Kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019

Tại Việt Nam, trẻ em vẫn đang được sử dụng vắc xin bại liệt đường uống 2 tuýp (bOPV) và bổ sung thêm vắc xin bại liệt đường tiêm (IPV) để phòng chống bệnh bại liệt. Tuy nhiên, IPV là một loại vắc xin mới được triển khai rộng rãi trên cả nước từ năm 2018 và các nghiên cứu về vắc xin này còn hạn chế. Do vậy, nghiên cứu được tiến hành nhằm mô tả kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019. Kết quả nghiên cứu có thấy, có 44,4% nhân viên y tế có kiến thức đạt về tiêm phòng vắc xin. Tỷ lệ nhân viên y tế biết về liều tiêm IPV là 82,7% và có 84,0% nhân viên biết về tác dụng của sử dụng kết hợp vắc xin bại liệt đường uống và đường tiêm. Về thái độ, có 45,7% nhân viên y tế có thái độ chung tốt về tiêm phòng vắc xin. Tỷ lệ nhân viên y tế có thái độ tốt về hiệu quả của vắc xin tiêm tốt hơn uống là 69,1% và tỷ lệ nhân viên có thái độ tốt về tầm quan trọng của tập huấn về tiêm vắc xin là 48,1%. Chỉ có 25,9% cán bộ y tế có thái độ tốt với ý kiến cho trẻ dưới 1 tuổi của người thân đi tiêm IPV. Nhìn chung, kiến thức và thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV còn chưa cao, nên việc tăng cường tập huấn, hỗ trợ nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ của các nhân viên y tế tuyến xã là rất cần thiết

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019

Kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn 101
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ VỀ TIÊM PHÒNG 
VẮC XIN IPV CHO TRẺ EM DƯỚI 1 TUỔI TẠI MỘT SỐ XÃ CỦA 
TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2019
Nguyễn Thị Ái1, Phan Thu Nga1, Nguyễn Văn Tiến1, Đỗ Mạnh Tiến2,
Nguyễn Hà My1, Ngô Văn Đông1, Trần Quốc Kham1
TÓM TẮT
Tại Việt Nam, trẻ em vẫn đang được sử dụng vắc 
xin bại liệt đường uống 2 tuýp (bOPV) và bổ sung thêm 
vắc xin bại liệt đường tiêm (IPV) để phòng chống bệnh 
bại liệt. Tuy nhiên, IPV là một loại vắc xin mới được 
triển khai rộng rãi trên cả nước từ năm 2018 và các 
nghiên cứu về vắc xin này còn hạn chế. Do vậy, nghiên 
cứu được tiến hành nhằm mô tả kiến thức, thái độ của 
nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em 
dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019. 
Kết quả nghiên cứu có thấy, có 44,4% nhân viên y tế có 
kiến thức đạt về tiêm phòng vắc xin. Tỷ lệ nhân viên 
y tế biết về liều tiêm IPV là 82,7% và có 84,0% nhân 
viên biết về tác dụng của sử dụng kết hợp vắc xin bại 
liệt đường uống và đường tiêm. Về thái độ, có 45,7% 
nhân viên y tế có thái độ chung tốt về tiêm phòng vắc 
xin. Tỷ lệ nhân viên y tế có thái độ tốt về hiệu quả của 
vắc xin tiêm tốt hơn uống là 69,1% và tỷ lệ nhân viên 
có thái độ tốt về tầm quan trọng của tập huấn về tiêm 
vắc xin là 48,1%. Chỉ có 25,9% cán bộ y tế có thái độ 
tốt với ý kiến cho trẻ dưới 1 tuổi của người thân đi tiêm 
IPV. Nhìn chung, kiến thức và thái độ của nhân viên y tế 
về tiêm phòng vắc xin IPV còn chưa cao, nên việc tăng 
cường tập huấn, hỗ trợ nâng cao kiến thức, thay đổi thái 
độ của các nhân viên y tế tuyến xã là rất cần thiết.
