Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng thuốc kháng sinh của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại Hà Nam năm 2019

Nhằm đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng thuốc kháng sinh của bà mẹ có con dưới 5

tuổi tại Hà Nam năm 2019, một nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 1334 bà mẹ có con

dưới 5 tuổi. Có 1264 (94,7%) bà mẹ từng biết đến kháng sinh và sử dụng kháng sinh cho con. Trong số

đó, tỉ lệ có kiến thức tốt, thái độ tích cực và thực hành tốt lần lượt là 54,3%, 54,1% và 49,2%. Tỉ lệ thực

hành lạm dụng thuốc kháng sinh ở trẻ là 50,8%. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy, các bà mẹ từ 26 tuổi

đến trên 30 tuổi; trình độ học vấn Cao đẳng/Đại học/Sau đại học; là Cán bộ/công chức; có thu nhập gia

đình > 10 triệu/tháng và đã từng tham gia khóa học về dùng kháng sinh cho trẻ có kiến thức, thái độ và

thực hành tốt hơn. Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng thuốc kháng sinh của bà mẹ còn thấp. Cần

tổ chức thêm các khóa học về kháng sinh cho trẻ cho đối tượng bà mẹ có con nhỏ và cho cộng đồng.

pdf 9 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng thuốc kháng sinh của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại Hà Nam năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng thuốc kháng sinh của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại Hà Nam năm 2019

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng thuốc kháng sinh của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại Hà Nam năm 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
154 TCNCYH 126 (2) - 2020
Tác giả liên hệ: Trần Thị Huyền Trang,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 15/12/2019
Ngày được chấp nhận: 17/03/2020
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ SỬ DỤNG 
THUỐC KHÁNG SINH CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 5 TUỔI 
TẠI HÀ NAM NĂM 2019
Hoàng Thị Hải Vân, Đào Anh Sơn, Đặng Công Sơn, Vũ Thị Ngân,
 Hà Thị Hằng và Trần Thị Huyền Trang 
Trường Đại học Y Hà Nội
Nhằm đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng thuốc kháng sinh của bà mẹ có con dưới 5 
tuổi tại Hà Nam năm 2019, một nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 1334 bà mẹ có con 
dưới 5 tuổi. Có 1264 (94,7%) bà mẹ từng biết đến kháng sinh và sử dụng kháng sinh cho con. Trong số 
đó, tỉ lệ có kiến thức tốt, thái độ tích cực và thực hành tốt lần lượt là 54,3%, 54,1% và 49,2%. Tỉ lệ thực 
hành lạm dụng thuốc kháng sinh ở trẻ là 50,8%. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy, các bà mẹ từ 26 tuổi 
đến trên 30 tuổi; trình độ học vấn Cao đẳng/Đại học/Sau đại học; là Cán bộ/công chức; có thu nhập gia 
đình > 10 triệu/tháng và đã từng tham gia khóa học về dùng kháng sinh cho trẻ có kiến thức, thái độ và 
thực hành tốt hơn. Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng thuốc kháng sinh của bà mẹ còn thấp. Cần 
tổ chức thêm các khóa học về kháng sinh cho trẻ cho đối tượng bà mẹ có con nhỏ và cho cộng đồng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kháng kháng sinh đang là vấn đề đáng báo 
động trên khắp thế giới. Trên thực tế, Tổ chức Y 
tế Thế giới (WHO) đã liệt kê kháng kháng sinh 
