Kiến thức, thực hành của nhân viên y tế về vô khuẩn trong khi tiêm tại trạm y tế xã/phường thành phố phủ lý tỉnh Hà Nam năm 2016
Nghiên cứu dịch tễ học mô tả kết hợp điều tra cắt
ngang được tiến hành từ 8/2016 đến 5/2017 trên 163 nhân
viên y tế (NVYT) với mục tiêu: Đánh giá kiến thức và
thực hành về tiêm an toàn của nhân viên y tế tại 21 trạm y
tế xã/phường thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Kết quả nghiên cứu cho biết tỷ lệ NVYT dùng BKT
vô khuẩn cao (>90%), tuy nhiên tỷ lệ biết việc mang găng
sạch khi tiêm mới đạt 53,4%, chỉ có 20,5% nhân viên y tế
cho rằng cần sử dụng khẩu trang trong khi tiêm hoặc khi
tiếp xúc với máu/dịch tiết.
Đối với thực hành, tỷ lệ NVYT mang găng là 88,2%;
64,6% rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước khi trước khi
chuẩn bị thuốc. Vẫn còn 27,8% không dùng xe tiêm/khay
tiêm mà cầm BKT có thuốc sang buồng bệnh để tiêm cho
người bệnh, không có bất kỳ điều dưỡng viên nào thực
hành đủ 15 tiêu chuẩn tiêm an toàn, 61,2% điều dưỡng
viên thực hành tiêm ở mức khá, 32,8% ở mức trung bình
và 5,1% ở mức kém.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thực hành của nhân viên y tế về vô khuẩn trong khi tiêm tại trạm y tế xã/phường thành phố phủ lý tỉnh Hà Nam năm 2016
SỐ 3 (44) - Tháng 05-06/2018 Website: yhoccongdong.vn 47 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÓM TẮT Nghiên cứu dịch tễ học mô tả kết hợp điều tra cắt ngang được tiến hành từ 8/2016 đến 5/2017 trên 163 nhân viên y tế (NVYT) với mục tiêu: Đánh giá kiến thức và thực hành về tiêm an toàn của nhân viên y tế tại 21 trạm y tế xã/phường thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Kết quả nghiên cứu cho biết tỷ lệ NVYT dùng BKT vô khuẩn cao (>90%), tuy nhiên tỷ lệ biết việc mang găng sạch khi tiêm mới đạt 53,4%, chỉ có 20,5% nhân viên y tế cho rằng cần sử dụng khẩu trang trong khi tiêm hoặc khi tiếp xúc với máu/dịch tiết. Đối với thực hành, tỷ lệ NVYT mang găng là 88,2%; 64,6% rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước khi trước khi chuẩn bị thuốc. Vẫn còn 27,8% không dùng xe tiêm/khay tiêm mà cầm BKT có thuốc sang buồng bệnh để tiêm cho người bệnh, không có bất kỳ điều dưỡng viên nào thực hành đủ 15 tiêu chuẩn tiêm an toàn, 61,2% điều dưỡng viên thực hành tiêm ở mức khá, 32,8% ở mức trung bình và 5,1% ở mức kém. Từ khóa: Vô khuẩn, tiêm, NVYT, trạm y tế xã/ phường, kiến thức, thực hành. SUMMARY: KNOWLEDGE, PRACTICE OF HEALTH CARE WORKERS ABOUT STERILIZATION DURING INJECTION AT COMMUNE/WARD HEALTH STATIONS IN PHU LY CITY, HA NAM PROVINCE IN 2016 The descriptive, cross-sectional study was implemented among 163 Health Care Workers (HCWs) with the aim of assessing the knowledge and practice of HCWs about sterilization during injection at 21 Commune/Ward Health Stations (CHSs) in Phu Ly city, Ha Nam Province from August 2016 to May 2017. The results showed that 90% of HCWs used sterile syringes, 53,4% of the participants knew the necessity of having clean gloves during injection, whereas only 20,5% of HCWs were aware that it was nesecessary to wear clean gloves when injecting and contacting with blood or body fluids. Regarding safe injection practice, the percentage of HCWs wearing gloves and washing hands/sterilizing hands quickly were 88,2% and 64,6% respectively. 