Kiến thức - Thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tỉnh Hưng Yên

Nghiên cứu được thực hiện trên 622 học sinh Tiểu học huyện Kim Động, Hưng Yên. Kết quả cho thấy, tỉ

lệ học sinh biết giun truyền qua là 50,8%, đường lây là 76,5%, có 12,5% không biết nguyên nhân gây bệnh

giun truyền qua đất. 85,9% biết tác hại của giun truyền qua đất, 99,7% biết đến biện pháp phòng chống.

Thực hành; 97% học sinh rửa tay trước khi ăn, 98,1% học sinh rửa tay sau khi đi đại tiện; 94,7% cắt móng

tay; 81,2 không uống nước lã; 54,3% không ăn rau sống. Có 88,1% học sinh sử dụng hố xí hợp vệ sinh.

51,4% được tẩy giun trong vòng 6 tháng. Tỉ lệ học sinh có kiến thức tốt chiếm 66,8%, có kiến thức khá và

chưa tốt chiếm tỉ lệ lần lượt là 21,1% và 12,1%. Tỉ lệ học sinh có thực hành tốt chiếm 90,2%, thực hành khá

là 8%, có 1,8% học sinh thực hành chưa tốt. Có 2 yếu tố là thực hành tốt và tẩy giun trong vòng 6 tháng làm

giảm tỉ lệ nhiễm giun, sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê

pdf 8 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức - Thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tỉnh Hưng Yên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức - Thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tỉnh Hưng Yên

Kiến thức - Thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tỉnh Hưng Yên
 66 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
KIẾN THỨC - THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN 
ĐẾN THỰC TRẠNG NHIỄM GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT 
Ở HỌC SINH TIỂU HỌC TỈNH HƯNG YÊN 
Phạm Ngọc Duấn, Phạm Ngọc Minh 
Bộ môn Ký sinh trùng, Trường Đại học Y Hà Nội 
Nghiên cứu được thực hiện trên 622 học sinh Tiểu học huyện Kim Động, Hưng Yên. Kết quả cho thấy, tỉ 
lệ học sinh biết giun truyền qua là 50,8%, đường lây là 76,5%, có 12,5% không biết nguyên nhân gây bệnh 
giun truyền qua đất. 85,9% biết tác hại của giun truyền qua đất, 99,7% biết đến biện pháp phòng chống. 
Thực hành; 97% học sinh rửa tay trước khi ăn, 98,1% học sinh rửa tay sau khi đi đại tiện; 94,7% cắt móng 
tay; 81,2 không uống nước lã; 54,3% không ăn rau sống. Có 88,1% học sinh sử dụng hố xí hợp vệ sinh. 
51,4% được tẩy giun trong vòng 6 tháng. Tỉ lệ học sinh có kiến thức tốt chiếm 66,8%, có kiến thức khá và 
chưa tốt chiếm tỉ lệ lần lượt là 21,1% và 12,1%. Tỉ lệ học sinh có thực hành tốt chiếm 90,2%, thực hành khá 
là 8%, có 1,8% học sinh thực hành chưa tốt. Có 2 yếu tố là thực hành tốt và tẩy giun trong vòng 6 tháng làm 
giảm tỉ lệ nhiễm giun, sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. 
