Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt xuất huyết của người dân hai xã, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận năm 2013

Nghiên cứu mô tả cắt ngang 400 hộ gia đình tại 2 xã Hàm Chính và Hàm

Phú thuộc huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận năm 2013 nhằm mô tả kiến

thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan của người dân về bệnh sốt

xuất huyết (SXH). Kết quả cho thấy, tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về phòng

chống SXH là 38,5%, thái độ và thực hành đúng đạt 16,8%. Nghiên cứu cũng tìm

thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa yếu tố giới tính, tôn giáo với kiến

thức phòng chống SXH, giữa kiến thức với thái độ, thực hành phòng chống SXH

và chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi, trình độ học

vấn, nghề nghiệp, dân tộc, kinh tế, tiếp cận thông tin với kiến thức, thái độ và

thực hành phòng chống SXH của người dân tại hai xã nghiên cứu.

pdf 10 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt xuất huyết của người dân hai xã, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt xuất huyết của người dân hai xã, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận năm 2013

Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt xuất huyết của người dân hai xã, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận năm 2013
 148 
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT 
HUYẾT CỦA NGƯỜI DÂN HAI XÃ, HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, 
TỈNH BÌNH THUẬN NĂM 2013 
Nguyễn Thị Hồng Lụa - Luận văn thạc sỹ YTCC 
Trung tâm Truyền thông GDSK Trung ương 
Tóm tắt nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang 400 hộ gia đình tại 2 xã Hàm Chính và Hàm 
Phú thuộc huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận năm 2013 nhằm mô tả kiến 
thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan của người dân về bệnh sốt 
xuất huyết (SXH). Kết quả cho thấy, tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về phòng 
chống SXH là 38,5%, thái độ và thực hành đúng đạt 16,8%. Nghiên cứu cũng tìm 
thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa yếu tố giới tính, tôn giáo với kiến 
thức phòng chống SXH, giữa kiến thức với thái độ, thực hành phòng chống SXH 
và chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi, trình độ học 
vấn, nghề nghiệp, dân tộc, kinh tế, tiếp cận thông tin với kiến thức, thái độ và 
thực hành phòng chống SXH của người dân tại hai xã nghiên cứu. 
1. Đặt vấn đề 
 Sốt xuất huyết là bệnh nhiễm vi rút Dengue cấp tính do muỗi truyền và có 
thể gây thành dịch lớn. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, hàng năm có 50 
triệu người nhiễm virút Dengue, trong đó khoảng 500.000 người mắc SXH với 
khoảng 12.000 – 15.000 ca tử vong/năm. Năm 2012, SXH được xếp vào bệnh do 
muỗi truyền quan trọng nhất trên thế giới. Việt Nam là một trong 8 nước đứng 
đầu khu vực Đông Nam Á và thế giới về tỷ lệ mắc và chết do bệnh SXH [8]. 
Bệnh lưu hành rộng rãi ở Việt nam nhất là ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, 
đồng bằng Bắc bộ và vùng ven biển miền Trung. Bệnh có xu hướng tăng mạnh 
trong những năm gần đây và gây dịch lớn ở cả 4 khu vực trong toàn quốc và là 
một trong 10 bệnh truyền nhiễm gây dịch có tỷ lệ mắc cao nhất ở nước ta [6]. 
 Hiện nay chưa có vắc-xin phòng bệnh và thuốc điều trị đặc hiệu. Vì vậy, để 
phòng bệnh SXH phần lớn phụ thuộc vào kiến thức, thái độ, thực hành của người 
dân về bệnh để có thể chủ động phòng tránh. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho 
thấy có khoảng cách giữa kiến thức, thái độ và thực hành của người dân về SXH. 
Một nghiên cứu tại tỉnh Đồng Tháp năm 2006 cho kết quả người dân có kiến thức 
đúng về SXH là 50%, thái độ đúng là 57%, thực hành đúng chỉ chiếm 26%[3]. 
