Kiến thức, thái độ và thực hành phòng ngừa COVID-19 của người bệnh tại Bệnh viện quận 2, TP. Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Đại địch do chủng mới Coronavirus (COVID-19) đã gây ảnh hưởng lớn đến kinh tế xã hội và

đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cũng như vắc xin phòng ngừa. Do đó, nghiên cứu nhằm đánh giá tỷ lệ

kiến thức, thái độ và thực hành phòng ngừa COVID-19 của người bệnh tại bệnh viện Quận 2 là cần thiết.

Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 351 người bệnh tại bệnh viện Quận 2 thực

hiện từ tháng 2/2020 đến tháng 4/2020, số liệu được thu thập bằng cách phỏng vấn dựa vào bộ câu hỏi soạn sẵn

và quan sát rửa tay.

Kết quả: Tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng là 79,2%, 70,7% và 76,1%, trong đó thời gian rửa tay

≥20 giây chỉ đạt 36,8%. Thực hành có mối liên quan với kiến thức (PR 1,5 KTC 95%: 1,2-1,8) và thái độ (PR 1,3

KTC 95%: 1,1-1,6). Hầu hết người bệnh biết đại dịch COVID-19 (91,7%), chủ yếu từ tivi và mạng xã hội

(60,5% và 60,5%).

Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người bệnh có kiến thức, thái độ và thực hành đúng về phòng ngừa

COVID-19 còn thấp. Chương trình truyền thông giáo dục sức khỏe cần tiếp tục thực hiện thông qua tivi và

mạng xã hội trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo thời gian rửa tay tối thiểu 20 giây.

pdf 8 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thái độ và thực hành phòng ngừa COVID-19 của người bệnh tại Bệnh viện quận 2, TP. Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ và thực hành phòng ngừa COVID-19 của người bệnh tại Bệnh viện quận 2, TP. Hồ Chí Minh