là một trong ba mối đe dọa sức khỏe cộng đồng 
quan trọng nhất của thế kỷ 21¹ Một trong những 
lí do được WHO cảnh báo dẫn đến tình trạng 
kháng kháng sinh là do việc tự kê đơn thuốc 
trong cộng đồng.² Trẻ em, đối tượng ảnh hưởng 
bởi kháng kháng sinh nhiều nhất, lại có nguy cơ 
lạm dụng thuốc kháng sinh bởi cha mẹ... Một số 
nghiên cứu ở các nước trên thế giới đã chỉ ra, tỉ 
lệ lạm dụng thuốc kháng sinh không đơn, không 
cần thiết để sử dụng cho trẻ nhỏ đều cao tại các 
địa bàn nghiên cứu, từ 20 - 40%;3 - 7 Và yếu tố 
hạn chế kiến thức về việc sử dụng kháng sinh ở 
cha mẹ được chứng minh có liên quan đến việc 
lạm dụng thuốc ở trẻ em.⁸ Nghiên cứu tại Nam 
Ấn Độ trên bà mẹ có con dưới 5 tuổi cho thấy 
chỉ 49,6% bà mẹ đánh giá có kiến thức đạt, 
nhưng tới 70% bà mẹ lạm dụng thuốc kháng 
sinh ở trẻ.⁹ Một nghiên cứu phỏng vấn bà mẹ 
có con trong độ tuổi tiêm chủng, chủ yếu 1 - 5 
tuổi, cho thấy 72% bà mẹ có kiến thức sai về 
tác dụng của kháng sinh; 60% lầm tưởng cần 
dừng ngay kháng sinh khi trẻ hết triệu chứng.10 
Nghiên cứu tại Lima, Peru chỉ ra hầu hết các 
bậc cha mẹ (62,5%) nhận thức sai về cách sử 
dụng kháng sinh3.. Tại Việt Nam, nghiên cứu 
thực hiện trên 1000 người dân tại 5 tỉnh vùng 
cao cho thấy 83,3% báo cáo tự dùng thuốc 
trong 12 tháng qua;11 kết quả nghiên cứu năm 
2017 báo cáo tỷ lệ tự dùng thuốc kháng sinh 
trong dân số là 76%;12 Hiện nay tại Việt Nam 
nghiên cứu đánh giá kiến thức, thái độ, thực 
hành của bà mẹ tự ý sử dụng thuốc kháng sinh 
cho trẻ còn rất hạn chế. Từ đó chúng tôi thực 
hiện đề tài: “Kiến thức, thái độ, thực hành về sử 
dụng thuốc kháng sinh của bà mẹ có con dưới 
Từ khóa: kiến thức, thái độ, thực hành, thuốc kháng sinh, bà mẹ, trẻ dưới 5 tuổi
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
155TCNCYH 126 (2) - 2020
5 tuổi tại Hà Nam năm 2019” với hai mục tiêu:
Mô tả Kiến thức, thái độ, thực hành về sử 
dụng thuốc kháng sinh của bà mẹ có con dưới 
5 tuổi tại Hà Nam năm 2019.
Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến 
thức, thái độ và thực hành sử dụng thuốc kháng 
sinh của bà mẹ có con dưới 5 tuổi.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng 
Bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại một số huyện 
tỉnh Hà Nam.
2. Phương pháp
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô 
tả cắt ngang
Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Nghiên 
cứu được tiến hành tại 3 huyện thuộc tỉnh Hà 
Nam: huyện Bình Lục; huyện Duy Tiên; và 
huyện Kim Bảng từ 6/2019 đến tháng 10/2019
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho 1 tỷ lệ 
trong cộng đồng
 = 1,96 (Hệ số tin cậy với độ tin cậy 
95%)
d = 0,04 (sai số tuyệt đối)
p = 0,76 (lấy kết quả nghiên cứu năm 2017 
tỷ lệ tự dùng thuốc trong dân số là 76%11
Thay vào công thức ta có n = 436/huyện. Cỡ 
mẫu cần thiết là 1308 . Trên thực tế đã thu thập 
được 1334 đối tượng nghiên cứu
Cách chọn mẫu
Chọn ngẫu nhiên 3 huyện thuộc tỉnh Hà 
Nam: Bình Lục, Duy Tiên, Kim Bảng
Chọn xã nghiên cứu: Căn cứ vào số bà mẹ 
có con dưới 5 tuổi tại các xã của từng huyện, 
chọn 7 xã: xã Nhật Tân, Nhật Tựu (huyện Kim 
Bảng), Xã Yên Bắc, Chuyên Ngoại (huyện Duy 
Tiên), Xã Bình Mỹ, An Mỹ, Hưng Công (huyện 
Bình Lục).