Từ khóa: Giun truyền qua đất, giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ 
Địa chỉ liên hệ: Phạm Ngọc Duấn, Bộ môn Ký sinh trùng – 
Trường Đại học Y Hà Nội 
Email: [email protected] 
Ngày nhận: 16/3/2018 
Ngày được chấp thuận: 18/6/2018 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh giun truyền qua đất do các loại giun 
chính gây nên là giun đũa (Ascaris lumbri-
coides), giun tóc (Trichuris trichiura) và giun 
móc/mỏ (Necator americanus và Ancylostoma 
duodenale). Bệnh gây nhiều tác hại đến sức 
khỏe cộng đồng, đặc biệt là trên trẻ em. Bệnh 
chủ yếu tập trung ở những nước chưa phát 
triển, ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới [1 -
3]. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới 
(WHO) năm 2016, trên Thế giới có khoảng 1,2 
tỷ người nhiễm giun đũa, 795 triệu người 
nhiễm giun tóc và 740 triệu người nhiễm giun 
móc/mỏ [4]. Trong đó có hơn 267 triệu trẻ em 
trước tuổi đến trường và hơn 568 triệu trẻ em 
trong độ tuổi đến trường sống ở những nơi có 
nguy cơ cao bị nhiễm bệnh, cần điều trị và 
can thiệp dự phòng [1]. 
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới 
có điều kiện tự nhiên và tập quán canh tác 
thuận lợi cho bệnh giun truyền qua đất phát 
triển. Hiện nay, bệnh vẫn phổ biến ở nhiều 
khu vực trên cả nước. Theo điều tra của Viện 
Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung 
ương từ năm 2006 đến 2010 cho thấy tỉ lệ 
nhiễm chung của bệnh giun truyền qua đất ở 
cộng đồng tại vùng Trung du và miền núi phía 
Bắc khoảng 65,3%, đồng bằng sông Hồng là 
58,2%, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền 
Trung là 42,2%, Tây Nguyên là 30,2%, Đông 
Nam Bộ là 29% và đồng bằng sông Cửu Long 
khoảng 12 - 14% [3; 5; 6]. 
Bệnh giun truyền qua đất gây tác hại đến 
mọi lứa tuổi, nhưng lứa tuổi học sinh tiểu học 
là có tỷ lệ nhiễm cao nhất và bị ảnh hưởng 
nặng nề nhất đến khả năng phát triển của trẻ 
[7 - 10]. Chương trình phòng chống giun sán 
Quốc gia giai đoạn 2001 – 2010 đã triển khai 
mô hình kết hợp giữa công tác giáo dục 
truyền thông và điều trị hàng loạt cho các đối 
tượng này tại 32 tỉnh (Hà Giang, Lào Cai, Lai 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 67 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Châu, Nghệ An, Thanh Hoá, Đăk Nông,...) làm 
cho tỉ lệ giun truyền qua đất giảm đáng kể như 
Nghệ An tỉ lệ giảm từ 77,9% xuống 36,2% sau 
3 năm. Tuy nhiên, tỉ lệ nhiễm vẫn còn cao [6]. 
Huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên nằm ở 
trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, được phù sa 
sông Hồng bồi đắp, dân số của huyện là 
111.417 người, trong đó có khoảng 10.000 
học sinh tiểu học. Nghề nghiệp chính của 
người dân là làm ruộng và trồng hoa màu, 
điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, nhận 
thức của người dân và sự quan tâm của cộng 
đồng về phòng chống bệnh giun sán còn 
nhiều hạn chế. Đặc biệt, Chương trình Phòng 
Chống Giun sán Quốc gia chưa được triển 
khai ở địa phương này. Do đó, có rất ít điều 
tra, nghiên cứu hay đánh giá về bệnh giun 
truyền qua đất cũng như mô tả kiến thức, thực 
hành và một số yếu tố liên quan đến phòng 
bệnh giun truyền qua đất trên học sinh tiểu 
học tại đây. Vì vậy, nghiên cứu được tiến 
hành với mục tiêu mô tả kiến thức, thực hành 
và một số yếu tố liên quan đến thực trạng 
nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học 
huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên năm 2016. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Học sinh lớp 4, 5 tại 3 trường tiểu học của 
huyện Kim Động, Hưng Yên năm 2016 là 
Trường Tiểu học Hùng An, Mai Động và 
Nguyễn Lương Bằng. 
2. Phương pháp 
- Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu tiến 
hành tại huyện Kim Động - tỉnh Hưng Yên. 
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 6/2016 
đến tháng 6/2017. 
