Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con của bà mẹ có trẻ ở các trường mẫu giáo tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm học 2013 – 2014

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con không đúng.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả.

Kết quả: Tỉ lệ các bà mẹ có kiến thức chung không đúng là 29,8%, có thái độ chung không đúng là 41,4%, có

thực hành chung không đúng là 27,3%.

Kết luận: Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con của bà mẹ vẫn chưa cao

pdf 9 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con của bà mẹ có trẻ ở các trường mẫu giáo tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm học 2013 – 2014", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con của bà mẹ có trẻ ở các trường mẫu giáo tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm học 2013 – 2014

Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con của bà mẹ có trẻ ở các trường mẫu giáo tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm học 2013 – 2014
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 43
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH NUÔI CON CỦA BÀ MẸ CÓ TRẺ 
Ở CÁC TRƯỜNG MẪU GIÁO TẠI THÀNH PHỐ MỸ THO TỈNH TIỀN GIANG 
NĂM HỌC 2013 – 2014 
Tạ Văn Trầm*, Trần Quang Dư* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con không đúng. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Kết quả: Tỉ lệ các bà mẹ có kiến thức chung không đúng là 29,8%, có thái độ chung không đúng là 41,4%, có 
thực hành chung không đúng là 27,3%. 
Kết luận: Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con của bà mẹ vẫn chưa cao. 
Từ khóa: Suy dinh dưỡng, kiến thức, thái độ, thực hành. 
ABSTRACT 
KNOWLEDGE, ATTITUDE, PRACTICE OF MOTHER WITH CHILD IN NURSERY SCHOOL IN MY 
THO CITY, TIEN GIANG PROVINCE IN 2013 – 2014 
Tran Quang Du, Ta Van Tram * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 19 - No 3 - 2015: 42 - 50 
Objectives: Determining the rate of mothers with incorrect knowledge, attitude, practice. 
Methods: Cross-sectional descriptive. 
Results: Percentage of mothers with incorrect knowledge was 29.8%, the general incorrect attitude is 41.4%, 
the common incorrect practice is 27.3%. 
Conclusion: Knowledge, attitudes and practices of mothers in raising children is not high 
Key words: Malnutrition, knowledge, attitude, practice. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong những năm qua, cùng với sự phát 
triển của nền kinh tế xã hội, sự triển khai có hiệu 
quả của nhiều chương trình phòng chống suy 
dinh dưỡng (SDD) trẻ em, sự thay đổi về kiến 
thức, thái độ, thực hành của các bậc cha mẹ trong 
vấn đề nuôi dưỡng con trẻ, tỉ lệ trẻ SDD đã giảm 
nhiều nhưng vẫn còn ở mức cao, đặc biệt là ở trẻ 
dưới 5 tuổi. 
Hiện nay SDD vẫn là vấn đề sức khỏe toàn 
cầu. Năm 2011 theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế 
giới (TCYTTG) và Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc 
(QNĐLHQ), số trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thể thấp 
còi là 165 triệu, SDD thể nhẹ cân là 101 triệu và 
trong khoảng 3 triệu trẻ tử vong trên toàn thế 
giới thì hơn một phần ba số trường hợp liên 
quan đến SDD. Do đó TCYTTG đã đưa ra mục 
tiêu giảm tỉ lệ SDD trẻ em xuống dưới 15% vào 
năm 2015. Tuy nhiên, mục tiêu này khó có thể 
đạt được một cách dễ dàng vì giảm tỉ lệ SDD 
không chỉ phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế, 
giảm bớt đói nghèo mà còn phụ thuộc nhiều vào 
những nỗ lực làm thay đổi nhận thức và hành vi 
của cộng đồng. 
Theo nhiều y văn, một trong những nguyên 
nhân hàng đầu của SDD là do kiến thức và 
phương pháp nuôi con của các bà mẹ chưa 
đúng(12). Mục tiêu của “Chiến lược Quốc gia về 
Dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020” là nâng cao 
* Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang. 
Tác giả liên lạc: PGS.TS Tạ Văn Trầm ĐT: 0913771779, Email: [email protected]. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 44
hiểu biết và tăng cường thực hành dinh dưỡng 
hợp lý, trong đó nâng cao tỉ lệ nữ thanh niên 
được huấn luyện về dinh dưỡng và kiến thức cơ 
bản về làm mẹ đạt 60% vào năm 2015. Vì vậy 
trong những năm qua, kế hoạch dinh dưỡng 
quốc gia tập trung nhiều vào việc tuyên truyền, 
giáo dục kiến thức, thực hành về dinh dưỡng mà 
người dân có thể thực hiện được bằng khả năng 
và phương tiện sẵn có tại gia đình. 
Mỹ Tho là thành phố trung tâm của tỉnh Tiền 
Giang, có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển và 
được tập trung đầu tư nhiều nhất của tỉnh. Năm 
2013, thành phố Mỹ Tho hoàn thành chỉ tiêu phổ 
cập giáo dục mầm non. Đây là một điều kiện rất 
tốt để thành phố triển khai các chương trình giáo 
dục, chăm sóc sức khỏe trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo 
có hiệu quả hơn. Đồng thời đó cũng là điều kiện 
thuận lợi để việc tuyên truyền, phổ biến kiến 
thức về y tế cho các bà mẹ được tốt hơn. 
Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng, tỉ lệ trẻ 
SDD thể nhẹ cân ở trẻ dưới 5 tuổi của tỉnh Tiền 
Giang năm 2012 là 13,9%, thể thấp còi là 26,4%. 
Mặc dù SDD trẻ em vẫn đang là vấn đề sức khỏe 
cộng đồng quan trọng cần can thiệp tích cực 
nhưng từ trước đến nay, tại Tiền Giang nói 
chung và thành phố Mỹ Tho nói riêng, chưa có 
công trình nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực 
hành nuôi con của các bà mẹ. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỉ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ, 
thực hành nuôi con không đúng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Dân số chọn mẫu 
Trẻ đang học ở các trường mẫu giáo tại 
thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm học 
2013 - 2014 và bà mẹ của những trẻ này. 
Tiêu chí chọn mẫu 
Trẻ đang học ở các lớp được chọn trong các 
trường mẫu giáo tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền 
Giang năm 2014 và các bà mẹ có con được chọn. 
Tiêu chí loại trừ 
Trẻ có tên trong các lớp được chọn nhưng 
không đi học vào thời điểm thực hiện nghiên 
cứu; Bà mẹ không biết chữ; Bà mẹ không đồng ý 
tham gia vào nghiên cứu. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Xử lý và phân tích dữ liệu 
Phần mềm SPSS 16.0. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm kiến thức nuôi con của bà mẹ 
Bảng 1: Kiến thức nuôi con của bà mẹ qua từng 
nội dung khảo sát (n = 1063) 
Kiến thức Tần số Tỉ lệ (%) 
Loại thức ăn 
tốt nhất đối 
với trẻ 
Sữa mẹ 1003 94,4 
Sữa hộp 20 1,9 
Bột 7 0,6 
Thức ăn khác 24 2,3 
Không biết 9 0,8 
Thời gian 
cho trẻ bú 
mẹ sau sinh 
Trong giờ đầu 887 83,4 
Từ 2 – 24 giờ 140 13,2 
Sau 24 giờ 31 2,9 
Không biết 5 0,5 
Thức ăn bổ 
sung trong 6 
tháng đầu 
Cần thiết 266 25,0 
Không cần thiết 790 74,3 
Không biết 7 0,7 
Thời điểm 
cho trẻ ăn 
dặm 
Trước 6 tháng 64 6,0 
Từ 6 tháng 641 60,3 
Sau 6 tháng 357 33,6 
Không biết 1 0,1 
Thời điểm 
cai sữa mẹ 
Trước 12 tháng tuổi 83 7,8 
Từ 12 – 24 tháng tuổi 608 57,2 
Sau 24 tháng tuổi 369 34,7 
Không biết 3 0,3 
Nhóm 
 thức ăn 
trong bữa ăn 
(nhiều lựa 
chọn) 
Đường, bột 887 83,4 
Đạm 1006 94,6 
Béo 750 70,6 
Xơ, vitamin, khoáng chất 978 92,0 
Không biết 6 0,6 
Bổ sung 
vitamin A 
cho trẻ 
Cần thiết 1028 96,7 
Không cần thiết 20 1,9 
Không biết 15 1,4 
Cách tẩy 
giun cho trẻ 
1 lần duy nhất 7 0,7 
3 tháng một lần 79 7,4 
6 tháng một lần 867 81,6 
1 năm một lần 105 9,9 
Không biết 5 0,4 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 45
Kiến thức Tần số Tỉ lệ (%) 
Ảnh hưởng 
của SDD 
(nhiều lựa 
chọn) 
Làm trẻ dễ bệnh tật 902 84,9 
Ảnh hưởng đến sự phát 
triển cơ thể 
1022 96,1 
Ảnh hưởng sự phát triển trí 
thông minh 
964 90,7 
Không ảnh hưởng nghiêm 
trọng 
9 0,8 
Không biết 8 0,7 
Bảng 2: Tỉ lệ kiến thức nuôi con không đúng của bà 
mẹ (n = 1063) 
Nội dung 
Tần 
số 
Tỉ lệ 
% 
Không biết thời điểm cho trẻ cai sữa mẹ 694 65,3 
Không biết thời điểm cho trẻ ăn dặm 422 39,7 
Không biết bữa ăn của trẻ có đủ 4 nhóm thức 
ăn 
328 30,9 
Không biết chế độ dinh dưỡng của trẻ trong 6 
tháng đầu 
273 25,7 
Không biết ảnh hưởng của SDD đối với trẻ 204 19,2 
Không biết cách tẩy giun cho trẻ 196 18,4 
Không biết thời gian cho trẻ bú sau sinh 176 16,6 
Không biết sữa mẹ là tốt nhất đối với trẻ 60 5,6 
Không biết trẻ dưới 5 tuổi cần bổ sung vitamin 
A 
35 3,3 
Bảng 3: Kiến thức chung về cách nuôi con của bà mẹ 
(n = 1063) 
Biến số Tần số Tỉ lệ % 
Kiến thức chung đúng (7 - 9 điểm) 746 70,2 
Kiến thức chung không đúng (0 - 6 điểm) 317 29,8 
Đặc điểm thái độ nuôi con của bà mẹ 
Bảng 4: Thái độ của bà mẹ qua từng nội dung khảo 
sát (n = 1063) 
Thái độ Tần số Tỉ lệ (%) 
Trẻ dưới 6 tháng chỉ 