Chọn bà mẹ:
Tại mỗi xã lập danh sách các hộ gia đình có 
con dưới 5 tuổi
Chọn ngẫu nhiên hộ gia đình đầu tiên, phỏng 
vấn bà mẹ của trẻ dưới 5 tuổi, nếu bà mẹ đi 
vắng hoặc không đồng ý phỏng vấn, chuyển 
sang hộ tiếp theo.
Tiếp theo lấy hộ gia đình gần nhất hộ gia 
đình đầu tiên, cứ như vậy đến khi đủ cỡ mẫu
Biến số nghiên cứu 
Nhóm các biến số, chỉ số nghiên cứu được 
thu thập bao gồm: (i) Đặc điểm nhân khẩu học 
của đối tượng; (ii) Kiến thức của bà mẹ về sử 
dụng kháng sinh cho trẻ gồm biết đến thuốc 
kháng sinh, tác dụng của thuốc kháng sinh với 
vi khuẩn, độ dài thời gian điều trị, chỉ định; (iii) 
Thái độ sử dụng thuốc kháng sinh: nhận thức 
về tác dụng thuốc kháng sinh, tự lưu giữ thuốc 
tại nhà, ý thức tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ; 
(iv) Thực hành sử dụng thuốc kháng sinh: sử 
dụng đúng và đủ liều cho trẻ, thực hành theo 
hướng dẫn của bác sĩ, mua thuốc theo chỉ định 
và theo dõi tác dụng phụ; 
3. Đạo đức nghiên cứu
Các đối tượng nghiên cứu được giải thích 
rõ rãng về mục tiêu, nội dung , quy trình nghiên 
cứu và chỉ phỏng vấn khi người tham gia đồng 
ý. Tất cả những người tham gia nghiên cứu đều 
tự nguyện. Người trả lời có quyền từ chối hoặc 
dừng điều tra bất cứ lúc nào. Mọi thông tin cá 
nhân đều được bảo mật. Tất cả thông tin liên 
quan đến nghiên cứu được bảo mật chỉ phục 
vụ cho bài báo này và các lĩnh vực liên quan
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu thực hiện trên 1334 bà mẹ cho 
n = Z1 - α 2⁄
2 p(1 - p)
d
2
Z1 - α 2⁄
2 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
156 TCNCYH 126 (2) - 2020
thấy, có 1264 (94,7%) bà mẹ từng biết đến kháng sinh và sử dụng kháng sinh cho con. Có 784 
(62,3%) bà mẹ cho con dùng kháng sinh trong vòng 6 tháng qua tính đến thời điểm nghiên cứu.
Bảng 1. Thông tin chung đối tượng nghiên cứu (n = 1264)
Đặc điểm
Số bà mẹ 
(n = 1264)
Tỉ lệ (%) Đặc điểm
Số bà mẹ
(n = 1264)
Tỉ lệ 
(%)
Nhóm tuổi Số con
≤ 25 tuổi 289 22,8% 1 326 25,7%
26 - 29 tuổi 386 30,5% 2 635 50,2%
≥ 30 tuổi 589 46,6% ≥ 3 303 23,9%
Trình độ học vấn Thu nhập gia đình
Mù chữ/tiểu học/THCS 346 27,3% ≤ 10 triệu/tháng 955 75,5%
Trung học phổ thông 531 42,0% > 10 triệu/tháng 309 24,4%
Cao đẳng/Đại học/Sau 
đại học
387 30,6%
Tham gia khóa học về 
kháng sinh cho trẻ
Nghề nghiệp Chưa từng 1,211 95,8%
Thất nghiệp/nghề tự do 371 29,3% Đã từng 53 4,2%
Cán bộ/công chức 272 21,5%
Công nhân/nông dân 621 49,1%
Bảng 1 cho thấy đa số từ 26 tuổi trở lên. Khoảng 1 nửa bà mẹ làm Công nhân/nông dân; một nửa 
số bà mẹ đang có 2 con. Chỉ có 24,4% số đối tượng có thu nhập trên 10 triệu/tháng. Hầu hết các bà 
mẹ chưa từng tham gia khóa học về kháng sinh cho trẻ.