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 
cắt ngang. 
- Cỡ mẫu và cách chọn mẫu: 
+ Cỡ mẫu được tính theo công thức ước 
lượng tỷ lệ cho một quần thể: 
Trong đó: 
- n là cỡ mẫu; 
- Z2(1 – α/2) là hệ số tin cậy ở mức xuất sắc 
95% (Z2(1 – α/2) = 1,96); 
- p: tỉ lệ nhiễm giun ước lượng (50%) [6]. 
- q: tỉ lệ ước lượng người không nhiễm 
giun (50%). 
- d: độ chính xác mong muốn (5%). 
Cỡ mẫu sẽ là: 
Như vậy cỡ mẫu sẽ là 500 học sinh. 
 Chọn chủ đích 3 trường trong số 17 
trường tiểu học đại diện cho 3 vùng có đặc 
điểm sinh vật cảnh khác nhau của huyện Kim 
Động, điều tra toàn bộ học sinh của khối lớp 4 
và 5 của 3 trường tiểu học, tổng số 622 mẫu 
được thu thập. 
- Đánh giá kiến thức và thực hành phòng 
bệnh giun truyền qua đất bằng bộ câu hỏi 
(KAP). Mỗi học sinh được phát một bộ câu hỏi 
có các đáp án kèm theo, mỗi câu hỏi trả lời 
đúng về kiến thức, thực hành được tính là “1 
điểm”, trả lời sai hoặc không biết “0 điểm”, sau 
đó sẽ tính tổng điểm và chia thành 3 nhóm: 
+ Tổng điểm > 70% điểm tối đa là nhóm 
khá tốt. 
+ Tổng điểm > 50% đến 70% điểm tối đa là 
nhóm trung bình. 
n = 
Z2(1- α/2) (p.(1 - p) 
(d)2 
x 1,3 
n = 
1,962 . (50 x 50) 
52 
x 1,3 
 68 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
+ Tổng điểm ≤ 50% điểm tối đa là nhóm 
chưa tốt. 
3. Xử lý số liệu 
Số liệu được mã hóa và nhập bằng phần 
mềm EPI DATA 3.1, xử lý số liệu bằng phần 
mềm STATA 18.0. Sử dụng cả thống kê mô tả 
và thống kê phân tích. Mức ý nghĩa thống 
kê p < 0,05 được sử dụng trong thống kê 
phân tích. 
- Các số liệu được xử lý theo toán thống kê 
y học trong nghiên cứu: Tỷ lệ, OR, test t2 và 
phân tích đa biến các yếu tố nguy cơ. 
4. Đạo đức trong nghiên cứu 
Thông tin cá nhân của đối tượng cung cấp 
được đảm bảo bí mật hoàn toàn. Thông tin 
được thu thập một cách trung thực, khách 
quan. Các thông tin thu thập được chỉ sử 
dụng cho mục đích nghiên cứu chứ không sử 
dụng cho mục đích nào khác. 
III. KẾT QUẢ 
Nghiên cứu được thực hiện trên 622 học 
sinh của 3 trường tiểu học huyện Kim Động - 
Hưng Yên. Kiến thức, thái độ và thực hành 
của học sinh về phòng bệnh giun truyền qua 
đất được đánh giá qua bộ câu hỏi KAP và xét 
nghiệm phân bằng kỹ thuật Kato. 
Hình 1. Mức độ kiến thức, thực hành của học sinh về bệnh giun 
Tỉ lệ học sinh có kiến thức tốt chiếm 66,8%, thực hành tốt tương đối cao (90,2%). Trong đó, 
rửa tay sau khi đi đại tiện (98,1%), rửa tay trước khi ăn (97%) và hơn một nửa số học sinh được 
tẩy giun trong vòng 6 tháng (51,4%). 