27,8% of HCWs did not use injection trolley or medication tray while they were injecting. None conformed to all 15 principles of injection safety. 61,2% of HCWs practiced injections properly, 32,8% at an average level, 5,1% at a low level.. Keywords: Sterilization, injection, health care ưorkers, commune/ward health stations, knowledge, practice. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tiêm là một thủ thuật phổ biến trong cả 2 lĩnh vực điều trị và dự phòng. Vấn đề vô khuẩn trong khi tiêm đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm các nguy cơ lây nhiễm từ đôi bàn tay, những vật dụng không được kiểm soát để đảm bảo các mũi tiêm được thực hiện một cách an toàn. Theo khuyến cáo của WHO, mỗi cán bộ y tế cần tuân thủ rửa tay thường quy tại 5 thời điểm và phải đảm bảo 5 đúng trong quá trình sử dụng thuốc[1,2,3]. Mỗi một NVYT cần phải biết và thực hiện đúng những biện pháp thực hiện vô khuẩn trong quá trình chăm sóc người bệnh để tránh tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện. Tuy nhiên chỉ có 10,9% mũi tiêm đạt 17/17 tiêu chí đánh giá, 43,9% không rửa tay trước khi tiêm[5]. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu: Đánh giá kiến thức và KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ VỀ VÔ KHUẨN TRONG KHI TIÊM TẠI TRẠM Y TẾ XÃ/PHƯỜNG THÀNH PHỐ PHỦ LÝ TỈNH HÀ NAM NĂM 2016 Ngô Thị Nhu1, Đặng Thị Ngọc Anh1, Chu Thị Hồng Huế2 Ngày nhận bài: 22/03/2018 Ngày phản biện: 30/03/2018 Ngày duyệt đăng: 07/04/2018 1. Trường Đại học Y Dược Thái Bình 2. Trường Cao đẳng Y tế Hà Nam SỐ 3 (44) - Tháng 05-06/2018 Website: yhoccongdong.vn48 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 thực hành về vô khuẩn trong khi tiêm của nhân viên y tế tại 21 trạm y tế xã/phường thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam năm 2016. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Địa điểm, đối tượng và thời gian nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu được chọn là 21 trạm y tế xã/ phường: 11 trạm y tế xã, 10 trạm y tế phường thuộc trung tâm y tế thành phố Phủ Lý. - Đối tượng nghiên cứu là NVYT trực tiếp tham gia các mũi tiêm. - Thời gian nghiên cứu từ 8/2016 đến tháng 5/2017. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu dịch tễ học dựa trên cuộc điều tra cắt ngang. 2.2.2. Kỹ thuật chọn mẫu và cỡ mẫu * Chọn mẫu: Chọn NVYT trực tiếp tham gia các mũi tiêm hàng ngày * Cỡ mẫu: 88 NVYT (Bác sĩ, dược sĩ là đối tượng tham gia gián tiếp. Y sĩ, điều dưỡng, nữ hộ sinh là ba đối tượng trực tiếp tham gia các mũi tiêm hàng ngày. Vì vậy cỡ mẫu cho phỏng vấn kiến thức về TAT = 107 - (10 +9) = 88 NVYT). 2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu - Phỏng vấn kiến thức của NVYT về TAT theo bảng câu hỏi đã chuẩn bị trước. - Quan sát trực tiếp NVYT thực hiện các quy trình tiêm chủng hoặc quy trình tiêm thuốc điều trị trên người bệnh bằng bảng kiểm được thiết kế và chuẩn bị sẵn. 2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu Nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS 17.0 để phân tích số liệu, các kết quả được trình bày theo số lượng và tỷ lệ phần trăm. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1. Kiến thức về vô khuẩn khi tiêm Kiến thức SL Tỷ lệ (%) Dùng BKT vô khuẩn 80 90,9 Không tái sử dụng bơm tiêm 86 97,7 Không sử dụng bơm kim tiêm quá hạn 84 95,4 Cần thiết phải sử dụng xe tiêm, khay tiêm 50 56,8 Hấp sấy dụng cụ tiêm hàng ngày 69 78,4 Rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị dụng cụ 64 72,7 Rửa tay/sát khuẩn nhanh trước khi tiêm 70 79,5 Mang găng sạch 47 53,4 Mang khẩu trang 8 20,5 Kết quả ở bảng 1 cho thấy các kiến thức về vô khuẩn đã được NVYT quan tâm, các tiêu chí không sử dụng bơm kim tiêm quá hạn, không tái sử dụng bơm tiêm, dùng BKT vô khuẩn được NVYT chú trọng (>90%), tuy nhiên kiến thức về phòng hộ cá nhân không cao, việc mang găng sạch khi tiêm tỷ lệ biết mới đạt 53,4%, đa số cho rằng không cần mang khẩu trang khi tiêm, số mang khẩu trang chỉ chiếm 20,5%. Bảng 2. Kiến thức của nhân viên y tế về đảm bảo an toàn cho người bệnh Nội dung SL Tỷ lệ (%) Pha thuốc nơi sạch 50 56,8 Không lấy sẵn thuốc vào BKT 48 54,5 Không dùng kim lấy thuốc cho nhiều lọ khác nhau 65 73,9 Mang đủ cơ số hộp chống sốc khi tiêm 80 90,9 SỐ 3 (44) - Tháng 05-06/2018 Website: yhoccongdong.vn 49 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Kết quả bảng 2 cho thấy, 90,9% NVYT biết mang đủ cơ số hộp chống sốc, 73,9% NVYT biết không dùng kim lấy thuốc cho nhiều lọ khác nhau, tuy nhiên vẫn có một số tiêu chí pha thuốc nơi sạch, không lấy sẵn thuốc vào BKT tỷ lệ trả lời thấp (55%). Kết quả bảng 3 cho thấy, 100% số mũi tiêm đều sử dụng BKT vô khuẩn để tiêm cho người bệnh, 72,2% sử dụng xe tiêm/khay tiêm khi đi tiêm. Không có bất kỳ mũi tiêm nào được sử dụng bộ dụng cụ tiêm được hấp sấy hàng ngày. Mang găng khi tiêm (88,2%), tính trên tổng số mũi tiêm (144), nhiều NVYT rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị thuốc (64,6%) và trước khi đưa kim qua da (47,9%). Kết quả bảng 4 cho thấy 100% số mũi tiêm đã thực hiện theo đúng chỉ định tiêm (5 đúng). Tuy nhiên, vẫn còn 16,7% số mũi tiêm không có hộp chống sốc phản vệ đi kèm hoặc mang hộp chống sốc nhưng không đủ cơ số theo quy định, 29,9% số mũi tiêm đã được lấy sẵn thuốc vào bơm tiêm rồi mang đi tiêm lần lượt cho người bệnh, 3,5% dùng chung một bơm kim tiêm cho nhiều mũi tiêm trên cùng một người bệnh. Đặc biệt, có tới 23,6% có kim lấy thuốc trên lọ thuốc để sử dụng nhiều lần. Bảng 3. Thực hành vô khuẩn trong tiêm (n=144) Cách xử trí SL Tỷ lệ (%) Dùng bơm kim tiêm vô khuẩn 144 100 Có sử dụng xe tiêm, khay tiêm 104 72,2 Sử dụng bộ dụng cụ hấp sấy hàng ngày 0 - Rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị thuốc 93 64,6 Rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi tiêm 69 47,9 Mang găng khi tiêm. 127 88,2 Bảng 4. Thực hành tiêm đảm bảo an toàn cho người bệnh (n=144) Thực hành SL (%) Tiêm thuốc đúng chỉ định 144 100 Mang hộp chống sốc phản vệ đủ cơ số khi đi tiêm 120 83,3 Không lưu kim lấy thuốc trên lọ thuốc để sử dụng nhiều lần 110 76,4 Không lấy sẵn một loạt thuốc rồi tiêm lần lượt cho NB 101 70,1 Không dùng chung một BKT cho nhiều mũi tiêm trên một NB 139 96,5 Biểu đồ 1. Quan sát thực hành kỹ thuật tiêm (n=144) SỐ 3 (44) - Tháng 05-06/2018 Website: yhoccongdong.vn50 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 Kết quả quan sát thực hành kỹ thuật tiêm của NVYT cho thấy, trong số 4 kỹ thuật tiêm, hai kỹ thuật thực hành đúng là tiêm đúng góc kim so với mặt da và tiêm đúng độ sâu đạt tỷ lệ cao (92,4% và 