Kiến thức, thái độ và thực hành phòng ngừa COVID-19 của người bệnh tại Bệnh viện quận 2, TP. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 103 
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH PHÒNG NGỪA COVID-19 
CỦA NGƯỜI BỆNH TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 2, TP. HỒ CHÍ MINH 
Huỳnh Giao1, Nguyễn Đăng Dung1, Nguyễn Thị Ngọc Hân2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đại địch do chủng mới Coronavirus (COVID-19) đã gây ảnh hưởng lớn đến kinh tế xã hội và 
đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cũng như vắc xin phòng ngừa. Do đó, nghiên cứu nhằm đánh giá tỷ lệ 
kiến thức, thái độ và thực hành phòng ngừa COVID-19 của người bệnh tại bệnh viện Quận 2 là cần thiết. 
Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 351 người bệnh tại bệnh viện Quận 2 thực 
hiện từ tháng 2/2020 đến tháng 4/2020, số liệu được thu thập bằng cách phỏng vấn dựa vào bộ câu hỏi soạn sẵn 
và quan sát rửa tay. 
Kết quả: Tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng là 79,2%, 70,7% và 76,1%, trong đó thời gian rửa tay 
≥20 giây chỉ đạt 36,8%. Thực hành có mối liên quan với kiến thức (PR 1,5 KTC 95%: 1,2-1,8) và thái độ (PR 1,3 
KTC 95%: 1,1-1,6). Hầu hết người bệnh biết đại dịch COVID-19 (91,7%), chủ yếu từ tivi và mạng xã hội 
(60,5% và 60,5%). 
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người bệnh có kiến thức, thái độ và thực hành đúng về phòng ngừa 
COVID-19 còn thấp. Chương trình truyền thông giáo dục sức khỏe cần tiếp tục thực hiện thông qua tivi và 
mạng xã hội trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo thời gian rửa tay tối thiểu 20 giây. 
Từ khoá: kiến thức, thái độ, thực hành, COVID-19 
ABSTRACT 
KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PREVENTIVE PRACTICE TOWARD COVID-19 AMONG PATIENTS 
AT DISTRICT 2 HOSPITAL, HO CHI MINH CITY 
Huynh Giao, Nguyen Dang Dung, Nguyen Thi Ngoc Han 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 103 - 110 
Background: COVID-19 pandemic has influenced the economy and society and there are no specific 
treatments as well as vaccines so that complying with preventive practice COVID-19 is necessary. This study 
aims to assess the knowledge, attitude, and preventive practice toward COVID-19 among outpatients at District 
2 Hospital, Ho Chi Minh City. 
Methods: A cross-sectional study was carried out between February and April 2020. Data were collected by 
interviewing of a structured questionnaire and observed the timescale for washing hands. 
Results: the rate of sufficient knowledge, positive attitude, and good practices was 79.2%, 70.7%, and 
76.1%, respectively, the timescale for washing hands ≥20s was only 36.8%. Most of them reported seeing 
information regarding the COVID-19 pandemic (91.7%) via mainly television and social media (60.5% and 
60.5%). The good practice was associated with knowledge and attitude (PR 1.5 95% CI: 1.2-1.8, PR 1.3 95% CI: 
1.1-1.6, respectively, all p <0.05). 
Conclusion: There still exists an amount of insufficient knowledge, attitude, and practice in outpatients at 
District 2 hospital. Interventions should be continued via television and social media and emphasize the timescale 
for washing hands at least 20 seconds. 
Keywords: knowledge, attitude, practice, COVID-19 
1Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh - Cơ sở 2 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Huỳnh Giao ĐT: 0908608338 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 104 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vi rút Corona là một họ vi rút lớn gây bệnh 
từ cảm lạnh thông thường đến bệnh nặng, đe 
dọa tính mạng của người bệnh được biết đến 
như Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS-
CoV) năm 2002 và Hội chứng hô hấp Trung 
Đông (MERS-CoV) năm 2012. Từ cuối tháng 12 
năm 2019, một chủng vi rút Corona mới (nCoV) 
gây viêm phổi được phát hiện đầu tiên tại Vũ 
Hán (Trung Quốc) và sau đó Tổ chức Y tế Thế 
giới (WHO) công bố đại dịch COVID-19 trên 
toàn cầu trong tháng 3/2020(1,2). Tính đến ngày 
29/01/2021, COVID-19 đã ảnh hưởng đến 223 
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với số ca 
nhiễm lên đến 100.455.529 và 2.166.440 ca tử 
vong(1), trong đó Việt Nam ghi nhận 1.651 người 
bị nhiễm và 35 trường hợp tử vong(3). Tuy nhiên, 
đến thời điểm hiện tại Việt Nam được xem là 
một trong những quốc gia kiểm soát tốt đại dịch 
COVID-19(4). Theo WHO, đường lây truyền 
COVID-19 đã được biết là do tiếp xúc gần với 
dịch tiết của người nhiễm bệnh khi ho hoặc hắt 
hơi. Nghiên cứu của Koh J ghi nhận triệu chứng 
lâm sàng thường gặp của người bệnh nhập viện 
là sốt (90%), ho (58%), khó thở (25%), các triệu 
chứng đau cơ, nhức đầu, tiêu chảy, đau họng ít 
gặp hơn với tỷ lệ 7-10%(5). Tuy nhiên, WHO ghi 
nhận hơn 80% người bệnh COVID-19 có triệu 
chứng nhẹ và có thể tự hồi phục mà không cần 
điều trị, ngoại trừ người bệnh trên 60 tuổi và có 
kèm bệnh nền như tim mạch, đái tháo đường, 
béo phì có khả năng diễn tiến bệnh nặng và có 
nguy cơ tử vong cao(6). Các nghiên cứu trước đây 
ghi nhận kiến thức và thái độ có mối liên quan 
với thực hành phòng ngừa lây truyền bệnh 
SARS, MERS(7,8). Do đó, việc cung cấp kiến thức, 
nâng cao nhận thức về bệnh là cần thiết để hạn 
chế sự lây lan mầm bệnh. Gần đây, một số 
nghiên cứu đánh giá tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực 
hành (KAP) phòng ngừa COVID-19 đã được 
thực hiện tại Việt Nam. Nghiên cứu của tác giả 
Hà Văn Như và cộng sự trên người dân ghi 
nhận vẫn còn một tỷ lệ người dân có KAP chưa 
đúng trong phòng ngừa COVID-19(9). Nghiên 
cứu của chúng tôi trên đối tượng nhân viên y tế 
cho thấy tỷ lệ kiến thức về đường lây truyền, 
thời gian cách ly và điều trị chỉ từ 58,5%-67% và 
thái độ về việc bản thân và thành viên trong gia 
đình có khả năng mắc bệnh chiếm 79,8%-
82,3%(10). Trong khi đó nghiên cứu trên đối 
tượng sinh viên và bệnh nhân bệnh mãn tính ghi 
nhận chỉ 41% và 77,2% đối tượng có thực hành 
đúng, tỷ lệ tuân thủ thời gian rửa tay chỉ đạt 
40,4% -50,5%(11,12). Đại địch COVID-19 vẫn tiếp 
tục diễn tiến phức tạp và việc phòng chống sự 
bùng phát trở lại vẫn là thách thức lớn đối với 
Việt Nam. Đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có 
thuốc điều trị đặc hiệu cũng như vắc xin phòng 
ngừa COVID-19, các loại vắc xin vẫn đang được 
phát triển và trong giai đoạn thử nghiệm pha 
lâm sàng(13). Do đó, việc đánh giá kiến thức, thái 
độ và thực hành phòng ngừa COVID-19 của 
người bệnh là cần thiết nhằm đóng góp bằng 
chứng cho truyền thông giáo dục sức khỏe để 
nâng cao hiệu quả chương trình can thiệp. 
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Người bệnh đến khám tại bệnh viện Quận 2, 
Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 2/2020 đến 
tháng 4/2020. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Tất cả người bệnh đến khám tại Bệnh viện 
Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh. 
Đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Cỡ mẫu 
Áp dụng công thức ước lượng một tỷ lệ: 
 =