 Bình Thuận là tỉnh ven biển Nam Trung bộ, nằm trong khu vực có tỷ lệ 
mắc SXH cao trong cả nước. Các địa phương như Phan Thiết, Hàm Thuận 
 149 
Bắctập trung nhiều ca mắc nhất [2]. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu 
nào tìm hiểu về kiến thức, thái độ, thực hành của người dân huyện Hàm Thuận 
Bắc, tỉnh Bình Thuận trong việc phòng tránh bệnh SXH. Vì vậy, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu đề tài “Kiến thức, thái độ và thực hành về phòng chống sốt xuất 
huyết của người dân hai xã, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận năm 2013”. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt xuất huyết của 
người dân hai xã Hàm Chính và Hàm Phú, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh 
Bình Thuận, năm 2013. 
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành về 
phòng chống sốt xuất huyết tại hai xã Hàm Chính và Hàm Phú, huyện 
Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, năm 2013. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Là chủ hộ gia đình 
3.2. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 
3.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 
- Địa điểm: xã Hàm Chính và Hàm Phú, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh 
Bình Thuận. 
- Thời gian: từ tháng 6/2013 đến tháng 10/2014 
3.4. Phân tích số liệu: Số liệu được làm sạch, nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 
và phân tích bằng phần mềm SPSS16. 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Đặc điểm của đối tượng tham gia nghiên cứu 
Trong 400 đối tượng nghiên cứu (ĐTNC), nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ 
giới tương ứng là 59% và 41%, tuổi trung bình là 41 tuổi. Trình độ học vấn của 
ĐTNC chủ yếu là tiểu học (51,8%), trung học cơ sở trở lên (48,2%), đa số làm 
nông nghiệp (86,2 %), các ngành nghề khác như công nhân, cán bộ công chức, 
thợ thủ công,chiếm tỷ lệ thấp 13,8%. Phần lớn ĐTNC thuộc nhóm thành phần 
kinh tế không nghèo (trung bình, khá, giàu) với tỷ lệ là 88,2%; thành phần kinh 
tế nghèo là 11,8%. 
Giữa 2 xã nghiên cứu có sự khác nhau nhiều về tuổi, giới trình độ học vấn, 
nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
4.2. Kiến thức của người dân về phòng bệnh SXH 
 150 
38,5
61,5
Đạt
Không đạt
Biểu đồ 1: Kiến thức chung về phòng chống SXH 
Phần lớn ĐTNC không đạt kiến thức chung về bệnh SXH (61,5%). Tỷ lệ 
này cũng khác nhau rõ rệt ở 2 xã nghiên cứu (xã Hàm Phú là 18,5%, thấp hơn xã 
Hàm Chính 58,5% ; p<0,05). 
80,5
16,5
3
62
31,5
6,5
71,2
24
4,8
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Hàm Chính Hàm Phú Cả 2 xã
Không biết
Không lây
Có lây
Biểu đồ 2: Hiểu biết của ĐTNC về khả năng lây truyền của bệnh SXH 
71,2% ĐTNC biết được bệnh có khả năng lây truyền, tuy nhiên vẫn có 
24% cho rằng bệnh không lây truyền và 4,8% không biết bệnh có lây truyền hay 
không. Giữa hai xã có sự khác nhau, ĐTNC xã Hàm Chính biết được bệnh có khả 
năng lây truyền cao hơn xã Hàm Phú, tỷ lệ này tương ứng là 80,5% và 62,0%. Sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Bảng 1: Kiến thức về đường lây truyền bệnh sốt xuất huyết 
 151 
Hiểu biết về đường lây 
Xã Hàm Chính Xã Hàm Phú Tổng số 
Tần số 
(n=200) 
Tỷ lệ 
(%) 
Tần số 
(n=200) 
Tỷ lệ 
(%) 
Tần số 
(n=400) 
Tỷ lệ 
(%) 
Biết nguyên nhân do 
muỗi đốt 
179 89,5 137 68,5 316 79,0 
Biết tên muỗi truyền 
bệnh là Ae.agypti 
177 88,5 149 74,5 326 81,5 
Biết mùa muỗi sinh sản 160 80,0 69 34,5 229 57,2 
Biết nơi muỗi đẻ trứng 158 79,0 170 85,0 328 82,0 
Biết thời gian muỗi 
thường đốt 
179 89,5 114 57,0 293 73,3 
Hầu hết các ĐTNC đều biết đường lây truyền bệnh, tên muỗi truyền bệnh, 
nơi muỗi đẻ trứng và thời gian muỗi thường đốt với tỷ lệ lần lượt là 79%, 81,5%, 
82%, 73,3%. Các tỷ lệ này ở xã Hàm Chính đa số chiếm tỷ lệ cao hơn xã Hàm 
Phú và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,005). 