Kết quả cho thấy không mối liên quan giữa hiểu biết đúng về loại giun, đường lây, nguyên 
nhân, tác hại và cách phòng tránh về giun truyền qua đất với tình trạng nhiễm giun (bảng 1). 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 69 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bảng 1. Mối liên quan giữa kiến thức với tình trạng nhiễm giun 
Yếu tố hiểu biết 
Nhiễm Không nhiễm OR 
95%CI n % n % 
Hiểu đúng về tên giun truyền qua đất 
- Có 39 47,6 261 48,3 1 
- Không 43 52,4 279 51,7 0,97 (0,63 - 1,52) 
Hiểu đúng về đường lây 
- Có 56 68,3 420 77,8 1 
- Không 26 31,7 120 22,2 0,61 (0,4 - 1,02) 
Hiểu đúng về nguyên nhân 
- Có 70 85,4 473 87,6 1 
- Không 12 14,6 67 12,4 0,8 (0,4 - 1,6) 
Hiểu đúng về tác hại 
- Có 65 79,3 465 86,1 1 
- Không 17 20,7 75 13,9 0,6 (0,3 - 1,1) 
Hiểu đúng về cách phòng tránh 
- Có 78 95,1 522 96,7 1 
- Không 4 4,9 18 3,3 0,7 (0,2 - 2,0) 
Bảng 2. Mối liên quan thực hành vệ sinh cá nhân với tình trạng nhiễm giun 
Yếu tố vệ sinh cá nhân 
Nhiễm Không nhiễm OR 
(CI 95%) n % n % 
Rửa tay trước khi ăn 
- Có 75 91,5 528 97,8 1 
- Không 7 8,5 12 2,2 0,24* (0,09 - 0,64) 
Rửa tay sau khi đi đại tiện 
- Có 78 95,1 532 98,5 1 
- Không 4 4,9 8 1,5 0,29 (0,08 - 1) 
Cắt móng tay 
- Có 74 90,2 515 95,4 1 
- Không 8 9,8 25 4,6 0,44 (0,19 - 1,03) 
 70 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Yếu tố vệ sinh cá nhân 
Nhiễm Không nhiễm OR 
(CI 95%) n % n % 
Uống nước lã 
- Không 63 76,8 442 81,9 1 
- Có 19 23,2 98 18,1 0,73 (0,4 - 1,28) 
Ăn rau sống 
- Không 41 50 297 55 1 
- Có 41 50 243 45 0,8 (0,51 - 1,3) 
Đi chân đất 
- Không 32 39 224 41,5 1 
- Có 50 61 316 58,5 0,9 (0,56 - 1,45) 
Sử dụng hố xí hợp vệ sinh 
- Có 70 85,4 478 88,5 1 
- Không 12 14,6 62 11,5 1,3 (0,68 - 2,58) 
Tẩy giun trong vòng 6 tháng 
- Có 31 37,8 289 53,5 1 
- Không 51 62,2 251 46,5 0,53* (0,32 - 0,85) 
*p < 0,05. 
Nguy cơ nhiễm giun ở nhóm rửa tay trước khi ăn chỉ bằng 0,2 lần nguy cơ nhiễm giun ở nhóm 
không rửa tay trước khi ăn và sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 95%. Nguy cơ 
nhiễm giun ở nhóm học sinh tẩy giun trong vòng 6 tháng chỉ bằng 0,53 lần nguy cơ nhiễm giun ở 
nhóm không tẩy giun trong vòng 6 tháng và sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 
95%. 