cần bú mẹ 
Đồng ý 786 73,9 
Không đồng ý 225 21,2 
Không ý kiến 52 4,9 
Cho trẻ bú mẹ ít nhất 
đến 24 tháng 
Đồng ý 780 73,4 
Không đồng ý 222 20,9 
Không ý kiến 61 5,7 
Cho trẻ tiêm ngừa 
đầy đủ 
Đồng ý 1059 99,6 
Không đồng ý 1 0,1 
Không ý kiến 3 0,3 
Bảng 5: Thái độ chung của bà mẹ (n = 1063) 
Biến số Tần số Tỉ lệ (%) 
Thái độ chung đúng (3 điểm) 623 58,6 
Thái độ chung không đúng (0 - 2 điểm) 440 41,4 
Đặc điểm thực hành nuôi con của bà mẹ 
Bảng 6: Thực hành của bà mẹ qua từng nội dung 
khảo sát (n = 1063) 
Thực hành Tần số Tỉ lệ (%) 
Nuôi con bằng sữa 
mẹ 
Có 1033 97,2 
Không 30 2,8 
Thời điểm cai sữa 
cho trẻ 
Trước 24 tháng 678 63,8 
Sau 24 tháng 333 31,3 
Không nhớ 52 4,9 
Thêm dầu vào bữa ăn 
ngày hôm qua của trẻ 
Có 823 77,4 
Không 206 19,4 
Không nhớ 34 3,2 
Cho trẻ ăn rau trong 
ngày hôm qua 
Có 1022 96,1 
Không 33 3,1 
Không nhớ 8 0,8 
Đưa trẻ đi tiêm ngừa Đầy đủ 1040 97,8 
Không đầy đủ 23 2,2 
Tẩy giun cho trẻ trong 
6 tháng qua 
Có 929 87,4 
Không 118 11,1 
Không nhớ 16 1,5 
Theo dõi cân nặng 
của trẻ 
Khoảng 3 tháng 899 84,6 
3 tháng - 1 năm 92 8,6 
Hơn 1 năm 33 3,1 
Không nhớ 39 3,7 
Bảng 7: Tỉ lệ bà mẹ thực hành nuôi con không đúng 
Thực hành không đúng N
Tần số Tỉ lệ (%) 
Cai sữa mẹ trước 24 tháng tuổi 1011 678 67,1 
Không bổ sung dầu ăn 1029 206 20,0 
Không theo dõi cân nặng của trẻ 1024 125 12,2 
Không tẩy giun cho trẻ 1047 118 11,3 
Không cho trẻ ăn rau 1055 33 3,1 
Không nuôi con bằng sữa mẹ 1063 30 2,8 
- Không tiêm ngừa cho trẻ 1063 23 2,2 
: không tính những trường hợp bà mẹ có câu trả lời là 
không nhớ. 
Bảng 8: Thực hành chung về cách nuôi con của bà mẹ 
(n = 952) 
Biến số Tần số Tỉ lệ % 
Thực hành chung đúng (6 - 7 điểm) 692 72,7 
Thực hành chung không đúng 
(0 - 5 điểm) 
260 27,3 
BÀN LUẬN 
Kiến thức, thái độ, thực hành của bà mẹ qua 
các nội dung khảo sát. 
Sữa mẹ 
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất và phù hợp nhất 
đối với trẻ nhỏ. Trong sữa mẹ có đầy đủ chất 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 46
dinh dưỡng cần thiết cho trẻ với một tỉ lệ cân 
đối, dễ hấp thu nhất là Protein, Lipid, vitamin A 
và nhiều tố chất sinh học mà thức ăn khác không 
thể có như kháng thể, Enzym sinh học, bạch cầu 
giúp cơ thể trẻ chống nhiễm khuẩn trong thời kỳ 
đầu khi sức đề kháng của trẻ chưa hoàn chỉnh. 
Mặt khác cho trẻ bú sữa mẹ còn mang lại những 
tiện lợi về kinh tế, gắn bó tình cảm mẹ con. 
Trong những năm gần đây, ít có vấn đề trong 
dinh dưỡng trẻ em được quan tâm nhiều bằng 
nuôi con bằng sữa mẹ. TCYTTG và QNĐLHQ 
đã coi nuôi con bằng sữa mẹ là một trong những 
biện pháp quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe 
trẻ em(3,12). 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có đến 
94,4% các bà mẹ biết sữa mẹ là thức ăn phù hợp, 
tốt nhất cho trẻ và trong thực hành đã có đến 
97,2% các bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ. So với 
các nghiên cứu trước đây thì tỉ lệ các này đã tăng 
lên đáng kể. 
Điều đó cho thấy các bà mẹ ngày càng nhận 
thức được tầm quan trọng của sữa mẹ đối với trẻ 
và tỉ lệ bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ cũng tăng 
lên. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi 
có 5,6% các bà mẹ không có kiến thức đúng về 
vấn đề này. Trong đó, tỉ lệ các bà mẹ cho rằng 
thức ăn tốt và phù hợp nhất với trẻ là thức ăn 
khác là 2,3%, sữa hộp là 1,9% và không biết thức 
nào tốt nhất cho trẻ là 0,8%. Vì vậy vai trò của 
sữa mẹ đối với trẻ vẫn là vấn đề cần quan tâm tại 
địa phương, cần tiếp tục tuyên truyền, phổ biến 
hơn nữa để nâng cao kiến thức cho bà mẹ và qua 
đó nâng cao tỉ lệ trẻ được nuôi dưỡng bằng sữa 
mẹ. 