Bảng 2. Kiến thức về lứa tuổi thường gặp mắc bệnh sốt xuất huyết 
Lứa tuổi thường gặp 
Xã Hàm Chính Xã Hàm Phú Tổng số 
Tần số 
(n=200) 
Tỷ lệ 
(%) 
Tần số 
(n=200) 
Tỷ lệ 
(%) 
Tần số 
(n=400) 
Tỷ lệ 
(%) 
Trẻ em 143 71,5 107 53,5 250 62,5 
Tất cả mọi người 58 29,0 51 25,5 109 27,2 
Người già 13 6,5 3 1,5 16 4,0 
Người có sức khỏe yếu 11 5,5 4 2,0 15 3,8 
Phụ nữ 6 3,0 4 2,0 10 2,5 
Người có bệnh mạn tính 7 3,5 2 1,0 9 2,2 
ĐTNC ở cả 2 xã đều cho rằng lứa tuổi dễ mắc bệnh SXH nhất là trẻ em 
(62,5%). Những đối tượng khác như phụ nữ, người già, người có bệnh mạn tính và 
người có sức khỏe yếu thì khả năng mắc bệnh SXH thấp hơn, tỷ lệ này dao động từ 
2,2% đến 4,0%. 
 152 
Về triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết 
- 75,8% ĐTNC kể được dấu hiệu sốt cao, 44,8% kể được dấu hiệu xuất huyết dưới 
da, 29,8% kế được dấu hiệu đau đầu. 
- Các dấu hiệu khác mà ĐTNC kể được như đi ngoài ra máu; hành kinh sớm; đau 
cơ lần lượt là 13,2%;12,8%; 12%. 
- Tỷ lệ đối tượng kể được dấu hiệu nôn ra máu rất thấp chỉ có 1,5%. 
4.3. Thái độ, thực hành của người dân về phòng bệnh SXH: 
83,2
16,8
Đạt
Không đạt
Biểu đồ 3: Thái độ, thực hành phòng chống SXH của ĐTNC 
Tỷ lệ ĐTNC có thái độ, thực hành đạt về phòng bệnh SXH ở mức thấp 
(16,8%) và có đến 83,2% ĐTNC có thái độ, thực hành không đạt. 
79,5
45
71
44,5
75,2
44,8
0
20
40
60
80
Hàm Chính Hàm Phú Cả 2 xã
có phát triển thành dịch bệnh rất nguy hiểm
Biểu đồ 4: Thái độ của ĐTNC đối với bệnh SXH 
 153 
75,2% ĐTNC cho rằng bệnh có phát triển thành dịch, tỷ lệ này ở 2 xã Hàm 
Chính và Hàm Phú lần lượt là 79,5% và 71%. Sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống 
kê với p >0,05. Tuy nhiên, tỷ lệ ĐTNC cho rằng bệnh rất nguy hiểm chỉ chiếm 44,8%. 
Về thực hành phòng bệnh 
- Các thực hành về phòng bệnh SXH có tỷ lệ trả lời tương đối cao như: không lưu 
giữ phế thải, DCCN có đậy nắp, không có vũng nước đọng quanh nhà, thu gom 
rác, nhà sạch tương ứng là 94%, 93,5%, 90,8%, 90,5%, 90%. 