 (1 − )

n: cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu. 
α: xác suất sai lầm loại I (α = 0,05). 
Z: trị số từ phân phối chuẩn (Z0,95= 1,96 với 
khoảng tin cậy 95%). 
d: Sai số cho phép (d = 0,05). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 105 
p: dựa vào nghiên cứu trước đây của chúng 
tôi đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành về 
COVID-19 trên bệnh nhân mãn tính tại Thành 
phố Hồ Chí Minh (2020)(11). 
Tỷ lệ kiến thức đúng: p1=0,684 với d=0,05 => 
n1 = 333. 
Tỷ lệ thái độ tích cực: p2= 0,908 với d=0,05 => 
n2 = 129. 
Tỷ lệ thực hành đúng: p3= 0,772 với d = 0,05 
=> n3 = 271. 
Cỡ mẫu tối thiểu cần cho nghiên cứu là 333. 
Kĩ thuật chọn mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện. 
Thu thập số liệu 
Phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi được 
thiết kế dựa trên hướng dẫn của WHO và 
nghiên cứu của chúng tôi đánh giá kiến thức, 
thái độ của nhân viên y tế về COVID-19(1,10) và 
quan sát thời gian rửa tay. Bộ câu hỏi được 
nghiên cứu thử trên 10 người bệnh tại bệnh viện 
Quận 2 để hiệu chỉnh cho phù hợp. Bộ câu hỏi 
gồm 3 phần: 
Phần 1: bao gồm các câu hỏi về đặc điểm dân 
số – xã hội của đối tượng nghiên cứu như tuổi, 
giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nguồn 
thông tin về COVID-19, loại khẩu trang, số 
lượng trung bình khẩu trang/ngày. 
Phần 2: đánh giá kiến thức và thái độ bao 
gồm 9 câu hỏi về kiến thức COVID-19, và 6 câu 
hỏi thái độ đối với COVID-19 sử dụng thang đo 
Likert 5 mức độ từ hoàn toàn đồng ý đến hoàn 
toàn không đồng ý. 
Phần 3: đánh giá thực hành, người bệnh trả 
lời 2 câu hỏi “luôn mang khẩu trang khi đến chỗ 
đông người” và “thường xuyên rửa tay bằng xà 
phòng hoặc dung dịch rửa tay nhanh có cồn”. 
Ngoài ra, người bệnh thực hiện rửa tay và 
nghiên cứu viên ghi nhận thời gian. 
Định nghĩa các biến số 
Mỗi câu hỏi kiến thức được đánh giá đúng 
và không đúng, ứng với mỗi câu trả lời đúng 
được 1 điểm và không đúng 0 điểm, điểm kiến 
thức chung được ghi nhận từ 0 (không có câu 
trả lời đúng) đến 9 (tất cả các câu đều trả lời 
đúng) và điểm cắt ≥6 được xem là có kiến thức 
đúng(14). Đánh giá thái độ, mỗi câu trả lời hoàn 
toàn đồng ý và đồng ý được cho 1 điểm, điểm 
cắt ≥4 được xem là thái độ chung tích cực(14). 
Đánh giá thực hành ứng với mỗi câu trả lời 
đúng được 1 điểm và không đúng là 0 điểm, 
thời gian rửa tay đúng là ≥20 giây, điểm cắt ≥2 
được xem là thực hành đúng(14). 
Xử lý số liệu 
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, phân 
tích số liệu bằng phần mềm Stata 14. Thống kê 
mô tả tính tần số và tỷ lệ các biến số đặc điểm 
dịch tễ học, kiến thức đúng, thái độ tích cực, và 
thực hành đúng. Sử dụng phép kiểm Chi bình 
phương để xác định mối liên quan giữa thực 
hành phòng ngừa COVID-19 với đặc điểm dân 
số xã hội, kiến thức chung đúng và thái độ 
chung tích cực về COVID-19. Phân tích đa biến 
được thực hiện bằng mô hình hồi quy Poisson 
đưa vào những biến số sinh học và biến số tiềm 
năng (p <0,2). Mức độ mối liên quan được tính 
bằng tỷ số tỷ lệ hiện mắc PR (Prevalence ratio) 
với khoảng tin cậy (KTC) 95%, p <0,05 được xác 
định có ý nghĩa thống kê. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM số 192/HĐĐĐ, ngày 
