻ em. Bệnh chủ yếu tập trung ở những nước chưa phát triển, ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới [1 - 3]. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2016, trên Thế giới có khoảng 1,2 tỷ người nhiễm giun đũa, 795 triệu người nhiễm giun tóc và 740 triệu người nhiễm giun móc/mỏ [4]. Trong đó có hơn 267 triệu trẻ em trước tuổi đến trường và hơn 568 triệu trẻ em trong độ tuổi đến trường sống ở những nơi có nguy cơ cao bị nhiễm bệnh, cần điều trị và can thiệp dự phòng [1]. Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có điều kiện tự nhiên và tập quán canh tác thuận lợi cho bệnh giun truyền qua đất phát triển. Hiện nay, bệnh vẫn phổ biến ở nhiều khu vực trên cả nước. Theo điều tra của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương từ năm 2006 đến 2010 cho thấy tỉ lệ nhiễm chung của bệnh giun truyền qua đất ở cộng đồng tại vùng Trung du và miền núi phía Bắc khoảng 65,3%, đồng bằng sông Hồng là 58,2%, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung là 42,2%, Tây Nguyên là 30,2%, Đông Nam Bộ là 29% và đồng bằng sông Cửu Long khoảng 12 - 14% [3; 5; 6]. Bệnh giun truyền qua đất gây tác hại đến mọi lứa tuổi, nhưng lứa tuổi học sinh tiểu học là có tỷ lệ nhiễm cao nhất và bị ảnh hưởng nặng nề nhất đến khả năng phát triển của trẻ [7 - 10]. Chương trình phòng chống giun sán Quốc gia giai đoạn 2001 – 2010 đã triển khai mô hình kết hợp giữa công tác giáo dục truyền thông và điều trị hàng loạt cho các đối tượng này tại 32 tỉnh (Hà Giang, Lào Cai, Lai TCNCYH 114 (5) - 2018 67 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Châu, Nghệ An, Thanh Hoá, Đăk Nông,...) làm cho tỉ lệ giun truyền qua đất giảm đáng kể như Nghệ An tỉ lệ giảm từ 77,9% xuống 36,2% sau 3 năm. Tuy nhiên, tỉ lệ nhiễm vẫn còn cao [6]. Huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, được phù sa sông Hồng bồi đắp, dân số của huyện là 111.417 người, trong đó có khoảng 10.000 học sinh tiểu học. Nghề nghiệp chính của người dân là làm ruộng và trồng hoa màu, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, nhận thức của người dân và sự quan tâm của cộng đồng về phòng chống bệnh giun sán còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, Chương trình Phòng Chống Giun sán Quốc gia chưa được triển khai ở địa phương này. Do đó, có rất ít điều tra, nghiên cứu hay đánh giá về bệnh giun truyền qua đất cũng như mô tả kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan đến phòng bệnh giun truyền qua đất trên học sinh tiểu học tại đây. Vì vậy, nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu mô tả kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên năm 2016. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Học sinh lớp 4, 5 tại 3 trường tiểu học của huyện Kim Động, Hưng Yên năm 2016 là Trường Tiểu học Hùng An, Mai Động và Nguyễn Lương Bằng. 2. Phương pháp - Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu tiến hành tại huyện Kim Động - tỉnh Hưng Yên. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 6/2016 đến tháng 6/2017. - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. - Cỡ mẫu và cách chọn mẫu: + Cỡ mẫu được tính theo công thức ước lượng tỷ lệ cho một quần thể: Trong đó: - n là cỡ mẫu; - Z2(1 – α/2) là hệ số tin cậy ở mức xuất sắc 95% (Z2(1 – α/2) = 1,96); - p: tỉ lệ nhiễm giun ước lượng (50%) [6]. - q: tỉ lệ ước lượng người không nhiễm giun (50%). - d: độ chính xác mong muốn (5%). Cỡ mẫu sẽ là: Như vậy cỡ mẫu sẽ là 500 học sinh. Chọn chủ đích 3 trường trong số 17 trường tiểu học đại diện cho 3 vùng có đặc điểm sinh vật cảnh khác nhau của huyện Kim Động, điều tra toàn bộ học sinh của khối lớp 4 và 5 của 3 trường tiểu học, tổng số 622 mẫu được thu thập. - Đánh giá kiến thức và thực hành phòng bệnh giun truyền qua đất bằng bộ câu hỏi (KAP). Mỗi học sinh được phát một bộ câu hỏi có các đáp án kèm theo, mỗi câu hỏi trả lời đúng về kiến thức, thực hành được tính là “1 điểm”, trả lời sai hoặc không biết “0 điểm”, sau đó sẽ tính tổng điểm và chia thành 3 nhóm: + Tổng điểm > 70% điểm tối đa là nhóm khá tốt. + Tổng điểm > 50% đến 70% điểm tối đa là nhóm trung bình. n = Z2(1- α/2) (p.(1 - p) (d)2 x 1,3 n = 1,962 . (50 x 50) 52 x 1,3 68 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC + Tổng điểm ≤ 50% điểm tối đa là nhóm chưa tốt. 3. Xử lý số liệu Số liệu được mã hóa và nhập bằng phần mềm EPI DATA 3.1, xử lý số liệu bằng phần mềm STATA 18.0. Sử dụng cả thống kê mô tả và thống kê phân tích. Mức ý nghĩa thống kê p < 0,05 được sử dụng trong thống kê phân tích. - Các số liệu được xử lý theo toán thống kê y học trong nghiên cứu: Tỷ lệ, OR, test t2 và phân tích đa biến các yếu tố nguy cơ. 4. Đạo đức trong nghiên cứu Thông tin cá nhân của đối tượng cung cấp được đảm bảo bí mật hoàn toàn. Thông tin được thu thập một cách trung thực, khách quan. Các thông tin thu thập được chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu chứ không sử dụng cho mục đích nào khác. III. KẾT QUẢ Nghiên cứu được thực hiện trên 622 học sinh của 3 trường tiểu học huyện Kim Động - Hưng Yên. Kiến thức, thái độ và thực hành của học sinh về phòng bệnh giun truyền qua đất được đánh giá qua bộ câu hỏi KAP và xét nghiệm phân bằng kỹ thuật Kato. Hình 1. Mức độ kiến thức, thực hành của học sinh về bệnh giun Tỉ lệ học sinh có kiến thức tốt chiếm 66,8%, thực hành tốt tương đối cao (90,2%). Trong đó, rửa tay sau khi đi đại tiện (98,1%), rửa tay trước khi ăn (97%) và hơn một nửa số học sinh được tẩy giun trong vòng 6 tháng (51,4%). Kết quả cho thấy không mối liên quan giữa hiểu biết đúng về loại giun, đường lây, nguyên nhân, tác hại và cách phòng tránh về giun truyền qua đất với tình trạng nhiễm giun (bảng 1). TCNCYH 114 (5) - 2018 69 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 1. Mối liên quan giữa kiến thức với tình trạng nhiễm giun Yếu tố hiểu biết Nhiễm Không nhiễm OR 95%CI n % n % Hiểu đúng về tên giun truyền qua đất - Có 39 47,6 261 48,3 1 - Không 43 52,4 279 51,7 0,97 (0,63 - 1,52) Hiểu đúng về đường lây - Có 56 68,3 420 77,8 1 - Không 26 31,7 120 22,2 0,61 (0,4 - 1,02) Hiểu đúng về nguyên nhân - Có 70 85,4 473 87,6 1 - Không 12 14,6 67 12,4 0,8 (0,4 - 1,6) Hiểu đúng về tác hại - Có 65 79,3 465 86,1 1 - Không 17 20,7 75 13,9 0,6 (0,3 - 1,1) Hiểu đúng về cách phòng tránh - Có 78 95,1 522 96,7 1 - Không 4 4,9 18 3,3 0,7 (0,2 - 2,0) Bảng 2. Mối liên quan thực hành vệ sinh cá nhân với tình trạng nhiễm giun Yếu tố vệ sinh cá nhân Nhiễm Không nhiễm OR (CI 95%) n % n % Rửa tay trước khi ăn - Có 75 91,5 528 97,8 1 - Không 7 8,5 12 2,2 0,24* (0,09 - 0,64) Rửa tay sau khi đi đại tiện - Có 78 95,1 532 98,5 1 - Không 4 4,9 8 1,5 0,29 (0,08 - 1) Cắt móng tay - Có 74 90,2 515 95,4 1 - Không 8 9,8 25 4,6 0,44 (0,19 - 1,03) 70 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Yếu tố vệ sinh cá nhân Nhiễm Không nhiễm OR (CI 95%) n % n % Uống nước lã - Không 63 76,8 442 81,9 1 - Có 19 23,2 98 18,1 0,73 (0,4 - 1,28) Ăn rau sống - Không 41 50 297 55 1 - Có 41 50 243 45 0,8 (0,51 - 1,3) Đi chân đất - Không 32 39 224 41,5 1 - Có 50 61 316 58,5 0,9 (0,56 - 1,45) Sử dụng hố xí hợp vệ sinh - Có 70 85,4 478 88,5 1 - Không 12 14,6 62 11,5 1,3 (0,68 - 2,58) Tẩy giun trong vòng 6 tháng - Có 31 37,8 289 53,5 1 - Không 51 62,2 251 46,5 0,53* (0,32 - 0,85) *p < 0,05. Nguy cơ nhiễm giun ở nhóm rửa tay trước khi ăn chỉ bằng 0,2 lần nguy cơ nhiễm giun ở nhóm không rửa tay trước khi ăn và sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 95%. Nguy cơ nhiễm giun ở nhóm học sinh tẩy giun trong vòng 6 tháng chỉ bằng 0,53 lần nguy cơ nhiễm giun ở nhóm không tẩy giun trong vòng 6 tháng và sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 95%. Bảng 3. Mối liên quan giữa kiến thức khá/tốt và tình trạng nhiễm giun Mức kiến thức Nhiễm Không nhiễm OR (CI 95%) n % n % Kiến thức khá/tốt 48 58,5 368 68,2 1 Kiến thức chưa tốt 34 41,5 172 31,8 1,52 (0,9 - 2,4) Nguy cơ nhiễm giun ở nhóm có kiến thức chưa tốt cao gấp 1,5 lần so với nguy cơ nhiễm giun ở nhóm kiến thức khá tốt, sự khác biệt không có ý nghĩa với mức tin cậy 95%. TCNCYH 114 (5) - 2018 71 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 4. Mối liên quan giữa thực hành khá/tốt với tình trạng nhiễm giun Mức thực hành Nhiễm giun Không nhiễm OR (CI 95%) n % n % Thực hành khá/tốt 63 76,8 498 92,2 1 Thực hành chưa tốt 19 23,2 42 7,8 3,6 (1,9 - 6,5) Nguy cơ nhiễm giun ở nhóm thực hành chưa tốt cao gấp 3,6 lần nguy cơ nhiễm giun ở nhóm thực hành khá/tốt và sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 95%. IV. BÀN LUẬN Hiểu biết của học sinh về các loại giun là tương đối thấp (50,8%). Có 76,5% biết đến đường lây truyền của giun truyền qua đất. Kết quả này của chúng tôi cao hơn so với tỷ lệ hiểu biết đường lây của học sinh trong nghiên cứu của Nguyễn Châu Thành, Lê Thị Tuyết và Phan Văn Trọng [11 - 13]. Hiểu biết về những nguyên nhân gây bệnh giun truyền qua đất tương đối cao, chỉ có 12,5% em không biết nguyên nhân nào gây bệnh giun truyền qua đất. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Nguyễn Châu Thành (44,06%) và Nguyễn Văn Khá (43,6%). Đặc biệt, hầu hết học sinh đều biết tới các biện pháp phòng chống (99,7%). Có mối liên quan giữa thực hành khá/tốt với tình trạng nhiễm giun. Cụ thể nguy cơ nhiễm giun ở nhóm thực hành chưa tốt cao hơn gấp 3,6 lần so với nguy cơ nhiễm giun ở nhóm thực hành khá/tốt. Nhóm thức hành tốt có tỉ lệ nhiễm giun đường ruột thấp hơn nhóm chưa tốt, sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Mặc dù, các em học sinh đã được điền phiếu câu hỏi một cách độc lập, trung thực. Tuy nhiên, có thể những câu trả lời của các em không đúng với thực tế thực hành hàng ngày. Để đánh giá chính xác cần có quan sát thực tế thực hành của các em học sinh. Tỉ lệ thực hành phòng chống bệnh như rửa tay trước khi ăn, sau khi đi đại tiện và sử dụng hố xí hợp vệ sinh cao hơn nhiều so với nghiên cứu ở của Nguyễn Châu Thành (8,7% và 74,2%) và Võ Thị Thanh Hiền (84,8% và 83,3%) [11; 14]. Tỉ lệ học sinh có thực hành tốt cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Phan Văn Trọng (66,47%) [15]. Nguy cơ nhiễm giun ở nhóm có rửa tay trước khi ăn bằng 0,24 lần so với nguy cơ nhiễm giun ở nhóm không rửa tay trước khi ăn. Nguy cơ nhiễm giun ở nhóm có rửa tay sau khi đi vệ sinh bằng 0,29 lần so với nguy cơ nhiễm giun ở nhóm không rửa tay sau khi đi vệ sinh. Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi cung cấp thêm bằng chứng để củng cố mối liên quan giữa hành vi rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh với tình trạng nhiễm giun. Tỉ lệ tẩy giun trong vòng 6 tháng cũng cao hơn so với các nghiên cứu trước [11]. Học sinh được tẩy giun trong vòng 6 tháng có nguy cơ nhiễm giun bằng 0,53 lần so với học sinh không được tẩy giun và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê. Việc tẩy giun định kỳ cũng có thể là nguyên nhân làm giảm cường độ nhiễm giun. Kết quả của 72 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC chúng tôi phù hợp với kết quả của Lương Văn Định và Nguyễn Văn Sơn [16; 17]. Khi chạy mô hình hồi quy tìm mối liên quan giữa nhiễm giun với 10 yếu tố thấy có 2 yếu tố là thực hành tốt và tẩy giun trong vòng 6 tháng làm giảm tỷ lệ nhiễm giun, sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Như vậy, yếu tố thực hành phòng bệnh và tẩy giun định kỳ mới là yếu tố quyết định làm giảm tỷ lệ nhiễm giun đường ruột ở học sinh tiểu học huyện Kim Động. V. KẾT LUẬN Nghiên cứu thực hiện trên 622 học sinh tiểu học huyện Kim Động – Hưng Yên. Kết quả cho thấy tỉ lệ học sinh có kiến thức tốt/khá về bệnh và phòng bệnh giun truyền qua đất là 87,9%, thực hành phòng chống bệnh tốt/khá (98,2%). Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành với tỉ lệ nhiễm giun, yếu tố là thực hành tốt và tẩy giun trong vòng 6 tháng làm giảm tỷ lệ nhiễm giun, sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Lời cám ơn Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Y Hà Nội đã tài trợ kinh phi cho nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. WHO (2016). Soil-transmitted helminth infections. Available from: mediacentre/factsheets/fs366/en/. 2. CDC (2013). Soil-transmitted Helminths. Available from: sth/. 3. Hoek W. V.D., De N.V., Konradsen F., et al (2003). Current status of soil-transmitted helminths in Vietnam. Southeast Asian J Trop Med Public Health, 34(1), 1 - 11. 4. WHO (2011). Working to overcome the global impact of neglected tropical diseases - Summary, in Wkly Epidemiol Rec, 113 - 120. 5. Lê Văn Xanh, Trần Văn Nam, Nguyễn Thị Thanh Thủy và cộng sự (2005). Tình hình nhiễm giun đường ruột và hiệu quả phòng chống giun ở học sinh tiểu học của tỉnh Kiên Giang. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 1, 92 - 97. 6. Nguyễn Mạnh Hùng và Đỗ Trung Dũng (2011). Công tác phòng chống giun sán giai đoạn 2006 - 2010, phương hướng thực hiện chương trình phòng chống bệnh giun sán 2011 - 2015: Hà Nội. 7 - 15. 7. Trần Thị Thanh Bình, Hán Đình Trọng, Phạm Thị Hạ và cộng sự (2011). Đánh giá tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm giun truyền qua đất tại 4 xã tỉnh Lào Cai. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 4. 8. Nguyễn Văn Chương (2013). Thực trạng nhiễm giun truyền qua đất tại một số điểm của tỉnh Quảng Nam, Phú Yên và Đăk lăk năm 2012. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 3, 79. 