Từ khóa: Kiến thức, thái độ, vắc xin IPV, Thái Bình.
ABSTRACT:
KNOWLEDGE, ATTITUDE OF HEALTH 
WORKERS ON IPV VACCINATION FOR THE 
CHILDREN UNDER 1 YEAR OLD IN SOME 
COMMUNES OF THAI BINH PROVINCE IN 2019
In Vietnam, the oral polio vaccine (bOPV) and the 
inactivated polio vaccine (IPV) are still being used to 
protect children from poliomyelitis. However, IPV is a 
new vaccine that has been deployed across the country 
since 2018 and there is a limiation upon researching on this 
vaccine. Therefore, the study was conducted to describe 
the knowledge and attitude of health workers about IPV 
vaccination for children under 1 yea in some communes 
of Thai Binh Province in 2019. The result shows that 
there is 44,4 percent of health workers are knowledgeable 
about vaccination. The proportion of health workers who 
know about the IPV dose is 82,7% and 84,0% of the staffs 
know about the effects of using the combination of oral 
and inactivated polio vaccine. In terms of attitude, 45,7% 
of health workers have a good overall attitude about 
vaccination. The percentage of health workers who had a 
good attitude towards the better effectiveness of injected 
vaccine was 69,1% and a percentage of staffs with a good 
attitude about the importance of vaccine injection training 
was 48,1%. Only 25,9% of health workers had a good 
attitude to the idea that infants of their relatives would 
receive IPV. In general, the knowledge and attitude of 
health workers about IPV vaccination are not high, so the 
enhancement of training, support to improve knowledge 
and change attitudes of commune health workers is 
necessary.
Key words: Knowledge, attitude, IPV vaccination, 
Thai Binh.
Ngày nhận bài: 13/11/2019 Ngày phản biện: 20/11/2019 Ngày duyệt đăng: 27/11/2019
1. Khoa Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Dược Thái Bình
Tác giả chính Nguyễn Thị Ái, Email: [email protected], SĐT: 0984391406
2. Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển (PHAD)
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn102
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh bại liệt là một trong những nguyên nhân gây tử 
vong hàng đầu và để lại di chứng nặng nề ở trẻ dưới 5 tuổi. 
Hiện nay, không có thuốc điều trị bệnh nhưng bệnh lại có 
khả năng dự phòng nhờ sử dụng vắc xin bại liệt. Tại Việt 
Nam, nhờ duy trì triển khai việc uống vắc xin phòng bệnh 
bại liệt nhiều năm, nước ta đã chính thức công bố thanh 
toán bệnh bại liệt vào năm 2000 và từ đó đến nay vẫn đang 
duy trì được thành quả này [2].
Thực hiện chiến lược của Tổ chức Y tế Thế giới, Bộ 
Y tế đã phê duyệt kế hoạch “Bảo vệ thành quả thanh toán 
bại liệt ở Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020” trong đó vẫn 
duy trì vắc xin bại liệt uống 2 tuýp (bOPV) và bổ sung 
thêm vắc xin bại liệt tiêm (IPV) trong chương trình tiêm 
chủng mở rộng [3]. Vắc xin bại liệt tiêm IPV là vắc xin 
bất hoạt, chứa các tuýp virut bại liệt đã chết, được sử dụng 
dưới dạng vắc xin tiêm. Chế phẩm IPV có ưu điểm an toàn 
rất cao, không gây ra hiện tượng bại liệt liên quan tới vắc 
xin do các c-VDPV, đồng thời có khả năng tạo ra kháng 
thể trong hệ tuần hoàn là chính. Tiêm 1 mũi vắc xin IPV 
có chứa cả 3 tuýp kháng nguyên bại liệt tuýp 1, 2 và 3 giúp 
tăng cường miễn dịch đối với tuýp 1 và tuýp 3; đồng thời 
gây miễn dịch phòng bệnh đối với tuýp 2 cho trẻ sử dụng 
3 liều bOPV [3].