78,5%). Trong khi đó chỉ có 59,0% có rút pit tông kiểm tra trước khi bơm thuốc, 73,6% bơm thuốc đảm bảo 2 nhanh 1 chậm. Khi sử dụng 144 bảng kiểm để đánh giá kỹ năng thực hành các mũi tiêm của NVYT, kết quả tổng hợp cho thấy: Không có mũi tiêm nào đạt đủ 15 tiêu chí vì vậy không có mũi tiêm nào đạt 100 điểm, chỉ có 2 mũi tiêm đạt 76-99 điểm (1,4%), đa số đạt 51-75 điểm chỉ được xếp vào loại trung bình (52,1%) số mũi tiêm xếp loại kém <50 điểm chiếm tỷ lệ khá cao (46,5%). IV. BÀN LUẬN 4.1. Kiến thức của nhân viên y tế về vô khuẩn khi tiêm Kết quả ở bảng 1 cho thấy các kiến thức về vô khuẩn đã được NVYT quan tâm, các tiêu chí không sử dụng bơm kim tiêm quá hạn, không tái sử dụng bơm tiêm, dùng BKT vô khuẩn được NVYT chú trọng (>90%), tuy nhiên kiến thức về phòng ngừa chuẩn không cao, việc mang găng sạch khi tiêm tỷ lệ biết mới đạt 53,4%, đa số cho rằng không cần mang khẩu trang khi tiêm, số mang khẩu trang chỉ chiếm 20,5%. So với nghiên cứu của Lê Thị Thúy Nhàn có 73,0% biết vấn đề mang khẩu trang là một trong những biện pháp vô khuẩn trong tiêm, các biện pháp khác đại đa số các điều dưỡng viên đều biết đến (dao động từ 93,0% đến 100,0%) [4]. Đặc biệt, đa số điều dưỡng viên đều biết rằng cần rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị dụng cụ tiêm, trước khi đâm kim qua da người bệnh và sau mỗi mũi tiêm. Bộ Y tế đã đưa ra các quy định phải rửa tay hoặc sát khuẩn nhanh trước khi chuẩn bị dụng cụ, trước khi tiêm, phải sử dụng xe tiêm khi đi tiêm, phải vệ sinh xe tiêm trước và sau khi tiêm, phải sử dụng khay tiêm. Trong nghiêm cứu của chúng tôi tỷ lệ NVYT biết cần phải rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị dụng cụ, trước khi tiêm thuốc >69,3%. Việc cần thiết phải sử dụng xe tiêm, khay tiêm và vệ sinh xe tỷ lệ biết thấp hơn khoảng 56,8%. 4.2.Thực hành của nhân viên y tế về vô khuẩn khi tiêm Kết quả bảng 3 cho thấy, 100% số mũi tiêm đều sử dụng BKT vô khuẩn để tiêm cho người bệnh, 72,2% sử dụng xe tiêm/khay tiêm khi đi tiêm. Nhiều NVYT mang găng khi tiêm (88,2%). Không có bất kỳ mũi tiêm nào được sử dụng bộ dụng cụ tiêm được hấp sấy hàng ngày, như vậy điều này sẽ ảnh hưởng đến người bệnh, đến cán bộ y tế và có thể dẫn đến tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện. Theo khuyến cáo của WHO, mỗi cán bộ y tế cần tuân thủ rửa tay thường quy tại 5 thời điểm [3]. Trong thực hành tiêm nhân viên y tế phải rửa tay trước khi chuẩn bị dụng cụ, sau khi tiêm, còn trước khi chuẩn bị thuốc, trước khi đâm kim tiêm qua da người bệnh, sau mỗi mũi tiêm thì cán bộ y tế có thể sát khuẩn tay nhanh thay cho rửa tay thường quy. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy số NVYT được quan sát thực hiện rửa tay/ sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị thuốc, trước khi đâm kim qua da người bệnh (64,6% và 47,9%). Kết quả về thực hành rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trong tiêm an toàn trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn với nghiên cứu của Hà Thị Kim Phượng với tỷ lệ khá cao NVYT không thực hành rửa tay/sát khuẩn tay nhanh (72% và 94% NVYT không rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị thuốc, trước khi đưa kim qua da theo thứ tự) [6]. Theo hướng dẫn của WHO, trong khi sử dụng thuốc phải đảm bảo đúng người