26/02/2020. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm dân số-xã hội của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1: Đặc điểm dân số - xã hội của đối tượng 
nghiên cứu (n=351) 
Đặc điểm n (%) 
Nhóm tuổi (<60) 296(84,3) 
Giới tính (Nam) 159 (45,3) 
Trình độ học vấn 
Tiểu học 67 (19,1) 
Trung học cơ sở 81 (23,1) 
≥ Trung học phổ thông 203 (57,8) 
Nghề nghiệp 
Nhân viên văn phòng 130(37,1) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 106 
Đặc điểm n (%) 
Công nhân 116(33,1) 
Nội trợ 73(20,8) 
Nghỉ hưu/ mất khả năng lao động 32(9,0) 
Biết COVID-19 đang xảy ra trên toàn cầu (Có) 322 (91,7) 
Nguồn thông tin về COVID-19 (Có) 
Tivi 211 (60,5) 
Mạng xã hội 211 (60,5) 
Trang web bệnh viện, BYT 122 (34,9) 
Bạn bè, người thân 104 (29,8) 
Mang khẩu trang (Có) 345(98,3) 
Số lượng khẩu trang sử dụng/ ngày 
1 khẩu trang 154 (44,6) 
2 – 3 khẩu trang 140 (40,6) 
≥ 4 khẩu trang 51 (14,8) 
Nghiên cứu ghi nhận đa số đối tượng nghiên 
cứu dưới 60 tuổi (84,3%) trong đó giới nữ 
(54,7%), trình độ học vấn trên trung học phổ 
thông (57,8%), nhân viên văn phòng (37,1%) 
chiếm đa số. Hầu hết đối tượng nghiên cứu biết 
về đại dịch COVID-19 đang xảy ra trên toàn cầu 
(91,7%) trong đó nguồn thông tin từ tivi và 
mạng xã hội được tiếp cận cao nhất chiếm 60,5%. 
Đa số đối tượng nghiên cứu sử dụng 1-3 khẩu 
trang/ngày chiếm 85,2%. 
Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng ngừa 
COVID-19 
Kết quả nghiên cứu ở Bảng 2 ghi nhận đa số 
đối tượng nghiên cứu có kiến thức đúng về 
COVID-19 với tỷ lệ từ 40,2% đến 90,3% và kiến 
thức chung đúng chiếm 79,2% trong đó kiến 
thức thấp nhất về thời gian cách ly tối thiếu 2 
tuần đối với người mắc COVID-19 chiếm 49,3% 
và kháng sinh là không phải là thuốc điều trị đặc 
hiệu chỉ 40,2%. Thái độ về bản thân và thành 
viên trong gia đình có khả năng mắc bệnh chiếm 
tỷ lệ thấp là 67,8% và 65,2%, các nội dung còn lại 
đều có thái độ tốt từ 90,1% và thái độ chung 
chiếm 70,7%. Về thực hành phòng ngừa COVID-
19 ghi nhận chỉ 36,8% người bệnh có thời gian 
rửa tay ≥20 giây và thực hành chung là 76,1%. 
Các yếu tố liên quan đến thực hành phòng 
ngừa COVID-19 
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 
kiến thức chung đúng, thái độ tích cực với thực 
hành phòng ngừa COVID-19, với p <0,05. Theo 
đó người bệnh có kiến thức đúng và thái độ tích 
cực thì có thực hành đúng gấp 1,6 và 1,4 lần so 
với người bệnh có kiến thức chưa đúng và thái 
độ chưa tích cực (PR 1,6 KTC 95%: 1,26-1,98 và 
PR 1,4 KTC 95% 1,21-1,70) (Bảng 3). 
Bảng 2: Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng ngừa COVID-19 (n=351) 
Nội dung n (%) 
Kiến thức về COVID-19 
Kháng sinh là thuốc điều trị đặc hiệu (Không) 141 (40,2) 
Người mắc COVID-19 cần phải cách ly tối thiểu 2 tuần (Có) 173 (49,3) 
Rửa tay, mang khẩu trang, hạn chế đến nơi đông người là những biện pháp phòng ngừa (Có) 202 (57,6) 
Ho, sốt, đau họng và khó thở là những triệu chứng thường gặp của bệnh (Có) 208 (59,3) 
Bệnh nhân đang mắc bệnh mãn tính có nguy cơ cao mắc COVID-19 (Có) 214 (60,9) 
Hiện đã có vắc xin phòng ngừa (Không) 245 (69,8) 
COVID-19 là bệnh do virus gây ra (Có) 278 (79,2) 
COVID-19 có thể dẫn đến tử vong (Có) 311 (88,6) 
Lây truyền do tiếp xúc chất tiết của người bệnh COVID-19 (Có) 317 (90,3) 
Kiến thức chung (đúng) 278 (79,2) 