Thời điểm cho trẻ bú mẹ lần đầu sau sinh 
Hiện nay theo khuyến cáo của TCYTTG nên 
cho trẻ bú mẹ ngay trong vòng giờ đầu sau sinh 
và càng sớm càng tốt(12). Bởi vì như vậy trẻ sẽ sử 
dụng được sữa non, là loại sữa rất tốt, hoàn hảo 
về dinh dưỡng và các chất sinh học thích ứng với 
cơ thể trẻ. Hơn nữa, động tác bú của trẻ sẽ kích 
thích sự tiết sữa của người mẹ. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi có 16,6% bà mẹ không có kiến thức 
đúng về vấn đề này. Cụ thể có 13,2% các bà mẹ 
cho rằng thời điểm trẻ bú mẹ lần đầu là 2 - 24 giờ 
sau sinh và đặc biệt có 2,9% các bà mẹ cho rằng 
thời điểm đó là vào ngày hôm sau (sau 24 giờ 
sau sinh). 
Các nghiên cứu trước đây cũng cho kết quả 
tương tự. Kết quả nghiên cứu của tác giả Huỳnh 
Văn Sơn (năm 2004, cỡ mẫu 600) thì 8,8% các bà 
mẹ không biết được trẻ cần bú mẹ trong vòng 
giờ đầu sau sinh(4). Tỉ lệ này trong nghiên cứu 
của tác giả Thái Kim Yến (năm 2008, cỡ mẫu 802) 
là 18%(13) và nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị 
Như Hoa (năm 2011, cỡ mẫu 404) là 10,5%(10). 
Nghiên cứu của tác giả Mohammed E. S. và cộng 
sự về kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con của 
307 bà mẹ ở vùng nông thôn El-Minia, 
Governorate, Ai Cập thì có 16% các bà mẹ không 
đồng ý cho con bú sữa mẹ ngay sau sinh và 
trong thực hành có đến 25,8% các bà mẹ không 
cho trẻ bú sữa non(7). Điều này cho thấy vẫn còn 
một phần lớn các bà mẹ không có kiến thức 
đúng về việc cho trẻ bú mẹ sớm sau sinh. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, kiến thức cho trẻ bú 
mẹ sớm sau sinh của bà mẹ có liên quan với tình 
trạng SDD của trẻ. Kết quả phân tích cho thấy 
con của những bà mẹ có kiến thức không đúng 
sẽ có tỉ lệ SDD thấp còi cao hơn so với con của bà 
mẹ có kiến thức đúng (p = 0,021). Đây là cơ sở 
thực tiễn để tăng cường phổ biến kiến thức này 
nâng cao hiểu biết cho bà mẹ và góp phần giảm 
tỉ lệ SDD ở trẻ. 
Bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu 
Chiến lược toàn cầu về nuôi dưỡng trẻ sơ 
sinh và trẻ nhỏ của TCYTTG và QNĐLHQ đã 
đưa ra bằng chứng khoa học về tính ưu việt của 
thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và khuyến nghị 
trẻ cần được nuôi dưỡng hoàn toàn bằng sữa mẹ 
trong 6 tháng đầu thay vì 4 tháng như trước 
đây(12). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 25,7% các 
bà mẹ có kiến thức không đúng về việc cho trẻ 
bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Kết quả này 
cũng tương đương với kết quả nghiên cứu của 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 47
tác giả Nguyễn Thị Như Hoa (20,4% bà mẹ có 
kiến thức không đúng)(10) và tác giả Nguyễn Lê 
Thành (25,1%)(8). Nghiên cứu của tác giả Oche M. 
O. và các cộng sự tại thị trấn Kware, bang 
Sokoto, Nigeria năm 2011 thì có 31% trong tổng 
số 179 bà mẹ có kiến thức đúng về bú mẹ hoàn 
toàn trong 6 tháng đầu(11). Kiến thức của các bà 
mẹ về vấn đề này là chưa tốt. Do đó trong công 
tác tuyên truyền cần đặc biệt chú trọng đến kiến 
thức cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu 
để nâng cao kiến thức đúng cho các bà mẹ. Kết 
quả phân tích cho thấy kiến thức về bú mẹ hoàn 
toàn trong 6 tháng đầu có liên quan với tình 
trạng SDD của trẻ. Con của những bà mẹ có kiến 
thức không đúng có tỉ lệ SDD nhẹ cân cao hơn so 
với con của bà mẹ có kiến thức đúng (p = 0,007). 
Do đó việc nâng cao kiến thức này cho các bà mẹ 
có ý nghĩa quan trọng tại địa phương. 