9. Trần Minh Hậu., Phạm Thảo Hương (1997). Tương quan giữa thiếu máu với nhiễm giun đường ruột ở học sinh tuổi học đường. Tạp chí Y học thực hành, 10, 18 - 20. 10. Ahmed F., Mohiduzzaman M., Jack- son A. A. (1993). Vitamin A absorption in chil- dren with ascariasis. Br J Nutr, 69, 817 - 825. 11. Nguyễn Công Thành (2009). Đánh giá tình hình nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tại hai xã thuộc huyện Buôn Đôn tỉnh Đăk Lăk, Đại học Tây Nguyên: Buôn Ma Thuột. 12. Lê Thị Tuyết (2001). Nghiên cứu tình trạng nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ và hiệu quả của biện pháp can thiệp ở một số xã của tỉnh Thái Bình, Trường Đại Học Y Hà Nội. TCNCYH 114 (5) - 2018 73 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 13. Phan Văn Trọng (2000). Nghiên cứu một số đặc điểm giun móc/mỏ ở tỉnh Đăk lăk và đánh giá hiệu quả biện pháp điều trị đặc hiệu, Trường Đại học Y Hà Nội. 14. Võ Thị Thanh Hiền (2010). Nghiên cứu thực trạng và một số yếu tố nguy cơ nhiễm giun đường ruột của học sinh tại hai trường tiểu học thuộc thành phố Lào Cai năm 2009 - 2010, Trường Đại học Y Hà Nội. 15. Phan Văn Trọng, Nguyễn Thị Lệ, Đặng Đình Thành và cộng sự (2017). Kiến thức, thực hành về biện pháp phòng chống nhiễm giun truyền qua đất của phụ huynh và học sinh trường tiểu học Ngô Gia Tự, huyện Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 96, 135 - 139. 16. Lê Văn Định, Trương Quang Ánh, Nguyễn Văn Hinh và cộng sự (2007). Nghiên cứu tình hình nhiễm giun truyền qua đất và đánh giá sự tái nhiễm sau can thiệp bằng Mebendazole ở trẻ em xã Hồng Vân, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế 2005- 2006. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 11, 24 - 30. 17. Nguyễn Văn Sơn (2013). Tình hình nhiễm giun đường ruột và hiệu quả tẩy giun hàng loạt bằng Mebendazole 500mg sau 12 tháng tại 3 trường tiểu học thành phố Sơn La - tỉnh Sơn La năm 2007 - 2009. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 17(1), 172 - 178. Summary KNOWLEDGE, PRACTICE AND FACTORS ASSOCIATED WITH THE PREVALENCE OF SOIL - TRANSMITTED HELMINTHS INFECTION AMONG PRIMARY STUDENTS IN HUNG YEN PROVINCE The study conducted on 622 primary pupils in the Kim Dong district, Hung Yen province. Results: the knowledge of pupils about STH was 50.8%, the transmitted way was 76.5%. 12.5% did not know the cause of STH infection. 85.9% know the harm of the STH, 99.7% know the method of prevention. Practice; 97% of pupils wash their hands before eating, 98.1% of pupils wash their hands after defecation, 94.7% of nail clippers; 81.2 did not drink fresh water; 54.3% did not eat raw vegetables, 88.1% of pupils use hygienic latrines, 51.4% were dewormed within 6 months. The percentage of pupils with good knowledge is 66.8%, pupils with fairly good knowledge and not good were 21.1% and 12.1%, respectively. The rate of pupils with good practice is 90.2%, fairly good was 8% and 1.8% was not good practice. There were two factors, good practice and deworming within 6 months are significant with reduced the incidence of STH infection. Key words: Soil-transmitted helminth, Ascaris lumbricoides, Trichuris trichiura and Neca- tor americanus/ Ancylostoma duodenale
File đính kèm:
kien_thuc_thuc_hanh_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_thuc_tran.pdf