Thái độ về COVID-19 
Thành viên trong gia đình có thể mắc bệnh (Có) 229 (65,2) 
Bản thân có thể mắc bệnh (Có) 238 (67,8) 
Tiêm ngừa vắc xin COVID-19 để phòng bệnh (nếu có) (Có) 318 (90,1) 
Phòng lây truyền COVID-19 bằng cách rửa tay, mang khẩu trang, hạn chế đến nơi đông người (Có) 322 (91,7) 
Chấp nhận cách ly ở cơ sở y tế nếu bản thân bị nghi ngờ/ nhiễm COVID-19 (Có) 331 (94,3) 
Người được chẩn đoán COVID-19 nên được cách ly tại cơ sở y tế (Có) 333 (94,9) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 107 
Nội dung n (%) 
Thái độ chung (tích cực) 248 (70,7) 
Thực hành về COVID-19 
Thời gian rửa tay ≥ 20 giây (Có) 129 (36,8) 
Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng hoặc dung dịch rửa tay nhanh sau khi tiếp xúc bề mặt nơi công cộng 
(nút bấm thang máy, khóa cửa) (Có) 
260 (74,1) 
Luôn mang khẩu trang khi đi đến chỗ đông người (Có) 282 (80,3) 
Thực hành chung (đúng) 267 (76,1) 
Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến thực hành phòng ngừa COVID-19 (n=351) 
Đặc điểm 
Thực hành 
p* 
PR 
(KTC 95%) Đúng n (%) Không đúng n (%) 
Nhóm tuổi 
<60 228(77,1) 68(22,9) 
0,329 0,9(0,77-1,10) 
≥60 39(70,9) 16(29,1) 
Giới tính 
Nam 117 (73,6) 42 (26,4) 
0,321 1,1(0,94-1,19) 
 Nữ 150 (78,1) 42 (26,4) 
Trình độ học vấn 
Tiểu học 46 (68,7) 21 (31,3) 
0,086 
1 
Trung học cơ sở 58 (71,6) 23 (28,4) 1,1(0,84-1,29) 
≥Trung học phổ thông 163 (80,3) 40 (19,7) 1,2(0,58-0,81) 
Nghề nghiệp 
Công nhân 91(78,5) 25(21,5) 
0,409 
1 
Nhân viên văn phòng 97(74,6) 33(25,4) 0,9(0,83-1,09) 
Nội trợ 58(79,5) 15(20,5) 1,0(0,87-1,18) 
Nghỉ hưu/mất khả năng lao động 21(65,6) 11(34,4) 0,8(0,64-1,09) 
Kiến thức 
Đúng 229 (82,4) 49 (17,6) 
<0,001 
1,6 (1,26-1,98) 
Chưa đúng 38 (52,1) 35 (47,9) 
Thái độ 
Tích cực 207 (83,5) 41 (16,5) 
<0,001 
1,4 (1,21-1,70) 
Chưa tích cực 60 (58,3) 43 (41,7) 
*Kiểm định Chi bình phương 
Bảng 4: Mô hình đa biến các yếu tố liên quan đến thực hành phòng ngừa COVID-19 (n=351) 
Đặc điểm 
Thực hành 
p** 
PR 
(KTC 95%) Đúng n (%) Không đúng n (%) 
Trình độ học vấn 
Tiểu học 46 (68,7) 21 (31,3) 1 
Trung học cơ sở 58 (71,6) 23 (28,4) 0,510 1,1(0,8-1,3) 
≥Trung học phổ thông 163 (80,3) 40 (19,7) 0,426 1,1(0,9-1,2) 
Kiến thức 
Đúng 229 (82,4) 49 (17,6) 0,002 1,5(1,2-1,8) 
Chưa đúng 38 (52,1) 35 (47,9) 
Thái độ 
Tích cực 207 (83,5) 41 (16,5) 0,001 1,3(1,1-1,6) 
Chưa tích cực 60 (58,3) 43 (41,7) 
**Hồi quy Poisson 
Phân tích đa biến cho thấy có mối liên quan 
có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức chung đúng 
và thái độ tích cực với thực hành phòng ngừa 
COVID-19. Cụ thể những người bệnh có kiến 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 108 
thức chung đúng có thực hành đúng gấp 1,5 lần 
so với những người bệnh có kiến thức chưa 
đúng (PR 1,5 KTC 95%: 1,2-1,8, p <0,05). Người 
bệnh có thái độ tích cực thì có thực hành đúng 
gấp 1,3 lần người bệnh có thái độ chưa tích cực 
(PR 1,3 KTC 95%: 1,1-1,6, p <0,05) (Bảng 4). 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu đã đánh giá kiến thức thái độ 
thực hành phòng ngừa COVID-19 trên người 
bệnh đến khám tại bệnh viện Quận 2 trong giai 
đoạn đầu của đại dịch COVID-19 trước khi thực 
hiện giãn cách xã hội theo chỉ thị 16 của Thủ 
tướng chính phủ. Đến thời điểm hiện tại, 
COVID-19 vẫn đang là mối đe dọa sức khỏe toàn 