- Các thực hành khác có tỷ lệ lựa chọn thấp hơn là: mắc màn khi ngủ (70%), thả cá 
diệt bọ gậy (52%), có hệ thống nước thải (39,5%), cống rãnh có nắp đậy (22,5%). 
4.4. Mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành 
Bảng 3: Mối liên quan giữa kiến thức và thái độ, thực hành phòng chống SXH 
Kiến thức 
Thái độ, thực hành 
Tổng 
Đạt Không đạt 
Đạt 35 (22,7%) 119 (77,3%) 154 
Không đạt 32 (13,0%) 214 (87,0%) 246 
OR = 1,97 ; p = 0,01; 95%CI (1,159-3,339) 
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức và thái độ, thực hành 
phòng chống SXH ở người dân tại 2 xã nghiên cứu. Tỷ lệ đối tượng có thái độ, thực 
hành đạt trong nhóm có kiến thức đạt cao hơn 1,97 lần so với tỷ lệ này trong 
nhóm có kiến thức không đạt. Sự khác biệt về tỷ lệ thái độ, thực hành đạt giữa 
hai nhóm có kiến thức đạt và không đạt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
4. Bàn luận 
5.1. Về kiến thức của người dân về phòng bệnh SXH 
 Kết quả nghiên cứu cho thấy, ĐTNC có kiến thức chung về phòng chống 
SXH còn hạn chế. Tỷ lệ ĐTNC có kiến thức đạt về phòng bệnh SXH chỉ chiếm 
38,5%. Nguyên nhân có thể do người dân địa phương làm nghề nông chủ yếu, 
trình độ dân trí thấp nên họ ít có điều kiện tìm hiểu thông tin về bệnh. Tỷ lệ này 
khá thấp so với nghiên cứu ở Đồng Tháp của Lê Thị Thanh Hương là 50% [3]. 
Nhưng tỷ lệ này lại cao hơn một số nghiên cứu ở khu vực khác như nghiên cứu 
của Vũ Trọng Dược tại 11 tỉnh miền núi phía Bắc năm 2011 tỷ lệ này chỉ đạt 
10,1% [7]. Điều này có thể được lý giải do khác nhau về số lượng mẫu (600 
HGĐ, 2.000 HGĐ), địa điểm (khu vực Đông Nam Bộ và miền núi phía Bắc) và 
thời gian nghiên cứu (2006, 2011). 
 154 
Giữa hai xã nghiên cứu thì ĐTNC đạt kiến thức chung về bệnh SXH ở xã 
Hàm Chính cao hơn xã Hàm Phú (58,5%, 18,5%). Điều này có thể lý giải do sự 
khác nhau về một số đặc điểm của ĐTNC giữa hai xã: nhóm tuổi, giới tính, dân 
tộc, tôn giáo, trình độ học vấn, ngành nghề. Đây là những gợi ý hữu ích cho lãnh 
đạo địa phương cần ưu tiên các chương trình truyền thông đến người dân xã Hàm Phú. 
Đa số ĐTNC có kiến thức tốt về khả năng lây truyền của bệnh (chiếm 
71,2%), đường lây truyền bệnh là do muỗi đốt (79%) và 81,5% biết được tên 
muỗi truyền bệnh là muỗi Aedes agypti (dân gian gọi là muỗi vằn), 82% biết 
được nơi muỗi đẻ trứng ở trong nước, 81,8% biết được các biện pháp cần làm để 
phòng bệnh. Điều này có thể được lý giải do năm vừa qua tại địa phương có tỷ lệ 
người mắc bệnh cao nên địa phương có tổ chức một số đợt chiến dịch truyền 
thông phòng chống bệnh, nên người dân biết được một số thông tin cơ bản. 
