Kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi thuộc hai xã Phình Sáng và Quài Cang huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên năm 2019

Nghiên cứu về kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ có liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ với mục tiêu: Mô tả kiến thức, thực hành về dinh dưỡng của các bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi tại 02 xã Phình Sáng và Quài Cang thuộc huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả cho thấy: 91% các bà mẹ có kiến thức đúng về thời gian bú sớm sau sinh, 72,9% hiểu biết đúng về bú sữa mẹ hoàn toàn. Tuy nhiên, kiến thức đúng về thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn và thời gian cai sữa thấp hơn lần lượt là 43,6% và 45,2%. Trẻ dưới 6 tháng được bú sữa mẹ hoàn toàn là 45,0%, trẻ 6 - 23 tháng được ăn đa dạng thực phẩm chiếm 33,6%. Như vậy kiến thức, thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ và cho trẻ ăn bổ sung của các bà mẹ H’Mông và Thái tại 02 xã Phình Sáng và Quài Cang còn rất hạn chế

pdf 6 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi thuộc hai xã Phình Sáng và Quài Cang huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi thuộc hai xã Phình Sáng và Quài Cang huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên năm 2019

Kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi thuộc hai xã Phình Sáng và Quài Cang huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên năm 2019
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn90
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu về kiến thức, thực hành dinh dưỡng của 
bà mẹ có liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ với 
mục tiêu: Mô tả kiến thức, thực hành về dinh dưỡng 
của các bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi tại 02 xã Phình 
Sáng và Quài Cang thuộc huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện 
Biên. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết 
quả cho thấy: 91% các bà mẹ có kiến thức đúng về thời 
gian bú sớm sau sinh, 72,9% hiểu biết đúng về bú sữa 
mẹ hoàn toàn. Tuy nhiên, kiến thức đúng về thời gian 
bú sữa mẹ hoàn toàn và thời gian cai sữa thấp hơn lần 
lượt là 43,6% và 45,2%. Trẻ dưới 6 tháng được bú sữa 
mẹ hoàn toàn là 45,0%, trẻ 6 - 23 tháng được ăn đa dạng 
thực phẩm chiếm 33,6%. Như vậy kiến thức, thực hành 
về nuôi con bằng sữa mẹ và cho trẻ ăn bổ sung của các bà 
mẹ H’Mông và Thái tại 02 xã Phình Sáng và Quài Cang 
còn rất hạn chế.
Từ khóa: Kiến thức, thực hành, dinh dưỡng, dân tộc 
H’Mông, Thái.
ABSTRACT:
NUTRITIONAL KNOWLEDGE AND 
PRACTICE OF MOTHERS OF CHILDREN UNDER 
5 YEARS OLD AT PHINH SANG AND QUAI CANG 
COMMUNES TUAN GIAO DISTRICT, DIEN BIEN 
PROVINCE IN 2019
Research for nutritional knowledge, practices 
of mothers are relating nutritional status of chidren. 
Objectives: Description of nutritional knowledge and 
practices of mothers of children under 5 years old at 
02 communes Phinh Sang and Quai Cang, Tuan Giao 
district, Dien Bien province. Methods: A cross - sectional 
study. Results: 91% of mothers had the right knowledge 
about early breastfeeding time, 72.9% had the right 
knowledge about exclusive breastfeeding. However, the 
right knowledge about the time of exclusive breastfeeding 
and weaning time was 43.6% and 45.2%, respectively. 
Proportion of infants 0-5 months of age who are fed 
exclusively with breast milk was 45.0%. The percentage 
of children 6-23 months of age who received foods from 4 
or more food groups during the previos day was 33,6. So 
knowledge and practices on breastfeeding, complementary 
feeding of H’Mong and Thai ethnicity mothers at Phinh 
Sang and Quai Cang were very low.