thế giới do đó việc phòng ngừa bằng cách nâng 
cao kiến thức thái độ và thực hành phòng ngừa 
về COVID-19 là cần thiết. Nghiên cứu ghi nhận 
đa số đối tượng nghiên cứu dưới 60 tuổi (84,3%), 
giới nữ (54,7%), trình độ học vấn trên trung học 
phổ thông (57,8%). Hầu hết đối tượng nghiên 
cứu đều biết thông tin về đại dịch COVID-19 
đang xảy ra trên toàn cầu (91,7%). Kết quả này 
tương đồng với nghiên cứu của Melesie G trên 
bệnh nhân ghi nhận tuổi trung bình của đối 
tượng nghiên cứu là 44,6 ± 9,84, trong đó giới nữ 
chiếm 44,4%(15). Nguồn thông tin về COVID-19 
được ghi nhận đa số từ tivi, mạng xã hội chiếm 
60,5%, trong khi đó chỉ có 34,9% người bệnh biết 
thông tin từ trang web bệnh viện, Bộ y tế. Kết 
quả này cũng được tìm thấy trong nghiên cứu 
trước đây của chúng tôi và nghiên cứu của Khan 
MU(10,16). Nghiên cứu gần đây của Trần Xuân 
Bách cũng ghi nhận nguồn thông tin chính mà 
đối tượng nghiên cứu cập nhật kiến thức liên 
quan đến phòng chống dịch bệnh là internet và 
mạng xã hội (52,4%), chương trình đào tạo (51%) 
và người thân (50,4%). Ít phổ biến nhất là hướng 
dẫn tại khu phố (46,9%), đào tạo tại nơi làm việc 
(46,6%) và ghi nhận không có sự khác biệt giữa 
khả năng tiếp cận nguồn thông tin giữa nông 
thôn và thành thị(17). Kết quả cho thấy cần đẩy 
mạnh truyền thông qua trang web bệnh viện, Bộ 
Y tế là những kênh thông tin chính thống để cập 
nhật những tin tức mới nhất về phòng ngừa 
COVID-19. Nghiên cứu cho thấy chỉ 79,2% 
người bệnh có kiến thức đúng về COVID-19 
trong đó chỉ 40,2% biết được kháng sinh không 
phải là thuốc điều trị đặc hiệu cũng như chỉ 
49,3% biết được người mắc COVID-19 cần cách 
ly tối thiểu 2 tuần. Kết quả này cũng tương đồng 
với nghiên cứu của Ferdous MZ khi ghi nhận chỉ 
48,3% đối tượng nghiên cứu có kiến thức đúng 
trong đó 91,3% đối tượng nghiên cứu biết thời 
gian ủ bệnh 2-14 ngày và điều trị COVID-19 là 
điều trị hỗ trợ (80,7%), trong khi đó vẫn tồn tại tỷ 
lệ 18,3% đối tượng nghiên cứu không biết về 
điều trị COVID-19(18). Kết quả này có thể là do 
nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trong giai 
đoạn đầu của COVID-19 tại Thành phố Hồ Chí 
Minh nên số ca nhiễm trong cộng đồng chưa cao 
do đó người bệnh có thể chưa quan tâm nhiều 
đến việc điều trị và thời gian cách ly. Nghiên 
cứu ghi nhận chỉ 59,3% và 57,6% người bệnh biết 
triệu chứng thường gặp của bệnh và cách phòng 
ngừa trong khi khuyến cáo của CDC nhấn mạnh 
tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin về vi 
rút, đường lây truyền và biện pháp phòng ngừa 
góp phần kiểm soát đại dịch. Gần đây, Bộ Y tế 
cũng đưa khuyến cáo “5K”: khẩu trang-khử 
khuẩn-khoảng cách-không tập trung-Khai báo y 
tế” để phòng chống COVID-19(19). Trong bối 
cảnh chưa có vắc xin phòng ngừa thì việc đeo 
khẩu trang, vệ sinh tay là biện pháp hiệu quả để 
chung sống an toàn với COVID-19. Ngoài ra, chỉ 
60,9% người bệnh có kiến thức về người bệnh 
mắc bệnh mãn tính có nguy cơ cao mắc COVID-
19. Kết quả này cho thấy cần tăng cường truyền 
thông giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao kiến 
thức của người bệnh cũng như phát triển dịch 
vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà cho nhóm người 
bệnh cao tuổi để góp phần hạn chế sự lây lan 