Bảng 3. Mối liên quan giữa kiến thức khá/tốt và tình trạng nhiễm giun 
Mức kiến thức 
Nhiễm Không nhiễm OR 
(CI 95%) n % n % 
Kiến thức khá/tốt 48 58,5 368 68,2 1 
Kiến thức chưa tốt 34 41,5 172 31,8 1,52 (0,9 - 2,4) 
Nguy cơ nhiễm giun ở nhóm có kiến thức chưa tốt cao gấp 1,5 lần so với nguy cơ nhiễm giun 
ở nhóm kiến thức khá tốt, sự khác biệt không có ý nghĩa với mức tin cậy 95%. 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 71 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bảng 4. Mối liên quan giữa thực hành khá/tốt với tình trạng nhiễm giun 
Mức thực hành 
Nhiễm giun Không nhiễm OR 
(CI 95%) n % n % 
Thực hành khá/tốt 63 76,8 498 92,2 1 
Thực hành chưa tốt 19 23,2 42 7,8 3,6 (1,9 - 6,5) 
Nguy cơ nhiễm giun ở nhóm thực hành chưa tốt cao gấp 3,6 lần nguy cơ nhiễm giun ở nhóm 
thực hành khá/tốt và sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 95%. 
IV. BÀN LUẬN 
Hiểu biết của học sinh về các loại giun là 
tương đối thấp (50,8%). Có 76,5% biết đến 
đường lây truyền của giun truyền qua đất. Kết 
quả này của chúng tôi cao hơn so với tỷ lệ 
hiểu biết đường lây của học sinh trong nghiên 
cứu của Nguyễn Châu Thành, Lê Thị Tuyết và 
Phan Văn Trọng [11 - 13]. Hiểu biết về những 
nguyên nhân gây bệnh giun truyền qua đất 
tương đối cao, chỉ có 12,5% em không biết 
nguyên nhân nào gây bệnh giun truyền qua 
đất. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao 
hơn nhiều so với nghiên cứu của Nguyễn 
Châu Thành (44,06%) và Nguyễn Văn Khá 
(43,6%). Đặc biệt, hầu hết học sinh đều biết 
tới các biện pháp phòng chống (99,7%). 
Có mối liên quan giữa thực hành khá/tốt 
với tình trạng nhiễm giun. Cụ thể nguy cơ 
nhiễm giun ở nhóm thực hành chưa tốt cao 
hơn gấp 3,6 lần so với nguy cơ nhiễm giun ở 
nhóm thực hành khá/tốt. Nhóm thức hành tốt 
có tỉ lệ nhiễm giun đường ruột thấp hơn nhóm 
chưa tốt, sự khác biệt này là có ý nghĩa thống 
kê (p < 0,05). Mặc dù, các em học sinh đã 
được điền phiếu câu hỏi một cách độc lập, 
trung thực. Tuy nhiên, có thể những câu trả lời 
của các em không đúng với thực tế thực hành 
hàng ngày. Để đánh giá chính xác cần có 
quan sát thực tế thực hành của các em học 
sinh. 
Tỉ lệ thực hành phòng chống bệnh như rửa 
tay trước khi ăn, sau khi đi đại tiện và sử dụng 
hố xí hợp vệ sinh cao hơn nhiều so với nghiên 
cứu ở của Nguyễn Châu Thành (8,7% và 
74,2%) và Võ Thị Thanh Hiền (84,8% và 
83,3%) [11; 14]. Tỉ lệ học sinh có thực hành 
tốt cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Phan 
Văn Trọng (66,47%) [15]. Nguy cơ nhiễm giun 
ở nhóm có rửa tay trước khi ăn bằng 0,24 lần 
so với nguy cơ nhiễm giun ở nhóm không rửa 
tay trước khi ăn. Nguy cơ nhiễm giun ở nhóm 
có rửa tay sau khi đi vệ sinh bằng 0,29 lần so 
với nguy cơ nhiễm giun ở nhóm không rửa tay 
sau khi đi vệ sinh. Như vậy kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi cung cấp thêm bằng chứng 
để củng cố mối liên quan giữa hành vi rửa tay 
trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh với tình 
trạng nhiễm giun. Tỉ lệ tẩy giun trong vòng 6 
tháng cũng cao hơn so với các nghiên cứu 
trước [11]. Học sinh được tẩy giun trong vòng 
6 tháng có nguy cơ nhiễm giun bằng 0,53 lần 
so với học sinh không được tẩy giun và mối 
liên quan này có ý nghĩa thống kê. Việc tẩy 
giun định kỳ cũng có thể là nguyên nhân làm 
giảm cường độ nhiễm giun. Kết quả của 
 72 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
chúng tôi phù hợp với kết quả của Lương Văn 
Định và Nguyễn Văn Sơn [16; 17]. 