Bảng 2. Kiến thức của bà mẹ về kháng sinh cho trẻ (n = 1264)
Kiến thức
Số trả lời đúng 
(n = 1264)
Tỉ lệ (%)
Tác dụng của kháng sinh (với vi khuẩn) 449 33,6%
Thông tin độ dài đợt điều trị kháng sinh 506 37,9%
Xin bác sĩ tư vấn khi hết thuốc 775 58,1%
Biết đến kháng kháng sinh 711 53,3%
Biết kháng sinh không dự phòng bệnh cho trẻ 649 48,6%
Biết kháng sinh không dùng khi trẻ sốt, cảm cúm 671 53,0%
Không dừng thuốc khi triệu chứng giảm 504 37,7%
Bảng 2 chỉ ra, trong các bà mẹ số đạt kiến thức chung tốt qua tất cả các nội dung là 687 (54,3%). 
Chỉ khoảng 1/3 đối tượng biết tác dụng của thuốc chỉ lên vi khuẩn; 37.9% biết đến độ dài điều trị 
kháng sinh cho trẻ chính xác. Và có tới 62,3% các bà mẹ cho rằng sẽ dừng thuốc nếu trẻ giảm dấu 
hiệu bệnh.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
157TCNCYH 126 (2) - 2020
Biểu đồ 1. Thái độ của bà mẹ về sử dụng kháng sinh cho trẻ (n = 1264)
Biểu đồ 1 cho thấy chỉ có 684 (54,1%) bà mẹ có thái độ tích cực về sử dụng kháng sinh cho trẻ. 
Hơn một nửa số bà mẹ vẫn tự giữ kháng sinh tại nhà cũng như sẽ dừng thuốc nếu trẻ đỡ bệnh. Có 
tới 40% bà mẹ vẫn mong bác sĩ kê đơn có kháng sinh, cũng như cho trẻ sử dụng kháng sinh khi vẫn 
lầm tưởng cho rằng như vậy sẽ giúp trẻ nhanh hồi phục.
Bảng 3. Thực hành của bà mẹ về sử dụng kháng sinh cho trẻ (n = 1264)
Thực hành
Số thực hành đúng
 (n = 1264)
Tỉ lệ (%)
Không tự ý mua thuốc kháng sinh 564 44,6%
Không tự ý bỏ điều trị thuốc 611 48,3%
Hỏi bác sĩ về tác dụng và tác dụng phụ kháng sinh 784 62,0%
Tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ về liều lượng và cách thức 
sử dụng
1191 94,2%
Không tự ý dừng kháng sinh ngay khi trẻ hết triệu chứng 543 42,9%
Tìm hiểu về thuốc kháng sinh trước khi dùng 754 59,6%
Hỏi cán bộ y tế về thuốc trước khi cho trẻ dùng 464 36,7%
Hay theo dõi tác dụng phụ của thuốc kháng sinh 840 66,4%
Bảng 3 chỉ ra hầu hết các bà mẹ tự khai báo rằng tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ. Tuy nhiên, 
tỉ lệ không tự ý mua kháng sinh cũng như không tự ý bỏ thuốc còn thấp. Tỉ lệ bà mẹ tìm hiểu về 
thuốc, và hỏi cán bộ y tế, bác sĩ trước khi dùng cho trẻ cũng thấp. Số bà mẹ có thực hành chung tốt 
qua các mục đánh giá là 622 (49,2%), tỉ lệ lạm dụng thuốc là 50,8%.