 Tỉ lệ các bà mẹ có thái độ đúng về việc cho 
trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 73,9% 
và phù hợp với sự hiểu biết của họ (74,3%). Tuy 
nhiên cũng có 25,0% bà mẹ cho rằng trẻ cần 
được ăn thêm thức ăn khác và do đó cũng có 
21,2% bà mẹ có thái độ không đồng ý với việc 
cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có 
thể thấy các bà mẹ chưa thật sự hiểu đúng và tin 
tưởng vào việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 
tháng đầu mà không cần cho thêm bất cứ thức 
ăn nào khác. Theo nghiên cứu của tác giả Huỳnh 
Văn Sơn thì lý do các bà mẹ thường đưa ra là sợ 
trẻ sẽ khát nếu không cho trẻ uống nước, uống 
nước để rửa sạch miệng cho trẻ hoặc bú sữa mẹ 
đơn thuần sẽ không cung cấp đủ chất dinh 
dưỡng trẻ sẽ đói. Do đó cần phải ...  trẻ nhỏ dưới 6 tháng 
tuổi được bú sữa mẹ hoàn toàn là rất thấp 
(19,6%)(1). Do đó Chiến lược Quốc gia về dinh 
dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 đã đặt ra mục tiêu 
nâng tỉ lệ này lên 27% vào năm 2015 và tiếp tục 
phấn đấu đạt 35% vào năm 2020. Đây thực sự là 
một thách thức đối với nước ta nói chung và với 
Tiền Giang nói riêng bởi nó đòi hỏi nhiều yếu tố 
và sự phối hợp của nhiều ban ngành. 
Thời điểm cho trẻ ăn dặm 
Thời điểm ăn dặm rất quan trọng đối với 
tình trạng dinh dưỡng của trẻ em. Cho trẻ ăn 
dặm sớm không có lợi cho sức khỏe của trẻ vì 
trước 6 tháng tuổi trẻ chưa cần đến thức ăn 
ngoài sữa mẹ, cho trẻ ăn khiến trẻ bú ít đi, sữa 
mẹ cũng sẽ tiết ra ít và trẻ mất nguồn dinh 
dưỡng quý giá từ sữa mẹ. Ngược lại nếu cho 
trẻ ăn dặm quá trễ sẽ không đáp ứng được 
nhu cầu phát triển của cơ thể trẻ và thiếu dinh 
dưỡng sẽ xảy ra. Khuyến cáo hiện nay của 
TCYTTG là bắt đầu cho trẻ ăn dặm từ tháng 
thứ 6(12). Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ 
bà mẹ có kiến thức không đúng về thời điểm 
cho trẻ ăn dặm là 39,7%. 
Kết quả nghiên cứu của tác giả Lương Ngọc 
Trương (năm 2013)(5) và của chúng tôi (năm 
2014) thì tỉ lệ các bà mẹ có kiến thức không đúng 
về thời điểm cho trẻ ăn dặm là gần 40%, đều cao 
hơn kết quả của những nghiên cứu trước đó 
(trước năm 2008). Sự khác biệt này có thể giải 
thích do tiêu chuẩn đánh giá khác nhau. Trước 
đây những khuyến cáo về thời điểm cho trẻ ăn 
dặm là 4 - 6 tháng tuổi nhưng từ năm 2008 
TCYTTG đưa ra khuyến cáo về thời điểm cho trẻ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 48
ăn dặm đúng là từ 6 tháng tuổi(12). Do đó những 
nghiên cứu đánh giá kiến thức không đúng của 
người mẹ theo tiêu chí này sẽ gặp khó khăn và sẽ 
có kết quả cao hơn. 
Nghiên cứu của tác giả Vyas S. và cộng sự 
thực hiện từ tháng 5 năm 2009 đến tháng 4 
năm 2010 với 500 bà mẹ có con dưới 3 tuổi ở 
Hilly Terrain, Ấn Độ. Kết quả, tỉ lệ bà mẹ cho 
trẻ ăn dặm vào thời điểm trẻ từ 4 - 6 tháng tuổi 
là 48,5%(14). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi 6,0% các bà 
mẹ cho rằng thời điểm cho trẻ ăn dặm là trước 6 
tháng tuổi và có khoảng một phần ba (33,6%) các 
bà mẹ cho rằng thời điểm này là sau 6 tháng tuổi. 
Do đó có thể thấy dù đánh giá theo tiêu chí nào 
thì kiến thức của các bà mẹ về vấn đề này là 
chưa tốt. Vì vậy cần tăng cường tuyên truyền, 
phổ biến kiến thức về thời điểm cho trẻ ăn dặm 
nhiều hơn nữa để các bà mẹ biết được và thực 
hành đúng. 
Thời điểm cai sữa mẹ 
TCYTTG khuyến cáo cho trẻ bú sữa mẹ đến 
ít nhất 24 tháng tuổi(3). Tuy nhiên trong thực tế 
đây còn là vấn đề khó thực hiện đối với các bà 
mẹ. Theo các nghiên cứu trước đây tỉ lệ các bà 
mẹ cho trẻ cai sữa mẹ đúng thời điểm là rất thấp. 