Key words: Knowledge, practice, nutrition, H’Mong 
ethnicity, Thai ethnicity.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy dinh dưỡng (SDD) là một trong những vấn đề 
sức khỏe cộng đồng quan trọng ở tất cả các nước trên 
thế giới [7], trong đó có Việt Nam. Mặc dù tỷ lệ SDD 
có xu hướng giảm nhanh qua các năm, nhưng SDD thể 
thấp còi vẫn đang ở mức cao đặc biệt ở các tỉnh vùng 
miền núi phía Bắc và Tây Nguyên [1]. Nhiều nghiên 
cứu cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa kiến thức 
và thực hành của bà mẹ với tình trạng sức khỏe của trẻ 
em [2,3]. Trẻ em sinh ra từ phụ nữ có kiến thức, thực 
hành tốt ít bị suy dinh dưỡng hơn [8,9]. Với điều kiện 
một tỉnh miền núi phía Bắc như Điện Biên: địa hình 
phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, thành phần đa 
dân tộc, tỷ lệ hộ nghèo cao là những yếu tố ảnh hưởng 
không nhỏ đến công tác chăm sóc sức, truyền thông 
dinh dưỡng, nâng cao kiến thức, thực hành của bà mẹ. 
Vì vậy nghiên cứu này nhằm mô tả kiến thức, thực hành 
về dinh dưỡng của bà mẹ dân tộc H’Mông và Thái trên 
địa bàn tại thời điểm điều tra.
Ngày nhận bài: 14/05/2020 Ngày phản biện: 22/05/2020 Ngày duyệt đăng: 04/06/2020
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH DINH DƯỠNG CỦA BÀ MẸ ĐANG 
NUÔI CON DƯỚI 5 TUỔI THUỘC HAI xã PHÌNH SÁNG VÀ 
QUÀI CANG HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN NĂM 2019
Nguyễn Thị Ngọc Oanh1, Nguyễn Quang Dũng2, Lê Danh Tuyên3, Phạm Văn Phú2, Bùi Đình Tuấn4
1. Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Điện Biên
Điện thoại: 0985.815.245, Email: [email protected]
2. Bộ môn Dinh dưỡng & ATTP - trường Đại học Y Hà Nội
3. Viện Dinh dưỡng quốc gia
4. Bộ Y tế
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 91
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
Bà mẹ có con dưới 5 tuổi (hoặc người nuôi dưỡng 
trẻ chính) tại xã Phình Sáng và Quài Cang, huyện Tuần 
Giáo, tỉnh Điện Biên trong thời gian từ tháng 7/2019 đến 
tháng 5/2020.
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3. Cỡ mẫu và chọn mẫu
Nghiên cứu này là một phần trong nghiên cứu về 
“Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của 
trẻ em dưới 5 tuổi tại hai xã thuộc huyện Tuần Giáo, tỉnh 
Điện Biên năm 2019”. Vì vậy cỡ mẫu của nghiên cứu này 
chúng tôi vẫn tính theo công thức:
2
2
)2/1(
)1(
d
pp
n
−
Ζ= −α
Trong đó: n - cỡ mẫu cần thiết
α - mức ý nghĩa thống kê (chọn α = 0,05) ứng với độ 
tin cậy 95%, Z
(1-α/2) 
= 1,96 
p = 0,543: Tỷ lệ SDD thấp còi của trẻ em dưới 5 
tuổi dân tộc H’Mông và Thái tại Yên Bái và Sơn La năm 
2017 [4]
d - sai số cho phép là 0,05 
Như vậy cỡ mẫu tối thiểu là 381. Cỡ mẫu cuối cùng 
khi tiến hành điều tra là 420 bà mẹ.
Chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống.
2.4. Thu thập số liệu: Phỏng vấn trực tiếp bà mẹ/
người nuôi dưỡng chính có con dưới 5 tuổi trong diện 
nghiên cứu bằng bộ câu hỏi chuẩn bị sẵn.