bệnh, đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng đường dùng và đúng thời gian (5 đúng) [1, 2]. Kết quả quan sát cho thấy 100% mũi tiêm được dùng đúng chỉ định. Tuy nhiên, vẫn còn 16,7% số mũi tiêm không có hộp chống sốc phản vệ đi kèm hoặc mang hộp chống sốc nhưng không đủ cơ số theo quy định, 29,9% Bảng 5. Đánh giá thực hành tiêm an toàn của nhân viên y tế (n=144) Điểm đạt Xếp loại Số lượng Tỷ lệ (%) < 50 điểm Kém 67 46,5 51 - 75 điểm Trung bình 75 52,1 76 - 99 điểm Khá 2 1,4 100 điểm Tốt 0 - SỐ 3 (44) - Tháng 05-06/2018 Website: yhoccongdong.vn 51 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC số mũi tiêm đã được lấy sẵn thuốc vào bơm tiêm rồi mang đi tiêm lần lượt cho người bệnh, 3,5% dùng chung một bơm kim tiêm cho nhiều mũi tiêm trên cùng một người bệnh. Đặc biệt, có tới 23,6% có kim lấy thuốc trên lọ thuốc để sử dụng nhiều lần. Kết quả quan sát thực hành kỹ thuật tiêm của 144 mũi tiêm cho thấy, trong số 4 kỹ thuật tiêm, hai kỹ thuật có tỷ lệ cao, thực hành đúng là tiêm đúng góc kim so với mặt da và tiêm đúng độ sâu (92,4% và 78,5%). Trong khi đó chỉ có 59% thực hiện rút pit tông kiểm tra trước khi bơm thuốc, 73,6% thực hiện bơm thuốc đảm bảo 2 nhanh 1 chậm. Kết quả đánh giá toàn bộ quá trình thực hành tiêm cho thấy, tỷ lệ các mũi tiêm điểm <50 ở mức kém vẫn còn 67/144 mũi tiêm, đa số các mũi tiêm mới chỉ ở mức trung bình với điểm thực hành tiêm 51 - 75 điểm chiếm 75/144 mũi tiêm. Không có bất kỳ NVYT nào đạt 100 điểm do không có mũi tiêm nào có bộ dụng cụ hấp sấy hàng ngày. V. KẾT LUẬN - Tỷ lệ NVYT biết không sử dụng bơm kim tiêm quá hạn, không tái sử dụng bơm tiêm, dùng BKT vô khuẩn cao (>90%), tuy nhiên kiến thức về phòng hộ cá nhân không cao, tỷ lệ biết việc mang găng sạch khi tiêm mới đạt 53,4%, chỉ có 20,5% nhân viên y tế cho rằng cần sử dụng khẩu trang trong khi tiêm hoặc khi tiếp xúc với máu/ dịch tiết. Việc pha thuốc nơi sạch, không lấy sẵn thuốc vào BKT tỷ lệ trả lời thấp (55%). - Không có nhân viên y tế nào sử dụng bộ dụng cụ hấp sấy hàng ngày. 88,2% nhân viên y tế mang găng, 64,6% rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước khi trước khi chuẩn bị thuốc. Vẫn còn 27,8% không dùng xe tiêm/khay tiêm mà cầm BKT có thuốc sang buồng bệnh để tiêm cho người bệnh. - Không có bất kỳ điều dưỡng viên nào thực hành đủ 15 tiêu chuẩn tiêm an toàn, 61,2% điều dưỡng viên thực hành tiêm ở mức khá, 32,8% ở mức trung bình và 5,1% ở mức kém. 1. Bộ Y tế (2005), Tài liệu tập huấn sử dụng thuốc hợp lý trong chăm sóc người bệnh, Hà Nội, 2005. 2. Bộ Y tế (2011), Thông tư Hướng dẫn công tác Điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện, số 07/2011/TT-BYT, ngày 26/01/2011. 3. Cục Quản lý Khám chữa bệnh (2010), Chương trình đào tạo liên tục an toàn người bệnh, tháng 2/2014. 4. Lê Thị Thúy Nhàn (2012), Thực trạng nguồn lực, kiến thức, thái độ, thực hành tiêm an toàn, Luận văn thạc sỹ y tế công cộng, trường Đại học Y Thái Bình. 5. Triệu Quốc Nhượng (2014),“Đánh giá thực trạng tiêm an toàn”, Bệnh viện Sản Nhi Cà Mau. 6. Hà Thị Kim Phượng (2014), Thực trạng tiêm an toàn tại 3 bệnh viện trực thuộc Sở Y tế Hà Nội. Luận văn thạc sỹ y tế công cộng, trường Đại học Y tế Công cộng. TÀI LIỆU THAM KHẢO
File đính kèm:
kien_thuc_thuc_hanh_cua_nhan_vien_y_te_ve_vo_khuan_trong_khi.pdf