của COVID-19. 
Nhìn chung, đa số người bệnh có thái độ tích 
cực về COVID-19, tuy nhiên có 65,2% - 67,8% 
người tham gia cho rằng bản thân và thành viên 
trong gia đình có khả năng mắc bệnh. Kết quả 
này tương đồng với nghiên cứu trước đây của 
chúng tôi và có thể lý giải do sự thiếu kiến thức 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 109 
về đường lây truyền bệnh điều này có thể dẫn 
đến việc thiếu tuân thủ thực hành phòng ngừa 
COVID-19 và trở thành nguồn lây nhiễm cho 
cộng đồng(10). Nghiên cứu cho thấy 76,1% người 
bệnh có thực hành tốt. Tuy nhiên chỉ 36,8% 
người bệnh đến khám được quan sát có thời 
gian rửa tay ≥20 giây. WHO và CDC khuyến cáo 
thời gian rửa tay cần đảm bảo tối thiểu 20 giây 
để loại bỏ vi sinh vật trên bàn tay trong khi 
nghiên cứu của Ryan MA đã nhấn mạnh tầm 
quan trọng của vệ sinh tay thường xuyên giúp 
làm giảm 45% người bệnh ngoại trú nhập viện vì 
bệnh đường hô hấp(20). Nghiên cứu gần đây của 
Hà Văn Như cho thấy 75,8% đối tượng nghiên 
cứu tuân thủ thực hành phòng ngừa COVID-19 
trong đó 58,8% ghi nhận rào cản là khó thay đổi 
thói quen hàng ngày (55,1%)(9). Nghiên cứu ghi 
nhận kiến thức và thái độ có mối liên quan đến 
thực hành phòng ngừa COVID-19. Kết quả này 
cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Al-
Hanawi MK khi ghi nhận kiến thức, thái độ có 
liên quan đến thực hành và đối tượng nghiên 
cứu lớn tuổi có kiến thức và thực hành tốt 
hơn(21). Nhìn chung tỷ lệ người bệnh có KAP 
đúng trong phòng ngừa COVID-19 còn thấp, 
theo tác giả Bloom BS thì kiến thức, thái độ thực 
hành tốt cần đạt tỷ lệ từ 80%(14). Tuy nhiên, 
nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Quận 2 
với kĩ thuật chọn mẫu thuận tiện nên kết quả có 
thể chưa đại diện cho toàn bộ người bệnh tại TP. 
Hồ Chí Minh. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có kiến 
thức, thái độ và thực hành đúng trong phòng 
ngừa COVID-19 lần lượt là 79,2%, 70,7% và 
76,1%, trong đó thời gian rửa tay ≥20 giây chỉ đạt 
36,8%. Chương trình truyền thông giáo dục sức 
khỏe cần tiếp tục thực hiện thông qua tivi và 
mạng xã hội để nâng cao kiến thức, thái độ và 
thực hành phòng chống COVID-19, đảm bảo 
duy trì liên tục trong đó nhấn mạnh tầm quan 
trọng của việc đảm bảo thời gian rửa tay tối 
thiểu 20 giây. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. WHO (2020). Coronavirus disease 2019 (COVID-19) 2020. URL: 
www.who.int/emergencies/diseases/novel-coronavirus-2019. 
2. WHO (2020). Timeline: WHO's COVID-19 response 2020. URL: 
https://www.who.int/emergencies/diseases/novel-coronavirus-
2019/interactive-
timeline?gclid=Cj0KCQiAwMP9BRCzARIsAPWTJ_FdWwxkW
rOjBesVEeebC2tZ9CIaCL3p-
KYc0hEnfJb3EYO14hDzGlMaAoXQEALw_wcB#event-115. 
3. Bộ Y Tế (2020). Trang tin về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp 
COVID-19. URL: https://ncov.moh.gov.vn/. 
4. Quach HL, Hoang NA (2020). COVID-19 in Vietnam: A lesson 
of pre-preparation. J Clin Virol, 127:104379. 
5. Koh J, Shah SU, Chua PEY, et al (2020). Epidemiological and 
Clinical Characteristics of Cases During the Early Phase of 
COVID-19 Pandemic: A Systematic Review and Meta-Analysis. 
Front Med, 7:295. 
6. WHO. (2020). WHO Director-General’s opening remarks at the 
mission briefing on COVID-19. URL: 