65.1%
58.9%
87.3%
41.8%
60.0%
40.0%
34.9%
41.2%
12.7%
58.2%
40.0%
60.0%
0% 20% 40% 60% 80% 100%
sử dụng kháng sinh theo hướng dẫn dược ghi 
trên nhãn
Tự giữ một lượng kháng sinh tại nhà
Kiểm tra ngày hết hạn sử dụng trước khi dùng
Không tự ý ngừng dùng kháng sinh cho con khi giảm 
triệu chứng
Không yêu cầu bác sĩ kê đơn thuốc kháng sinh 
cho con khi cảm lạnh
Cho trẻ uống kháng sinh khi cảm lạnh để nhanh 
chóng hồi phục
Thái độ tốt Thái độ chưa tốt
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
158 TCNCYH 126 (2) - 2020
Bảng 4. Phân tích các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ về sử 
dụng kháng sinh cho trẻ (bảng rút gọn)
Yếu tố
Kiến thức tốt 
(n = 687)
OR (95%CI)
Thái độ tốt
(n = 684)
OR (95%CI)
Thực hành tốt
(n = 622)
OR (95%CI)
Nhóm tuổi
≤ 25 tuổi - - -
26 - 29 tuổi 1,46 (1,07 - 1,99)* 1,37 (1,01 - 1,87)* 1,58 (1,16 - 2,16)*
≥ 30 tuổi 1,25 (0,94 - 1,66) 1,17 (0,88 - 1,55) 1,39 (1,04 - 1,85)*
Trình độ học vấn
Mù chữ/tiểu học/THCS - - -
Trung học phổ thông 1,16 (0,88 - 1,52) 1,11 (0,85 - 1,46) 0,96 (0,73 - 1,26)
Cao đẳng/Đại học/Sau đại học 3,13 (2,31 - 4,26)* 2,71 (2,00 - 3,67)* 2,49 (1,85 - 3,36)*
Nghề nghiệp
Thất nghiệp/nghề tự do - - -
Cán bộ/công chức 2,86 (2,03 - 4,02)* 2,33 (1,67 - 3,25)* 1,92 (1,39 - 2,65)*
Công nhân/nông dân 0,88 (0,68 - 1,14) 0,93 (0,72 - 1,20) 0,83 (0,64 - 1,07)
Thu nhập gia đình
≤ 10 triệu/tháng - - -
> 10 triệu/tháng 1,44 (1,11 - 1,87)* 1,41 (1,08 - 1,83)* 1,31 (1,01 - 1,70)*
Tham gia khóa học về kháng sinh cho trẻ
Chưa từng - - -
Đã từng 4,98 (2,33 - 10,6)* 3,01 (1,57 - 5,79)* 8,66 (3,67 - 20,4)*
*:p < 0,05
Bảng 4 cho thấy các bà mẹ từ 26 tuổi đến trên 30 tuổi; trình độ học vấn Cao đẳng/Đại học/Sau 
đại học; là Cán bộ/công chức; có thu nhập gia đình > 10 triệu/tháng và đã từng tham gia khóa học 
về kháng sinh cho trẻ có kiến thức, thái độ và thực hành tốt hơn.
Biểu đồ 2 cho thấy nguồn/ nơi kê đơn kháng sinh cũng như nơi mua thuốc kháng sinh của các 
bà mẹ là chủ yếu ở quầy thuốc/hiệu thuốc (63% và 68,5%)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
159TCNCYH 126 (2) - 2020
Biểu đồ 2. Phân bố người/nơi kê đơn cho bà mẹ và nơi bà mẹ mua thuốc kháng sinh 
(n = 1264)
IV. BÀN LUẬN
Việc tự ý kê đơn kháng sinh thấy rộng rãi ở 
cả các nước phát triển và đang phát triển, do tỷ 
lệ mắc bệnh truyền nhiễm cao và khả năng dễ 
dàng mua kháng sinh mà không cần kê đơn, 
điều này giúp cho việc tự ý dùng thuốc kháng 
sinh bừa bãi trở nên phổ biến.13 Nghiên cứu tại 
một số tỉnh cũng cho kết quả 40 - 60% người 
dân tự mua thuốc điều trị - những kháng sinh này 
được giữ chủ yếu cho điều trị ho và tiêu chảy.14 
Trong nghiên cứu, tỉ lệ bà mẹ thực hành tốt về 
thuốc kháng sinh là 49,2%, tỉ lệ lạm dụng thuốc 
là 50,8%. Tỉ lệ này cao hơn kết quả nghiên cứu 
tại thành phố Ninh Ba, Trung Quốc (20,3%),4 
Croatia (28,2%),5 Lima, Pê ru (23,5%),3 Lít - 
va (31%)⁶ và Mông Cổ (42.3%).15 Nghiên cứu 
cũng chỉ ra, kiến thức về tác dụng của kháng 
sinh trước vi khuẩn chỉ 33,6%, tương tự nghiên 
cứu tại Ấn Độ (28%).7 Khi được hỏi về tác dụng 
để điều trị, chỉ 53% biết rằng thuốc kháng sinh 
không để chữa khi trẻ sốt hay cảm cúm. Nghiên 
cứu trên 503 người chăm sóc trẻ tại Mông cổ 
chỉ ra các triệu chứng họ thường dùng đến 
kháng sinh cho trẻ như ho (84%), sốt (66%), 
chảy nước mũi (65%) và đau họng (60%)15. 