2.5. Xử lý số liệu: Nhập liệu bằng Epidata 3.1 và 
phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. 
III. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Phân bố đối tượng bao gồm 196 bà mẹ ở Phình Sáng 
(100% dân tộc H’Mông) và 224 bà mẹ ở Quài Cang (100% 
dân tộc Thái). Độ tuổi trung bình của bà mẹ H’Mông là 
25,7 ± 5,8, bà mẹ Thái là 29,1 ± 5,3 (p < 0,001 với kiểm 
định t-test). Nhóm độ tuổi từ 25 - 34 tuổi chiếm 44,9% ở 
Phình Sáng và 67% ở Quài Cang. Số bà mẹ có trình độ 
học vấn dưới cấp 3 chiếm 77,4%. Nghề nghiệp của các bà 
mẹ chiếm đến 88,1% làm nương, không có thu nhập khác.
3.2. Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) 
của các bà mẹ
Bảng 1. Kiến thức của bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ
Kiến thức 
Phình Sángα (n = 196) Quài Cangβ (n = 224) Tổng (n = 420)
p
n % n % n %
Thời gian cho bú sau sinh
Trong vòng 1 giờ đầu 164 83,7 218 97,3 382 91,0
< 0,001
Sau 1 giờ 32 16,3 6 2,7 38 9,0
Vắt bỏ sữa non
Không nên vắt bỏ 161 82,1 189 84,4 350 83,3
> 0,05
Nên vắt bỏ 35 17,9 35 15,6 70 16,7
Bú sữa mẹ hoàn toàn là:
Sữa mẹ, nước, thức ăn 60 30,6 54 24,1 114 27,1
> 0,05
Chỉ sữa mẹ 136 69,4 170 75,9 306 72,9
Thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn
Sớm/muộn hơn 6 tháng 135 68,9 102 45,5 237 56,4
< 0,001
Trẻ 6 tháng tuổi 61 31,1 122 54,5 183 43,6
Thời gian cai sữa mẹ
Cai sữa ngoài 24 tháng 117 59,7 113 50,4 230 54,8
> 0,05
Cai sữa lúc 24 tháng 79 40,3 111 49,6 190 45,2
α - bà mẹ dân tộc H’Mông; β - bà mẹ dân tộc Thái
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn92
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
Bảng 2. Thực hành của bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ
Thực hành
Phình Sángα (n = 196) Quài Cangβ (n = 224) Tổng
p
n % n % n %
Thời gian cho trẻ bú sau sinh
Trong 1 giờ đầu 166 84,7 207 92,4 373 88,8
 0,01
Sau 1 giờ 30 15,3 17 7,6 47 11,2
Vắt bỏ sữa non
Không vắt bỏ 158 80,6 172 76,8 330 78,6
> 0,05
Có vắt bỏ 38 19,4 52 23,2 90 21,4
Bảng 3. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ ở trẻ dưới 02 tuổi
Chỉ số
Phình Sángα Quài Cangβ Tổng
p
n % n % n %
Trẻ < 06 tháng tuổi được 
bú sữa mẹ hoàn toàn
Có 7 77,8 2 18,2 9 45,0
< 0,05Không 2 22,2 9 81,8 11 55,0
Tổng 9 100 11 100 20 100
Trẻ 01 tuổi tiếp tục 
được bú sữa mẹ
Có 4 50,0 9 69,2 13 61,9
> 0,05Không 4 50,0 4 30,8 8 38,1
Tổng 8 100 13 100 21 100
Trẻ 20 - 23 tháng tuổi 
được bú sữa mẹ
Có 7 41,2 3 27,3 10 35,7
> 0,05Không 10 58,8 8 72,7 18 64,3
Tổng 17 100 11 100 28 100
Nhận xét: 91,0% các bà mẹ cho rằng cần cho bú ngay 
trong vòng 1 giờ đầu, tỷ lệ này có sự khác biệt giữa hai dân tộc 
mẹ (p < 0,001). Khi được hỏi có nên vắt bỏ phần sữa đầu tiên 
có màu ngà vàng, thì có 83,3% bà mẹ trả lời rằng không nên 
vắt bỏ sữa non. Có 72,9% số bà mẹ định nghĩa đúng về Bú sữa 
mẹ hoàn toàn là chỉ bao gồm sữa mẹ. 43,6% bà mẹ có ý kiến 
cho bú đến khi trẻ 6 tháng tuổi. Có 45,2% số ý kiến của các bà 
mẹ cho rằng nên cai sữa khi trẻ được 24 tháng tuổi.