Tuy nhiên, ĐTNC có kiến thức chưa tốt về lứa tuổi dễ mắc bệnh, triệu 
chứng của bệnh, thời gian sinh sản và phát triển của muỗi, thời gian muỗi thường 
đốt. Đa số cho rằng trẻ em là dễ mắc bệnh nhất (chiếm 62,5%), còn các đối tượng 
khác khả năng mắc bệnh thấp hơn. Điều này có thể được lý giải do các đợt dịch 
SXH tại địa phương lứa tuổi mắc nhiều nhất là trẻ em dưới 15 tuổi [2] vì vậy 
người dân cho rằng chỉ có trẻ em là dễ mắc bệnh còn người lớn và những người 
khác ít mắc bệnh hơn. Chính sự hiểu biết không đúng này có thể dẫn đến việc 
người dân chủ quan trong phòng chống bệnh cho bản thân và những thành viên 
khác trong gia đình. 
 5.2. Về thái độ, thực hành 
 Nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ người dân có thái độ, thực hành đúng phòng 
chống bệnh SXHD rất thấp là 16,8%. Tỷ lệ này thấp hơn so với nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Quỳnh Trang, Trần Văn Hai, Lê Thị Thanh Hương, Trương Phi Hùng 
(lần lượt là 20%, 26%, 26%, 53%) [4],[3],[5]. 
 Giữa hai xã nghiên cứu cũng có sự khác nhau về tỷ lệ thái độ, thực hành đạt ở 
xã Hàm Chính cao hơn xã Hàm Phú (26% so với 7,5%). Điều này có thể được 
lý giải do người dân xã Hàm Chính có kiến thức chung về phòng chống bệnh 
tốt hơn xã Hàm Phú nên họ cũng có thái độ, thực hành đạt cao hơn. 
 ĐTNC đã có thái độ đúng về sự phát triển thành dịch của bệnh SXH chiếm tỷ 
lệ cao 75,2%, chỉ có 44,8% ĐTNC cho rằng bệnh rất nguy hiểm, có thể dẫn tới tử 
vong. Chính thái độ không tích cực của ĐTNC có thể sẽ làm họ chủ quan với các 
thông tin về bệnh và là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh tại địa phương cao 
trong thời gian vừa qua. 
 155 
 Đối với thực hành mắc màn khi ngủ, kết quả nghiên cứu cho thấy 70% 
ĐTNC đã thực hiện. Kết quả này so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Quỳnh Trang tại Hà Nội [3] thì thấp hơn, nhưng lại cao hơn nhiều so với kết quả 
tại Đồng Tháp, thành phố Hồ Chí Minh của Lê Thị Thanh Hương,Trương Phi 
Hùng, Lý Lệ Lan và Lê Hoàng Ninh, Trần Văn Hai [3],[5]. Điều này có thể do 
khác nhau về các đặc điểm đối tượng nghiên cứu tại các vùng miền. 
 Hành vi thả cá diệt bọ gậy không được ĐTNC chú trọng lắm, chỉ có 52% 
ĐTNC thực hiện hành vi này. Nguyên nhân của vấn đề này có thể do quan niệm 
của nhiều người dân thả cá sẽ làm bẩn, tanh nước nên họ ít thực hiện hoặc có thể 
do họ không biết về lợi ích của việc thả cá diệt bọ gậy. 
 Thực hành vệ sinh nhà ở, không lưu giữ phế thải, DCCN có nắp đậy, không 
có vũng nước đọng quanh nhà, thu gom rác, nhà sạch đạt tỷ lệ cao từ 72,8% đến 
94%. Điều này cho thấy việc thực hành về vệ sinh nhà ở khá tốt. So với kết quả 
của một số nghiên cứu khác thấy có sự tương đồng, như nghiên cứu tại Đồng Tháp, 
Thành phố Hồ Chí Minh [3], [5]. Nghiên cứu tại Đồng Tháp cho thấy thực hành vệ 
sinh trong nhà tốt chiếm 66,9%, vệ sinh môi trường xung quanh tốt chiếm 56,2%. 