https://www.who.int/dg/speeches/detail/who-director-general-
s-opening-remarks-at-the-mission-briefing-on-covid-19. 
7. Bener A, Al-Khal A (2004). Knowledge, attitude and practice 
towards SARS. JR Soc Promot Health, 124(4):167-179. 
8. Albarrak AI, Mohammed R, Al Elayan A, et al (2019). Middle 
east respiratory syndrome (MERS): comparing the knowledge, 
attitude and practices of different health care workers. J Infect 
Public Health, 19:30239-30244. 
9. Van Nhu H, Tuyet-Hanh TT, Van NTA, Linh TNQ, Tien TQ 
(2020). Knowledge, Attitudes, and Practices of the Vietnamese 
as Key Factors in Controlling COVID-19. J Community Health, 
45(6):1263-1269. 
10. Huynh G, Nguyen TNH, Vo VT, Vo TKN, Tran VK, et al (2020). 
Knowledge and attitude toward COVID-19 among healthcare 
workers at District 2 Hospital, Ho Chi Minh City. Asian Pac J 
Trop Med, 13:260. 
11. Huynh G, Nguyen MQ, Nguyen TNH et al (2020). Knowledge, 
Attitude, and Practices Regarding COVID-19 Among Chronic 
Illness Patients at Outpatient Departments in Ho Chi Minh City, 
Vietnam. Risk Management and Healthcare Policy, 13:1571–1578 
12. Huynh G, Nguyen MQ, Nguyen TNH, et al (2020). Factors 
Relating to Preventive Practices of Health Science Students 
during the Early Stage of the COVID-19 Pandemic. 
Medpharmres, 4:27-32. 
13. WHO (2020) The push for a COVID-19 vaccine 2020. URL: 
https://www.who.int/emergencies/diseases/novel-coronavirus-
2019/covid-19-vaccines. 
14. Bloom BS (1956) Taxonomy education, In: Ralph WT Taxonomy 
of Educational Objectives, V1, pp.25-86. David McKay Company, 
New York. 
15. Melesie G, Bose L, Beressa TB, Tefera GM, Mosisa B, et al (2020). 
COVID-19 Knowledge, Attitudes, and Prevention Practices 
Among People with Hypertension and Diabetes Mellitus 
Attending Public Health Facilities in Ambo, Ethiopia. Infect Drug 
Resist.13:4203-4214. 
16. Khan MU, Shah S, Ahmad A, et al (2014). Knowledge and 
attitude of healthcare workers about Middle East Respiratory 
Syndrome in mul-tispecialty hospitals of Qassim, Saudi Arabia. 
BMC Public Health, 14:1281. 
17. Xuan Tran B, Thi Nguyen H, Quang Pham H, Thi Le H, Thu Vu 
G, Latkin CA, et al (2020). Capacity of local authority and 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 110 
community on epidemic response in Vietnam: Implication for 
COVID-19 preparedness. Saf Sci, 130:104867. 
18. Ferdous MZ, Islam MS, Sikder MT, Mosaddek ASM, Zegarra-
Valdivia JA, et al (2020). Knowledge, attitude, and practice 
regarding COVID-19 outbreak in Bangladesh: An online-based 
cross-sectional study. PLoS One, 15(10):e0239254. 
19. Bộ Y tế. (2020). Bộ Y tế khuyến cáo "5K" chung sống an toàn với 
dịch bệnh. URL: https://ncov.moh.gov.vn/vi/web/guest/-/bo-y-
te-khuyen-cao-5k-chung-song-an-toan-voi-dich-benh. 
20. Ryan MA, Christian RS, Wohlrabe J (2001). Handwashing and 
respiratory illness among young adults in military training. Am J 
Prev Med, 21(2):79-83. 
21. Al-Hanawi MK, Angawi K, Alshareef N, Qattan AMN, Helmy 
HZ, et al (2020) Knowledge, Attitude and Practice Toward 
COVID-19 Among the Public in the Kingdom of Saudi Arabia: 
A Cross-Sectional Study. Front Public Health, 8:217. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thai_do_va_thuc_hanh_phong_ngua_covid_19_cua_nguoi.pdf