3.3. Thực hành về NCBSM và cho trẻ ăn bổ sung 
(ĂBS) của các bà mẹ
α - bà mẹ dân tộc H’Mông; β - bà mẹ dân tộc Thái
Nhận xét: Tỷ lệ trẻ đẻ ra được bú mẹ ngay trong 
vòng 01 giờ đầu chiếm 88,8%. Tỷ lệ bà mẹ không vắt bỏ 
sữa non trước khi cho trẻ bú chiếm 78,6%. 
α - bà mẹ dân tộc H’Mông; β - bà mẹ dân tộc Thái
Nhận xét: Có sự khác biệt giữa hai nhóm dân tộc mẹ 
về tỷ lệ trẻ < 06 tháng được bú sữa mẹ hoàn toàn, ở Phình 
Sáng là 77,8%, Quài Cang là 18,2%. Tỷ lệ trẻ 01 tuổi vẫn 
tiếp tục được bú sữa mẹ là 61,9%. Trẻ tiếp tục được bú sữa 
mẹ đến 2 tuổi chiếm 35,7%.
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 93
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Biểu đồ 1. Thực hành cho trẻ 6 - 23 tháng tuổi ăn đa dạng thực phẩm
Biểu đồ 2. Thực hành cho trẻ 6 - 23 tháng tuổi ăn thực phẩm giàu sắt hoặc tăng cường sắt
Nhận xét: Đa số nhóm trẻ được ăn các thực phẩm giàu 
sắt trong ngày chiếm tỷ lệ 60,6%. Tỷ lệ này cao hơn ở nhóm 
trẻ Quài Cang chiếm 84%, nhóm trẻ Phình Sáng chiếm 
40,7%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
IV. BÀN LUẬN
4.1. Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ
Nhìn vào những nguyên nhân gây SDD ở trẻ em, 
nguyên nhân từ kiến thức, hiểu biết của bà mẹ về dinh 
dưỡng là một trong số những nguyên nhân quan trọng. 
Với trình độ học vấn cao, các bà mẹ sẽ có cơ hội tham gia 
các công việc bên ngoài nhà nhiều hơn, hòa nhập và tiếp 
87.7%
42.0%
58.0%
12.3%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Phình Sáng (H'Mông) Quài Cang (Thái)
KP dưới 4 nhóm thực phẩm KP có 4 nhóm thực phẩm trở lên
Nhận xét: Trong số 109 trẻ ở độ tuổi 6 - 23 tháng, có 
02 trẻ chưa được cho ăn bổ sung (Phình Sáng). Có 107 trẻ 
được ăn bổ sung. Tỷ lệ trẻ được ăn khẩu phần đa dạng từ 
4 nhóm thực phẩm trở lên chiếm 33,6%, trong đó nhóm 
trẻ dân tộc H’Mông chiếm 12,3%, nhóm trẻ dân tộc Thái 
chiếm 58%. Sự khác biệt giữa hai nhóm dân tộc có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,001.
40.7%
84.0%
59.3%
16.0%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
Phình Sáng (H'Mông) Quài Cang (Thái)
Được ăn
Không được ăn
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn94
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
cận với kiến thức nhiều hơn, trong đó có kiến thức về dinh 
dưỡng và chăm sóc trẻ. 
Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, phần lớn 
các bà mẹ có kiến thức đúng về NCBSM như: thời gian cho 
bú sau sinh sớm ngay trong vòng 1 giờ đầu chiếm đến 91%, 
tỷ lệ các bà mẹ có ý kiến không vắt bỏ sữa non chiếm 83,3%, 
tỷ lệ bà mẹ hiểu biết đúng về sữa mẹ hoàn toàn chiếm 72,9%. 
Tuy nhiên, kiến thức đúng về thời gian cho bú sữa mẹ hoàn 
toàn và thời gian cai sữa có tỷ lệ thấp hơn. Có 43,6% số các 
bà mẹ cho rằng cần bú sữa mẹ hoàn toàn đến 6 tháng, tỷ lệ 
này thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Hợp Tấn (2015) 
ở Lâm Đồng là 100% [5]. Có 45,2% các bà mẹ cho ý kiến 
rằng nên bú mẹ đến 24 tháng tuổi. Sự khác biệt về kiến thức 
giữa hai nhóm dân tộc mẹ có ý nghĩa thống kê thể hiện ở tỷ 
lệ kiến thức đúng về cho bú sớm sau sinh, về thời gian cho 
bú sữa mẹ hoàn toàn (p < 0,001).
4.2. Thực hành của bà mẹ về nuôi con bằng sữa 
mẹ và cho trẻ ăn bổ sung
Giữa kiến thức và thực hành của bà mẹ còn có một 
khoảng cách. Chưa hẳn những bà mẹ có kiến thức đúng 
thì sẽ có thực hành đúng [2,5]. Để đi tới thực hành đúng về 
dinh dưỡng cho trẻ còn chịu ảnh hưởng của rất nhiều các 
yếu tố như: dân tộc, số con, điều kiện kinh tế [5], phong 
tục, nghề nghiệp của người chăm sóc, 
- Nghiên cứu đã mô tả thực hành của bà mẹ về 
NCBSM: 88,8% số bà mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ 
đầu, 78,6% số bà mẹ cho con bú sữa non. Thực tế tại địa 
phương cho thấy, những bà mẹ H’Mông thường không 
cho con bú sớm và vắt bỏ sữa non nhiều hơn so với những 
bà mẹ người Thái. Có một vài lý do liên quan như: tỷ lệ 
bà mẹ đẻ tại nhà cao, không được hướng dẫn chăm sóc 
sau sinh, người mẹ không có sữa ngay nên không cho con 
bú, một số quan điểm cho rằng phần sữa non bẩn, trẻ bú 
không tốt. Những lý do đó dẫn đến thực hành không đúng.
- Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng được bú sữa mẹ hoàn toàn là 
45%, tương đương với kết quả của tác giả Trịnh Thanh 
Xuân nghiên cứu tại xã Tênh Phông, huyện Tuần Giáo 
46,7% [6]. Trong nhóm thực hành cho con bú hoàn toàn 
trong 6 tháng đầu, sự khác biệt giữa hai nhóm bà mẹ có 
ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nhóm bà mẹ người Thái 
thường cho con ĂBS sớm hơn 6 tháng tuổi, thực tế chỉ số 
này cũng có liên quan đến điều kiện kinh tế. 