Tuy nhiên các nghiên cứu về vắc xin mới này còn 
rất hạn chế, do vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Kiến 
thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin 
IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái 
Bình năm 2019” với mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ 
của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em 
dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: 3 xã thuộc huyện Đông Hưng 
và 3 xã huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
- Đối tượng nghiên cứu: Nhân viên y tế đang làm 
việc ở TYT xã và nhân viên y tế thôn ở các xã tại địa bàn 
nghiên cứu.
- Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành từ 
tháng 12/2018 đến tháng 07/2019.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp dịch tễ 
học mô tả qua cuộc điều tra cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Cỡ mẫu
Chọn toàn bộ nhân viên y tế tại 6 trạm y tế xã và nhân 
viên y tế thôn của các xã thuộc địa bàn nghiên cứu. Thực 
tế điều tra là 81 đối tượng.
- Phương pháp chọn mẫu
Chọn chủ đích 2 huyện nghiên cứu.
+ Bước 1: Chọn chủ đích huyện Đông Hưng và huyện 
Kiến Xương.
+ Bước 2: Lập danh sách các xã trên địa bàn 
nghiên cứu. 
+ Bước 3: Chọn ngẫu nhiên 3 xã trực thuộc huyện 
Đông Hưng: kết quả lựa chọn được 3 xã Đông Hoàng, 
Đông Dương, Nguyên Xá. Chọn 3 xã trực thuộc huyện 
Kiến Xương, kết quả chọn được 3 xã Vũ Ninh, Vũ Lễ, 
Bình Nguyên tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
+ Bước 4: Chọn đối tượng nghiên cứu tại mỗi xã: 
Chọn tất cả nhân viên y tế tại trạm và nhân viên y tế thôn 
của các xã thuộc địa bàn nghiên cứu để phỏng vấn kiến 
thức và thái độ về vắc xin IPV phòng bệnh bại liệt.
2.3. Thu thập số liệu
Phỏng vấn đối tượng theo phiếu phỏng vấn đã lập sẵn.
2.4. Xử lý số liệu
- Làm sạch số liệu để hạn chế lỗi sau điều tra và nhập 
số liệu. Nhập số liệu bằng phần mềm Epi Data 3.1, sau đó 
số liệu được chuyển sang SPSS 22.0 để phân tích.
- Sử dụng các thuật toán để xác định tần số, tỷ lệ (%), 
giá trị trung bình, max, min và sử dụng các bảng, biểu 
đồ để mô tả kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm 
phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi.
III. KẾT QUẢ
Kiến thức của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin 
IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn 103
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Biểu đồ 1. Kiến thức của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV (n=81)
Bảng 1. Tỷ lệ nhân viên y tế biết dung tích lạnh và nhiệt độ cần thiết để bảo quản vắc xin IPV (n=81)
Nội dung
Đông Hưng (n=39) Kiến Xương (n=42) Chung (n=81)
n % n % n %
Dung tích lạnh
(cm3)
2,46 32 82,1 11 26,2 43 53,1
3,0 1 2,6 2 4,8 3 3,7
2,0 0 0,0 7 16,7 7 8,6
Không biết 6 15,4 22 52,4 28 34,6
Nhiệt độ cần thiết
(oC)
2 – 8 39 100,0 29 69,0 68 84,0
9 – 15 0 0,0 7 16,7 7 8,6
16 – 20 0 0,0 2 4,8 2 2,5
Không biết 0 0,0 4 9,5 4 4,9
Bảng 2. Tỷ lệ đối tượng biết liều tiêm theo địa bàn nghiên cứu (n=81)
Nội dung
Đông Hưng (n=39) Kiến Xương (n=42) Chung (n=81)
n % n % n %
Liều tiêm
0,5 ml 35 89,7 32 76,2 67 82,7
0,22 ml 3 7,7 1 2,4 8 4,9
Không biết 1 2,6 9 21,4 10 12,3
Biểu đồ 1 cho thấy, tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức đạt về tiêm phòng vắc xin chiếm tỷ lệ cao (55,6%).