Về thái độ sử dụng thuốc, hơn một nửa số bà 
mẹ vẫn tự giữ kháng sinh tại nhà cũng như sẽ 
tự ý bỏ liều nếu trẻ đỡ bệnh. Chính điều này dễ 
dẫn đến kháng kháng sinh cho trẻ ở các lần sử 
dụng thuốc tiếp theo, tương đồng kết quả trên 
phụ huynh tại Trung Quốc với 48,5% giữ kháng 
sinh tại nhà; tỉ lệ này tại Lima lên tới 53,2%.3,4 
Việc phụ huynh tin rằng thuốc kháng sinh có 
khả năng giúp đẩy nhanh hồi phục do cảm lạnh, 
hay như dừng thuốc khi bệnh thuyên giảm với 
tỉ lệ tương tự các nghiên cứu trước.4 - 6 Mặc dù 
đa số bà mẹ trả lời rằng họ tuân thủ hướng dẫn 
của bác sĩ về liều lượng và cách thức sử dụng, 
tuy nhiên về thực hành sử dụng thuốc cho trẻ, 
vẫn hơn một nửa số bà mẹ còn tự ý mua thuốc, 
tự ý bỏ đơn hay dừng sử dụng khi trẻ đỡ triệu 
chứng; tỉ lệ quan tâm tác dụng phụ và hỏi ý kiến 
cán bộ y tế cũng thấp.
Kết quả phân tích đa biến chỉ ra, độ tuổi là 
yếu tố có ảnh hưởng đầu tiên có thể thấy trong 
nghiên cứu khác,⁵ cụ thể có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa nhóm các bà mẹ trẻ và 
15.40%
10%
7.40%
4.30%
63%
13.60%
8.30%
5.90%
3.70%
68%
0.0% 10.0% 20.0% 30.0% 40.0% 50.0% 60.0% 70.0% 80.0%
Trạm y tế
TTYT tuyến huyện
Bệnh viện tỉnh
Bệnh viện TW
Nhà thuốc,quầy thuốc tự mua
Nơi mua Người/nơi kê đơn
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
160 TCNCYH 126 (2) - 2020
các bà mẹ từ 26 tuổi trở lên. Với những bà mẹ 
có trình độ học vấn cao như cao đẳng/đại học 
trở lên;⁷ công việc cán bộ, công chức và có thu 
nhập gia đình cao⁶ (> 10 triệu/tháng) có kiến 
thức, thái độ và thực hành tốt hơn. Tỉ lệ bà mẹ 
đã từng tham gia khóa học về kháng sinh cho 
trẻ còn thấp, nhưng sự khác biệt nó đem lại rất 
lớn; kiến thức, thái độ và thực hành có thể gấp 
từ 3,01 - 8,66 lần so với nhóm còn lại. Về các 
nguồn kê đơn và mua thuốc, biểu đồ 2 cho thấy 
việc tự kê đơn kháng sinh có thể xảy ra ở tất cả 
các cấp y tế, nhưng tự mua thuốc từ nhà thuốc, 
quầy thuốc là chủ yếu để các mẹ tự mua kháng 
sinh cho con, tương tự các nghiên cứu khác.7,15 
Không chỉ xuất phát từ kiến thức, thái độ của 
các bà mẹ còn thấp, mà còn do khoảng cách 
từ nhà thuốc gần nhà hơn, và phụ huynh vẫn 
cho rằng mua thuốc tại quầy có thể sẽ rẻ hơn 
trong bệnh viện.14 Có thể thấy việc tiếp cận và 
sử dụng thuốc kháng sinh qua nguồn tư nhân 
còn thiếu kiểm soát.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu thực hiện trên 1334 bà mẹ có 
con dưới 5 tuổi cho thấy, có 1264 (94,7%) bà 