Nghiên cứu của tác giả Đoàn Thị Kim Ngân năm 
2004 thì có đến 80% trong tổng số 600 bà mẹ cho 
con cai sữa mẹ trước 12 tháng tuổi(2). Kết quả 
nghiên cứu của tác giả Lương Thị Thu Hà năm 
2008 thì tỉ lệ bà mẹ cho trẻ cai sữa mẹ trước 24 
tháng là 86,3% và những trẻ được cai sữa mẹ 
trước 18 tháng tuổi có nguy cơ bị SDD nhẹ cân 
cao gấp 2,55 lần(6). Nghiên cứu của tác giả Lương 
Ngọc Trương năm 2013 trên 850 bà mẹ thì tỉ lệ 
này là 86%(5). Tuy nhiên theo nghiên cứu của tác 
giả Oche M. và các cộng sự tại thị trấn Kware, 
bang Sokoto, Nigeria năm 2011 thì có đến 70,4% 
trong 179 bà mẹ cho trẻ bú mẹ đến hơn 20 tháng 
tuổi(11). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ các bà 
mẹ cho rằng thời điểm cai sữa mẹ cho trẻ trước 
12 tháng tuổi là 7,8%, từ 12 - 24 tháng tuổi là 
57,2% và sau 24 tháng tuổi là 34,7%. Vì vậy trong 
thực hành thì đa số các bà mẹ cho trẻ cai sữa mẹ 
trước 24 tháng (67,1%) và chỉ có 32,9% các bà mẹ 
cho trẻ cai sữa mẹ sau 24 tháng. Tỉ lệ bà mẹ có 
kiến thức không đúng và thực hành cai sữa mẹ 
cho trẻ không đúng khá cao. Việc các bà mẹ cho 
con cai sữa sớm hơn khuyến cáo có thể vì chưa 
có kiến thức đúng, không nhận biết được tầm 
quan trọng của vấn đề này hoặc do những khó 
khăn, tính chất công việc nên không thể duy trì 
cho trẻ bú mẹ đến 24 tháng tuổi. Do đó cần tăng 
cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức 
về thời điểm cho trẻ cai sữa mẹ, đồng thời có 
những giải pháp, chế độ hỗ trợ nhằm giúp đỡ 
các bà mẹ trong việc kéo dài thời gian nuôi con 
bằng sữa mẹ. 
Thành phần bữa ăn của trẻ 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có 30,9% 
các bà mẹ không biết bữa ăn hằng ngày của trẻ 
phải có đủ 4 nhóm thức ăn. Theo kết quả nghiên 
cứu của tác giả Nguyễn Phước Hưng năm 2003 
thì 73% trong tổng số 384 bà mẹ không có kiến 
thức đúng về vấn đề này(9). Nghiên cứu của tác 
giả Đoàn Thị Kim Ngân năm 2004 trên 600 bà 
mẹ thì tỉ lệ này là 62%(2). 
Khi xét mối liên quan giữa kiến thức về 
thành phần các nhóm thức ăn trong bữa ăn với 
tình trạng SDD của trẻ cho thấy những bà mẹ 
không biết bữa ăn của trẻ phải có đủ 4 nhóm 
thức ăn thì tỉ lệ SDD nhẹ cân của trẻ sẽ cao hơn 
có ý nghĩa thống kê so với những bà mẹ có kiến 
thức đúng (p < 0,001). Kết quả này cũng tương tự 
như nghiên cứu của tác giả Đoàn Thị Kim Ngân, 
những bà mẹ không biết về vấn đề này thì nguy 
cơ SDD nhẹ cân của trẻ tăng 3,18 lần(2). Kết quả 
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Phước Hưng thì 
những bà mẹ không biết thành phần bữa ăn của 
trẻ phải có đủ 4 nhóm thức ăn thì mức độ SDD 
thể nhẹ cân của trẻ sẽ nặng hơn(9). 
Khi chúng tôi khảo sát về bữa ăn trong 
ngày hôm qua của trẻ thì có 3,1% các bà mẹ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 49
không cho trẻ ăn rau và 20,0% các bà mẹ 
không thêm dầu hoặc mỡ vào trong các bữa ăn 
của trẻ. Kết quả này phù hợp với phần kiến 
thức của bà mẹ khi có 8,0% các bà mẹ không 
biết trong mỗi bữa ăn của trẻ cần có chất xơ, 
vitamin và 29,4% không biết cần có chất béo 
trong bữa ăn hằng ngày của trẻ. Nghiên cứu 
của tác giả Nguyễn Phước Hưng về bữa ăn 
hằng ngày của trẻ thì tỉ lệ bà mẹ không cho trẻ 
ăn rau xanh là 15,0%, không cho ăn dầu, mỡ là 
34,2%(9). Có thể thấy đa số các bà mẹ có kiến 
thức và thực hành tốt về việc cho trẻ ăn rau 
xanh nhưng kiến thức và thực hành về việc 
cho trẻ ăn dầu, mỡ thì chưa tốt. 
Kết quả phân tích cho thấy những bà mẹ 
thực hành không đúng về vấn đề này thì tỉ lệ 
SDD nhẹ cân của trẻ sẽ cao hơn có ý nghĩa thống 
kê so với những bà mẹ có thực hành đúng (p < 
0,001). Kết quả nghiên cứu của tác giả Đoàn Thị 
Kim Ngân thì những trẻ không được bổ sung 
dầu ăn hoặc mỡ vào các bữa ăn thì nguy cơ SDD 
nhẹ cân tăng 1,48 lần(2). Điều này cho thấy việc 
cho trẻ ăn thức ăn thuộc nhóm chất béo hằng 
ngày là rất quan trọng. Hiện nay nhiều người 
cho rằng các thức ăn thuộc nhóm chất béo như 
dầu thực vật, mỡ động vật là một trong những 
nguy cơ của bệnh tim mạch, ảnh hưởng xấu đến 
sức khỏe nên họ không cho rằng đó là nhóm 
thức ăn cần thiết và rất hạn chế sử dụng. Tuy 
nhiên chất béo là nhóm thức ăn cung cấp năng 
lượng, giúp hấp thụ các vitamin tan trong dầu. 