5.3. Về mối liên quan giữa kiến thức và thái độ, thực hành phòng bệnh SXH 
Kết quả cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức, thái độ 
và thực hành phòng chống SXH ở người dân tại 2 xã nghiên cứu. Tỷ lệ đối tượng có 
thái độ, thực hành đạt trong nhóm có kiến thức đạt cao hơn 1,97 lần so với tỷ lệ 
này trong nhóm có kiến thức không đạt. Sự khác biệt về tỷ lệ thái độ, thực hành 
đạt giữa hai nhóm có kiến thức đạt và không đạt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của Lê Thị Thanh Hương tại Đồng Tháp 
[3], Trương Phi Hùng tại Thành phố Hồ Chí Minh [5] là có mối liên quan có ý nghĩa 
thống kê giữa kiến thức đạt và thái độ, thực hành đạt. 
Vì vậy truyền thông giáo dục để nâng cao nhận thức cho người dân địa 
phương sẽ góp phần quan trọng nâng cao thái độ, thực hành trong thời gian tới tại 
hai xã nghiên cứu và trong công tác phòng chống bệnh SXH nói chung. 
5. Khuyến nghị 
6.1. Đối với ngành y tế và chính quyền địa phương 
- Tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khỏe, cung cấp các thông tin 
về phòng chống SXH mà người dân hiện chưa hiểu rõ như: 
 Lứa tuổi dễ mắc bệnh; 
 Triệu chứng của bệnh; 
 Thời gian sinh sản và phát triển của muỗi; 
 156 
 Thời gian muỗi thường đốt. 
- Công tác truyền thông cần chú trọng tới những đối tượng nam giới, người có 
trình độ văn hóa thấp, người làm nghề nông và nhóm người dân tộc. 
6.2. Đối với người dân 
- Cần mắc màn bất cứ khi nào ngủ. 
- Cần thực hiện thường xuyên một số hành vi như thả cá diệt bọ gậy, vệ sinh 
môi trường xung quanh, có hệ thống nước thải, cống rãnh có nắp đậy. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cục Y tế dự phòng, Niêm giám thống kê các bệnh truyền nhiễm tại Việt Nam, 
2009, Cục thống kê Hà Nội: Hà Nội. 
2. Lê Thị Thanh Hương, T.T.H., Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống 
sốt xuất huyết của người dân xã Bình Thành, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng 
Tháp. Tạp chí Y tế công cộng, 2006. 9. 
3. Nguyễn Thị Quỳnh Trang, Thực trạng kiến thức, thực hành của người dân về 
phòng bệnh sốt xuất huyết dengue và một số yếu tố liên quan tại phường Trúc 
Bạch, quận Ba Đình, Hà Nội năm 2012, 2012. 
4. Trương Phi Hùng, Kiến thức, thái độ thực hành về phòng bệnh sốt xuất huyết của 
thân nhân bệnh nhân sốt xuất huyết tại bệnh viện nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh 
năm 2010. Tạp chí Y Hoc Thành phố Hồ Chí Minh, 2010. 15(1): p. 119-125. 
5. Viện VSDT Trung ương, Báo cáo tổng kết công tác phòng chống dịch khu vực 
Miền bắc năm 2010. 2011. p. 6-10. 
6. Vũ Trọng Dược, Đ.T.V.A., Trần Vũ Phong và cộng sự,, Điều tra kiến thức và 
thực hành về phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue tại 11 tỉnh miền núi 
phía Bắc, 2011. Tạp chí Y Hoc Dự Phòng, 2011. tập XXI(8). 
7. 
&cn_id=604091. 