mẹ từng biết đến kháng sinh và sử dụng kháng 
sinh cho con. Trong số đó, tỉ lệ có kiến thức tốt 
(54,3%), thái độ tích cực (54,1%) và thực hành 
tốt (49,2%) còn thấp. Tỉ lệ thực hành lạm dụng 
thuốc kháng sinh ở trẻ là 50,8%. Phân tích hồi 
quy đa biến cho thấy, các bà mẹ từ 26 tuổi đến 
trên 30 tuổi; trình độ học vấn Cao đẳng/Đại học/
Sau đại học; là Cán bộ/công chức; có thu nhập 
gia đình > 10 triệu/tháng và đã từng tham gia 
khóa học về kháng sinh cho trẻ có kiến thức, 
thái độ và thực hành tốt hơn. Từ đó cần tổ chức 
thêm các khóa học về kháng sinh cho trẻ cho 
đối tượng bà mẹ có con nhỏ và cho cộng đồng.
Khuyến nghị
Nâng cao kiến thức về sử dụng thuốc kháng 
sinh thông qua các khóa học hay buổi truyền 
thông cho các bà mẹ có con dưới 5 tuổi
Trong quá trình thăm khám và điều trị, các 
cán bộ y tế khi kê đơn cần chú trọng hơn nữa 
về việc tư vấn cho các bà mẹ đặc biệt là vào 
các nội dung nơi mua thuốc, sử dụng thuốc 
kháng sinh theo đúng chỉ định,theo dõi các tác 
dụng phụ của thuốc và tình trạng kháng sinh.
Lời cảm ơn
Để hoàn thành nghiên cứu này, nhóm 
nghiên cứu xin được bày tỏ lòng biết ơn chân 
thành đến:
Lãnh đạo các huyện, các cán bộ y tế tại các 
huyện Kim Bảng, Duy Tiên, Bình Lục và các 
bạn sinh viên đã tạo điều kiện giúp đỡ chúng tôi 
trong quá trình thu thập số liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Antimicrobial resistance: global report on 
surveillance 2014. World Health Organization; 
2014. 
documents/surveillancereport/en/. Accessed 
September 27, 2019.
2. Antibiotic resistance. World Health 
Organization; 2018. https://www.who.int/news - 
room/fact - sheets/detail/antibiotic - resistance. 
Accessed September 27, 2019.
3. Paredes JL, Navarro R, Riveros M, 
et al. Parental Antibiotic Use in Urban and 
Peri - Urban Health Care Centers in Lima: 
A Cross - Sectional Study of Knowledge, 
Attitudes, and Practices. Clin Med Insights 
Pediatr. 2019;13:1179556519869338 
- 1179556519869338. 
doi:10.1177/1179556519869338
4. Dandan Peng, Xudong Zhou. Parents’ 
antibiotic use for children in Ningbo: knowledge, 
behaviors and influencing factors. Zhejiang Xue 
Xue Bao Yi Xue Ban. 2018;47(2):156 - 162.
5. Farkaš M, Glažar Ivče D, Stojanović S, 
Mavrinac M, Mićović V, Tambić Andrašević A. 
Parental Knowledge and Awareness Linked 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
161TCNCYH 126 (2) - 2020
to Antibiotic Use and Resistance: Comparison 
of Urban and Rural Population in Croatia. 