Trong mỗi bữa ăn của trẻ cần phải có đủ 4 nhóm 
chất cơ bản thì mới cung cấp đầy đủ các dưỡng 
chất cho sự phát triển của cơ thể. Do đó cần tăng 
cường tuyên truyền phổ biến hơn nữa vai trò 
của chất béo đối với cơ thể cũng như việc sử 
dụng nhóm thức ăn chất béo cùng các nhóm 
thức ăn khác với một tỉ lệ hài hòa trong mỗi bữa 
ăn của trẻ là điều rất cần thiết. 
Tiêm ngừa cho trẻ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết các 
bà mẹ đều đồng ý với việc cho trẻ đi tiêm ngừa 
đầy đủ theo lịch tiêm chủng (99,6%), chỉ có 0,4% 
các bà mẹ không có thái độ đúng đối với vấn đề 
này. Trong phần thực hành chỉ có 2,2% các bà 
mẹ không đưa trẻ đi tiêm ngừa đầy đủ. Nghiên 
cứu của tác giả Thái Kim Yến thực hiện năm 
2007 cũng cho kết quả tương tự khi chỉ có 2,0% 
trong tổng số 802 bà mẹ không đưa con đi tiêm 
ngừa đầy đủ(13). Có thể thấy hầu hết các bà mẹ 
đều nhận thức được tầm quan trọng của việc 
tiêm ngừa cho trẻ và đã thực hiện rất tốt. 
Bổ sung vitamin A cho trẻ 
Vitamin A là một thành phần dinh dưỡng 
cần thiết cho cơ thể. Chất béo cần thiết cho sự 
hấp thu vitamin A, chất đạm cần thiết cho việc 
sử dụng vitamin A. Do đó có thể xem thiếu 
vitamin A là chỉ số đánh giá chung thiếu dinh 
dưỡng. Hiện nay nước ta đang triển khai 
chương trình cho trẻ dưới 5 tuổi uống vitamin A 
liều cao mỗi năm 2 lần để đề phòng thiếu 
vitamin A. Đây là biện pháp hữu hiệu đang 
được áp dụng ở nhiều nước, nhưng cần xem đây 
là một biện pháp ngắn hạn còn biện pháp chính 
vẫn là hướng dẫn cách nuôi con hợp lý với việc 
nuôi con bằng sữa mẹ và cung cấp các thực 
phẩm giàu vitamin A và Caroten. Kết quả 
nghiên cứu của tác giả Đoàn Thị Kim Ngân thì 
có đến 43,2% các bà mẹ không biết được lợi ích 
của vitamin A và 14,7% các bà mẹ không cho trẻ 
uống vitamin A mỗi 6 tháng(2). Theo nghiên cứu 
của tác giả Thái Kim Yến thì tỉ lệ này chỉ là 
7,0%(13). Trong nghiên cứu của chúng tôi 3,3% các 
bà mẹ không có kiến thức đúng về việc bổ sung 
vitamin A cho trẻ. 
Tẩy giun cho trẻ 
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột cũng là 
nguyên nhân quan trọng gây ra SDD, thiếu vi 
chất dinh dưỡng. Đây là vấn đề sức khỏe cộng 
đồng ở các nước đang phát triển do điều kiện vệ 
sinh môi trường không đảm bảo. Nhiễm giun 
làm cho trẻ chán ăn, giảm hấp thu các chất dinh 
dưỡng, thiếu máu và gây ảnh hưởng đến tình 
trạng dinh dưỡng của trẻ. Ở nước ta, chương 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015
Chuyên Đề Nhi Khoa 50
trình tẩy giun mỗi 6 tháng được áp dụng cho trẻ 
trên 2 tuổi. Bộ Y tế cũng đã có hướng dẫn bổ 
sung vitamin A cho trẻ 6 - 60 tháng tuổi kết hợp 
với tẩy giun cho trẻ 12 - 60 tháng tuổi. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi có 18,4% các bà mẹ 
không biết được cách tẩy giun cho trẻ và trong 
thực hành có 11,3% các bà mẹ không tẩy giun 
cho trẻ trong 6 tháng qua. Đây là một kết quả 
đáng mừng, cho thấy các bà mẹ đã nhận thức 
được tầm quan trọng của việc tẩy giun cho trẻ và 
đã thực hành khá tốt. Kết quả phân tích cho thấy 
những trẻ không tẩy giun trong 6 tháng qua có tỉ 
lệ SDD nhẹ cân và SDD thấp còi đều cao hơn có 
ý nghĩa thống kê so với những trẻ được tẩy giun 
(p < 0,001 và p = 0,001). Điều này cho thấy tẩy 
giun cho trẻ là một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa 
thiết thực tại địa phương và cần được chú trọng 
phổ biến, triển khai. 
Theo dõi cân nặng của trẻ 
Theo dõi cân nặng của trẻ là việc làm cần 
thiết. Trẻ trong độ tuổi mẫu giáo cần được 
theo dõi cân nặng mỗi 3 tháng để sớm phát 
hiện các dấu hiệu đứng cân hoặc sụt cân, từ đó 
điều chỉnh dinh dưỡng cho hợp lý. Trẻ học ở 
các trường mẫu giáo tại thành phố Mỹ Tho 
được nhà trường theo dõi cân nặng mỗi 3 
tháng. Tuy nhiên kết quả khảo sát có đến 
12,2% các bà mẹ không biết được cân nặng của 
con mình trong 3 tháng qua. Nghiên cứu trước 
đó của tác giả Đoàn Thị Kim Ngân cũng có kết 
quả tương tự (17,3% các bà mẹ không theo dõi 
cân nặng của trẻ thường xuyên)(2). Điều này 
cho thấy cũng có không ít các bà mẹ không 
hiểu đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của việc 
theo dõi cân nặng của trẻ. 