Khi chạy mô hình hồi quy tìm mối liên quan 
giữa nhiễm giun với 10 yếu tố thấy có 2 yếu tố 
là thực hành tốt và tẩy giun trong vòng 6 tháng 
làm giảm tỷ lệ nhiễm giun, sự khác biệt này là 
có ý nghĩa thống kê. Như vậy, yếu tố thực 
hành phòng bệnh và tẩy giun định kỳ mới là 
yếu tố quyết định làm giảm tỷ lệ nhiễm giun 
đường ruột ở học sinh tiểu học huyện Kim 
Động. 
V. KẾT LUẬN 
Nghiên cứu thực hiện trên 622 học sinh 
tiểu học huyện Kim Động – Hưng Yên. Kết 
quả cho thấy tỉ lệ học sinh có kiến thức tốt/khá 
về bệnh và phòng bệnh giun truyền qua đất là 
87,9%, thực hành phòng chống bệnh tốt/khá 
(98,2%). Có mối liên quan giữa kiến thức và 
thực hành với tỉ lệ nhiễm giun, yếu tố là thực 
hành tốt và tẩy giun trong vòng 6 tháng làm 
giảm tỷ lệ nhiễm giun, sự khác biệt này là có ý 
nghĩa thống kê. 
Lời cám ơn 
Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn 
Trường Đại học Y Hà Nội đã tài trợ kinh phi 
cho nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. WHO (2016). Soil-transmitted helminth 
infections. Available from: 
mediacentre/factsheets/fs366/en/. 
2. CDC (2013). Soil-transmitted Helminths. 
Available from: 
sth/. 
3. Hoek W. V.D., De N.V., Konradsen F., 
et al (2003). Current status of soil-transmitted 
helminths in Vietnam. Southeast Asian J Trop 
Med Public Health, 34(1), 1 - 11. 
4. WHO (2011). Working to overcome the 
global impact of neglected tropical diseases - 
Summary, in Wkly Epidemiol Rec, 113 - 120. 
5. Lê Văn Xanh, Trần Văn Nam, Nguyễn 
Thị Thanh Thủy và cộng sự (2005). Tình 
hình nhiễm giun đường ruột và hiệu quả 
phòng chống giun ở học sinh tiểu học của tỉnh 
Kiên Giang. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét 
và các bệnh ký sinh trùng, 1, 92 - 97. 
6. Nguyễn Mạnh Hùng và Đỗ Trung 
Dũng (2011). Công tác phòng chống giun sán 
giai đoạn 2006 - 2010, phương hướng thực 
hiện chương trình phòng chống bệnh giun sán 
2011 - 2015: Hà Nội. 7 - 15. 
7. Trần Thị Thanh Bình, Hán Đình Trọng, 
Phạm Thị Hạ và cộng sự (2011). Đánh giá tỷ 
lệ nhiễm và cường độ nhiễm giun truyền qua 
đất tại 4 xã tỉnh Lào Cai. Tạp chí phòng chống 
bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 4. 
8. Nguyễn Văn Chương (2013). Thực 
trạng nhiễm giun truyền qua đất tại một số 
điểm của tỉnh Quảng Nam, Phú Yên và Đăk 
lăk năm 2012. Tạp chí phòng chống bệnh sốt 
rét và các bệnh ký sinh trùng, 3, 79. 
9. Trần Minh Hậu., Phạm Thảo Hương 
(1997). Tương quan giữa thiếu máu với nhiễm 
giun đường ruột ở học sinh tuổi học đường. 
Tạp chí Y học thực hành, 10, 18 - 20. 