8. World Health Organization, Guidlines for dengue surveillance and mosquito 
control. Regional Office for the Western Pacific Mannila, 2003. 2nd edition: p. 1-10 
ĐIỀU TRA KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI VỀ KẾT QUẢ THỰC 
HIỆN VỆ SINH TỔNG THỂ DO CỘNG ĐỒNG LÀM CHỦ 
HUYỆN THUẬN BẮC TỈNH NINH THUẬN 
BS. Nguyễn Năm, Nguyễn Thị Bích Trâm - Trung tâm Truyền thông GDSK Ninh Thuận 
BS. Phan Quốc Khánh - Trung tâm YTDP Ninh Thuận 
 157 
Tóm tắt nghiên cứu 
“Vệ sinh tổng thể do cộng đồng làm chủ” là một phương pháp mới nhằm 
đạt được và duy trì tình trạng không phóng uế bừa bãi thông qua việc hướng dẫn 
cộng đồng phân tích thực trạng vệ sinh, thói quen đi vệ sinh và hậu quả của nó. 
Không giống các cách tiếp cận khác trợ cấp bằng tiền mặt và vật tư cho hộ gia đính 
và chú trọng vào xây dựng nhà vệ sinh, “Vệ sinh tổng thể do cộng đồng làm chủ” 
tập trung vào động cơ thay đổi hành vi vệ sinh của cộng đồng. Tâm điểm của vệ 
sinh tổng thể do cộng đồng làm chủ là kích hoạt, tại đây những cộng tác viên sẽ 
thuyết phục cộng đồng thông qua hướng dẫn cộng đồng vẽ bản đồ về vị trí nhà ở và 
vị trí họ hay đi vệ sinh ngoài trời, sau đó tính toán đơn giản số lượng phân mà cộng 
đồng thải ra môi trường sống và phân tích con đường lây nhiễm từ phân đến miệng. 
Từ đó tạo cho người dân ghê sợ, kinh tởm, xấu hổ và tự nguyện tìm cách bỏ thói 
quen đi vệ sinh ngoài trời bằng việc xây dựng và sử dụng nhà tiêu. 
Nghiên cứu “Đánh giá triển khai mô hình vệ sinh tổng thể do cộng đồng 
làm chủ” phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn trên nhóm đối tượng là đại điện 
136 hộ gia đình, cán bộ y tế xã, già làng, trưởng thôn và đại diện giáo viên của 6 
trường tiểu học trên địa bàn 03 xã (Công hải, Lợi Hải, Bắc Sơn) của huyện Thuận 
Bắc. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Hiện tại trên địa bàn có 55,1% hộ gia đình có 
nhà tiêu, còn lại 44,5% có thói quen đi ngoài nương rẫy. Trong số những người đi 
ngoài nương thì có 44,3% cho rằng thoải mái vì không hôi, số còn lại cho rằng họ 
cũng ngại người khác nhìn thấy và không an toàn. Trong số những người đi vệ 
sinh trong nhà tiêu có tới 60,0% cho rằng nơi đó an toàn và hơn 50% họ không sợ 
người khác nhìn thấy. Khi hỏi về mong muốn thay đổi tình trạng đi vệ sinh bên 
ngoài gần 80% người dân cho rằng cần thay đổi thói quen đi vệ sinh ở rẫy và nên 
có chính sách cho vay vốn để xây nhà tiêu. Có tới 99,3% đối tượng nghiên cứu 
cho rằng đi vệ sinh bên ngoài gây ra bệnh tật và ô nhiễm môi trường, trong đó 
bệnh được nhắc đến nhiều nhất là tiêu chảy. Hầu hết đều cho rằng già làng tác 
động rất lớn trong việc thực hiện chương trình xây nhà tiêu hộ gia đình để thay 
đổi thói quen cả tập thể, cộng đồng đi cầu bên ngoài. Nghiên cứu đưa ra kiến 
nghị: Tiếp tục xin kinh phí hỗ trợ người dân và cho vay vốn ưu đãi để người dân 
có điều kiện và quyết tâm xây nhà tiêu; Có thể nên kết hợp với các nội dung của 
Chương trình Xây dựng nông thôn mới đang được triển khai hiện nay. 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thai_do_thuc_hanh_ve_phong_chong_sot_xuat_huyet_cu.pdf