Ảnh hưởng của SDD đối với trẻ 
Theo kết quả khảo sát thì tỉ lệ các bà mẹ 
không biết SDD làm cho trẻ dễ bệnh tật là 
15,1%, không biết SDD ảnh hưởng đến sự phát 
triển trí thông minh của trẻ là 9,3% và 0,8% các 
bà mẹ cho rằng SDD không ảnh hưởng gì 
nghiêm trọng. Tính chung, tỉ lệ các bà mẹ 
không biết được những ảnh hưởng của SDD 
đối với trẻ là 19,2%. Điều này cho thấy cũng 
không ít các bà mẹ không quan tâm đến SDD 
ở trẻ em. Do đó phải tăng cường tuyên truyền 
kiến thức về SDD cho các bà mẹ để họ biết 
được và chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tốt hơn, 
phòng tránh được tình trạng SDD. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ các bà mẹ có kiến thức chung không 
đúng là 29,8%. 
Tỉ lệ các bà mẹ có thái độ chung không đúng 
là 41,4%. 
Tỉ lệ các bà mẹ có thực hành chung không 
đúng là 27,3%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y Tế, Viện Dinh Dưỡng, UNICEF (2010), Tổng điều tra 
dinh dưỡng năm 2009-2010, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 
2. Đoàn Thị Kim Ngân (2004), Tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5 
tuổi và kiến thức, thực hành của bà mẹ về cách nuôi con tại 
quận 5 thành phố Hồ Chí Minh năm 2003, Luận văn Thạc sĩ Y 
học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 
3. Hà Huy Khôi, Từ Giấy (2005), Dinh dưỡng hợp lý và sức 
khỏe, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.84 - 307. 
4. Huỳnh Văn Sơn (2004), Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con 
bằng sữa mẹ của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi ở huyện 
Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam năm 2003, Luận văn Thạc sĩ Y 
học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh 
5. Lương Ngọc Trương (2013), "Nghiên cứu kiến thức, thực 
hành nuôi dưỡng trẻ dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên 
quan tới suy dinh dưỡng thấp còi tại 3 huyện Cẩm Thủy, Tĩnh 
Gia, Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa năm 2011", Tạp chí Phụ sản, tập 
11(số 3), tr.96-100. 
6. Lương Thị Thu Hà (2008), Nghiên cứu thực trạng suy dinh 
dưỡng thiếu protein, năng lượng ở trẻ dưới 5 tuổi tại hai xã 
của huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Y 
học Dự phòng, Đại học Y khoa Thái Nguyên. 
7. Mohammed ES, Ghazawy ER, Hassan EE (2014), 
"Knowledge, Attitude, and Practices of Breastfeeding and 
Weaning Among Mothers of Children up to 2 Years Old in a 
Rural Area in El-Minia Governorate, Egypt", J Family Med 
Prim Care, 3(2), pp. 136-140. 
8. Nguyễn Lê Thành (2005), Tỉ lệ suy dinh dưỡng và mối liên 
quan giữa kiến thức dinh dưỡng của người mẹ với tình trạng 
dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Dầu Tiếng tỉnh 
Bình Dương, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược thành 
phố Hồ Chí Minh. 
9. Nguyễn Phước Hưng (2003), Kiến thức, thái độ, thực hành về 
nuôi dưỡng của bà mẹ có con suy dinh dưỡng tại bệnh viện 
Nhi đồng 1 năm 2002, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y 
Dược thành phố Hồ Chí Minh. 
10. Nguyễn Thị Như Hoa (2011), Tình trạng dinh dưỡng và một 
số yếu tố liên quan của trẻ dưới 5 tuổi huyện Yên Thủy tỉnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 51
Hòa Bình năm 2011, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ đa khoa, Đại 
học Y Hà Nội. 
11. Oche MO, Umar AS, Ahmed H (2011), "Knowledge and 
practice of exclusive breastfeeding in Kware, Nigeria", Afr 
Health Sci, 11(3), pp. 518-523. 
12. Saadeh R. J., Labbok M. H., Cooney K. A. et al. (1993), Breast-
feeding: The technical basis and recommendations for action, 
WHO, Geneva, Switzerland, pp.1-14. 
13. Thái Kim Yến (2008), Tỉ lệ suy dinh dưỡng và các yếu tố liên 
quan đến suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại quận Bình 
Thủy thành phố Cần Thơ năm 2007, Luận án Chuyên khoa 
cấp II, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 
14. Vyas S, Kandpal SD, Semwal J, et al. (2014), "Trends in 
Weaning Practices among Infants and Toddlers in a Hilly 
Terrain of a Newly Formed State of India", Int J Prev Med, 
5(6), pp. 741-748. 
15. Wong H. J., Moy F. M., Nair S. (2014), "Risk factors of 
malnutrition among preschool children in Terengganu, 
Malaysia: a case control study", BMC Public Health, 14, pp. 
785. 
Ngày nhận bài báo: 12/01/15. 
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 23/01/15. 
Ngày bài báo được đăng: 22/06/15. 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thai_do_thuc_hanh_nuoi_con_cua_ba_me_co_tre_o_cac.pdf