10. Ahmed F., Mohiduzzaman M., Jack-
son A. A. (1993). Vitamin A absorption in chil-
dren with ascariasis. Br J Nutr, 69, 817 - 825. 
11. Nguyễn Công Thành (2009). Đánh giá 
tình hình nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh 
tiểu học tại hai xã thuộc huyện Buôn Đôn tỉnh 
Đăk Lăk, Đại học Tây Nguyên: Buôn Ma 
Thuột. 
12. Lê Thị Tuyết (2001). Nghiên cứu tình 
trạng nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ 
và hiệu quả của biện pháp can thiệp ở một số 
xã của tỉnh Thái Bình, Trường Đại Học Y Hà 
Nội. 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 73 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
13. Phan Văn Trọng (2000). Nghiên cứu 
một số đặc điểm giun móc/mỏ ở tỉnh Đăk lăk 
và đánh giá hiệu quả biện pháp điều trị đặc 
hiệu, Trường Đại học Y Hà Nội. 
14. Võ Thị Thanh Hiền (2010). Nghiên 
cứu thực trạng và một số yếu tố nguy cơ 
nhiễm giun đường ruột của học sinh tại hai 
trường tiểu học thuộc thành phố Lào Cai năm 
2009 - 2010, Trường Đại học Y Hà Nội. 
15. Phan Văn Trọng, Nguyễn Thị Lệ, 
Đặng Đình Thành và cộng sự (2017). Kiến 
thức, thực hành về biện pháp phòng chống 
nhiễm giun truyền qua đất của phụ huynh và 
học sinh trường tiểu học Ngô Gia Tự, huyện 
Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk. Tạp chí phòng chống 
bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 96, 
135 - 139. 
16. Lê Văn Định, Trương Quang Ánh, 
Nguyễn Văn Hinh và cộng sự (2007). 
Nghiên cứu tình hình nhiễm giun truyền qua 
đất và đánh giá sự tái nhiễm sau can thiệp 
bằng Mebendazole ở trẻ em xã Hồng Vân, 
huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế 2005-
2006. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 
11, 24 - 30. 
17. Nguyễn Văn Sơn (2013). Tình hình 
nhiễm giun đường ruột và hiệu quả tẩy giun 
hàng loạt bằng Mebendazole 500mg sau 12 
tháng tại 3 trường tiểu học thành phố Sơn La - 
tỉnh Sơn La năm 2007 - 2009. Tạp chí Y học 
Thành phố Hồ Chí Minh, 17(1), 172 - 178. 
Summary 
KNOWLEDGE, PRACTICE AND FACTORS ASSOCIATED WITH THE 
PREVALENCE OF SOIL - TRANSMITTED HELMINTHS INFECTION 
AMONG PRIMARY STUDENTS IN HUNG YEN PROVINCE 
The study conducted on 622 primary pupils in the Kim Dong district, Hung Yen province. 
Results: the knowledge of pupils about STH was 50.8%, the transmitted way was 76.5%. 12.5% 
did not know the cause of STH infection. 85.9% know the harm of the STH, 99.7% know the 
method of prevention. Practice; 97% of pupils wash their hands before eating, 98.1% of pupils 
wash their hands after defecation, 94.7% of nail clippers; 81.2 did not drink fresh water; 54.3% did 
not eat raw vegetables, 88.1% of pupils use hygienic latrines, 51.4% were dewormed within 6 
months. The percentage of pupils with good knowledge is 66.8%, pupils with fairly good 
knowledge and not good were 21.1% and 12.1%, respectively. The rate of pupils with good 
practice is 90.2%, fairly good was 8% and 1.8% was not good practice. There were two factors, 
good practice and deworming within 6 months are significant with reduced the incidence of STH 
infection. 
Key words: Soil-transmitted helminth, Ascaris lumbricoides, Trichuris trichiura and Neca-
tor americanus/ Ancylostoma duodenale 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thuc_hanh_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_thuc_tran.pdf