Microb Drug Resist. July 2019. doi:10.1089/
mdr.2018.0424
6. Pavydė E, Veikutis V, Mačiulienė A, 
Mačiulis V, Petrikonis K, Stankevičius E. Public 
Knowledge, Beliefs and Behavior on Antibiotic 
Use and Self - Medication in Lithuania. Int J 
Environ Res Public Health. 2015;12(6):7002 - 
7016. doi:10.3390/ijerph120607002
7. Agarwal S, Yewale VN, Dharmapalan 
D. Antibiotics Use and Misuse in Children: 
A Knowledge, Attitude and Practice Survey 
of Parents in India. J Clin Diagn Res JCDR. 
2015;9(11):SC21 - SC24. doi:10.7860/
JCDR/2015/14933.6819
8. Currie J, Lin W, Zhang W. Patient 
knowledge and antibiotic abuse: Evidence 
from an audit study in China. J Health 
Econ. 2011;30(5):933 - 949. doi:10.1016/j.
jhealeco.2011.05.009
9. Lakshmi R, Geetha D, 
Vijayasamundeeswari P. Assessing the 
knowledge, attitude, and practice on antibiotic 
use in under - 5 children with respiratory tract 
infection among mothers attending a pediatric 
outpatient department. J Public Health. July 
2019. doi:10.1007/s10389 - 019 - 01098 - w
10. Wang J, Sheng Y, Ni J, et al. Shanghai 
Parents’ Perception And Attitude Towards 
The Use Of Antibiotics On Children: A 
Cross - Sectional Study. Infect Drug Resist. 
2019;12:3259 - 3267. doi:10.2147/IDR.
S219287
11. Ha TV, Nguyen AMT, Nguyen HST. Self 
- medication practices among Vietnamese 
residents in highland provinces. J Multidiscip 
Healthc. 2019;12:493 - 502. doi:10.2147/
JMDH.S211420
12. Hoai NT, Dang T. The determinants of 
self - medication: Evidence from urban Vietnam. 
Soc Work Health Care. 2017;56(4):260 - 282. 
doi:10.1080/00981389.2016.1265632
13. Okeke IN, Laxminarayan R, Bhutta ZA, 
et al. Antimicrobial resistance in developing 
countries. Part I: recent trends and current 
status. Lancet Infect Dis. 2005;5(8):481 - 493. 
doi:10.1016/S1473 - 3099(05)70189 - 4
14. Okumura J, Wakai S, Umenai T. 
Drug utilisation and self - medication in 
rural communities in Vietnam. Soc Sci Med. 
2002;54(12):1875 - 86.
15. Togoobaatar G, Ikeda N, Ali M, et al. 
Survey of non - prescribed use of antibiotics for 
children in an urban community in Mongolia. 
Bull World Health Organ. 2010;88(12):930 - 
936. doi:10.2471/BLT.10.079004
Summary
KNOWLEDGE, ATTITUDES AND PRACTICES TOWARDS 
ANTIBIOTIC USE OF MOTHERS WITH CHILDREN 
UNDER 5 YEARS OLD IN HA NAM IN 2019
To describe the knowledge, attitudes and practices towards antibiotic usage of mothers with 
children under 5 years old in Ha Nam in 2019. A cross-sectional study of “Knowledge, attitudes 
and practices towards antibiotic usage of mothers with children under 5 years old in Ha Nam in 
2019” was conducted on 1334 mothers with children under 5 years old. 1264 mothers representing 
94.7% knew about antibiotics. Among them, the percentage of good knowledge, good attitude 
and good practice were 54.3%, 54.1% and 49.2% respectively. The prevalence of antibiotic 
abuse in children was 50.8%. Multivariate regression analysis showed that mothers aged from 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
162 TCNCYH 126 (2) - 2020
26 to over 30 years old, college and postgraduate educated, employed by the government 
or in the public sector with a family income > 10 million VNĐ/month with antibiotics training 
have better knowledge, attitudes and practices. Consequently, it is recommended to provide 
more courses on antibiotics usage for mothers with young children and for the community.
Keywords: knowledge, attitude, practice, antibiotics, mothers, children under 5 years old.

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thai_do_thuc_hanh_ve_su_dung_thuoc_khang_sinh_cua.pdf