- Với tỷ lệ trẻ tiếp tục được bú sữa mẹ đến 1 và 2 tuổi, 
không có sự khác biệt giữa hai nhóm bà mẹ. Tuy nhiên ở 
tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ đến 2 tuổi cao hơn ở nhóm bà mẹ 
người H’Mông 58,8%. Thực tế, chúng tôi đã được nghe 
những câu chuyện về phong tục tập quán tại địa phương 
“Phụ nữ H’Mông cho con bú sữa mẹ từ 18- 24 tháng hoặc 
lâu hơn, có khi cả hai đứa con đều bú mẹ.”. Điều này có 
thể giải thích cho tỷ lệ thực hành đúng về cho trẻ bú sữa 
mẹ cao hơn ở bà mẹ người H’Mông.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy số trẻ được ăn với khẩu 
phần từ 4 nhóm thực phẩm trở lên là rất thấp, ở người 
H’Mông tỷ lệ này chỉ đạt 12,3%. Tỷ lệ trẻ 6 - 23 tháng 
tuổi ở nhóm người H’Mông được ăn thực phẩm giàu sắt 
trong ngày (các loại thịt, nội tạng, cá tôm cua,) chỉ đạt 
40,7%. Trẻ em người H’Mông khi biết ăn cơm nhá thì 
cho ăn cơm nhá ngay, hầu hết trong bữa cơm chỉ có cơm, 
muối. Tỷ lệ hộ nghèo ở cộng đồng người H’Mông cao, số 
con trong gia đình đông vì vậy bữa ăn của trẻ không được 
quan tâm nhiều, thường trẻ sẽ tự sống, tự thích nghi. Tỷ 
lệ chung trẻ được ăn đủ 4 nhóm thực phẩm trở lên chiếm 
33,6% thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Nhung 
ở Sơn La 46,7% [2].
V. KẾT LUẬN 
Phần lớn các bà mẹ có kiến thức, thực hành đúng về 
thời gian bú sớm sau sinh, khái niệm bú sữa mẹ hoàn toàn, 
thực hành không vắt bỏ sữa non. Kiến thức đúng về thời 
gian bú sữa mẹ hoàn toàn và thời gian cai sữa chiếm tỷ 
lệ thấp hơn. Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng được bú sữa mẹ hoàn 
toàn và trẻ 6 - 23 tháng được ăn đa dạng thực phẩm chiếm 
tỷ lệ thấp. Nghiên cứu tìm ra sự khác biệt về kiến thức, 
thực hành NCBSM, cho trẻ ĂBS giữa hai nhóm bà mẹ dân 
tộc H’Mông và Thái tại hai xã Phình Sáng và Quài Cang 
thuộc huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Dinh dưỡng quốc gia (2014), Thông tin giám sát dinh dưỡng năm 2014
2. Nguyễn Thị Nhung (2015), Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại 4 xã 
đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La năm 2015, Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển, Tập 02, Số 02-
2018, tr. 58 - 64
3. Nguyễn Thị Huyền Trang và cs (2018), Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 
5 tuổi tại huyện Hoài Đức, Hà Nội năm 2018, Tạp chí Y học dự phòng, Tập 29, số 10-2019, tr.45
SỐ 4 (57) - Tháng 07-08/2020
Website: yhoccongdong.vn 95
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
4. Bộ Y tế (2019), Dự án lồng ghép và cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em ở khu vực miền núi phía Bắc.
5. Nguyễn Hợp Tấn (2015), Thực trạng phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng của bà mẹ và một số yếu 
tố liên quan tại xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng năm 2015, Tạp chí Khoa học Yersin - Chuyên đề Khoa 
học và Công nghệ, tập 5, tháng 8-2019, tr. 95 - 101.
6. Trịnh Thanh Xuân (2018), Thực trạng khẩu phần trẻ em và kiến thức thực hành chăm sóc trẻ của các bà mẹ ở 
2 xã, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, Tạp chí Dinh dưỡng và thực phẩm, Tập 15, số 1, Tháng 3- 2019.
7. World Health Organization (2020), Malnutrition, https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/
malnutrition
8. Frost MB, Forste R (2005), Maternal education and child nutritional status in Bolivia, SocSci Med. 2005, 60 
(2): 395 - 407
9. Kabubo-Mariara J, et al(2008), Determinants of Children’s Nutritional Status in Kenya: Evidence from 
Demographic and Health Surveys, J Afr Econ 2008.

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thuc_hanh_dinh_duong_cua_ba_me_dang_nuoi_con_duoi.pdf