Kết quả bảng 1 cho thấy, tỷ lệ đối tựợng ở cả hai 
huyện cho rằng dung tích lạnh cần thiết để bảo quản vắc 
xin là 2,46 cm3 chiếm 53,1%. Về nhiệt độ cần thiết, phần 
lớn các đối tượng biết nhiệt độ cần thiết để bản quản vắc 
xin là 2-8oC chiếm 84,0%.
Bảng 2 cho thấy, phần lớn các đối tượng trong nghiên cứu đều biết liều tiêm cho trẻ (82,7%), tỷ lệ này ở huyện Đông 
Hưng là 89,7% và huyện Kiến Xương chiếm 76,2%.
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn104
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
Kết quả bảng 3 cho thấy, phần lớn các đối tượng 
trong nghiên cứu biết tác dụng của việc kết hợp vắc xin 
tiêm và uống là phòng được virus bại liệt ở các tuýp khác 
chiếm 84,0%.
Thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin 
IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi
Kết quả biểu đồ 2 cho thấy, thái độ tốt của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin (45,7%) thấp hơn so với nhóm có 
thái độ không tốt (54,3%).
Thái độ của nhân viên y tế khi được hỏi vắc xin tiêm 
hiệu quả tốt hơn vắc xin uống, kết quả bảng trên cho thấy 
phần lớn đối tượng có thái độ tốt với ý kiến này chiếm 
69,1%, trong đó tại huyện Đông Hưng là 74,4% và tại 
huyện Kiến Xương là 64,3%.
Bảng 3. Kiến thức của nhân viên y tế về tác dụng sử dụng vắc xin kết hợp uống và tiêm (n=81)
Kiến thức
Đông Hưng (n=39) Kiến Xương (n=42) Chung (n=81)
n % n % n %
Không tác dụng gì 0 0,0 4 9,5 4 4,9
Phòng được virus bại liệt ở các tuýp khác 39 100,0 29 69,0 68 84,0
Không biết 0 0,0 9 21,4 9 11,1
Tổng 39 100,0 42 100,0 81 100,0
Biểu đồ 2. Thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV (n=81)
Bảng 4. Thái độ của nhân viên y tế về vắc xin tiêm hiệu quả tốt hơn vắc xin uống
Thái độ
Đông Hưng (n=39) Kiến Xương (n=42) Chung (n=81)
n % n % n %
Tốt 29 74,4 27 64,3 56 69,1
Không tốt 10 25,6 15 35,7 25 30,9
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn 105
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Kết quả bảng 5 cho thấy, phần lớn đối tượng cho rằng 
không cần tập huấn nhân viên y tế về vắc xin IPV trong 
chương trình tiêm chủng mở rộng với tỷ lệ 51,9%, 48,1% 
đồng ý với ý kiến trên.
Khi hỏi nhân viên y tế về việc đồng ý cho trẻ dưới 1 
tuổi là con của người thân trong độ tuổi tiêm chủng đi tiêm 
IPV thì chỉ có 25,9% cán bộ có thái độ tốt với ý kiến này. 
Trong đó tại huyện Đông Hưng là 23,1% và tại huyện Kiến 
Xương là 28,6%.
IV. BÀN LUẬN
Kiến thức của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin 
IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so 
với nghiên cứu của tác giả Dương Anh Dũng và cộng sự, 
với kiến thức của cán bộ y tế làm công tác tiêm chủng 
còn ở mức độ thấp: 20,1% biết về mục tiêu TCMR, 58,7% 
biết chính xác về liều lượng, đường tiêm và vị trí tiêm 
vắc xin [4]. Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Hữu 
Phúc cùng cộng sự cho kết quả: kiến thức và thực hành đầy 
đủ về tiêm chủng của nhân viên y tế còn thấp dưới 70%; 
kiến thức, thực hành bảo quản vắc-xin dưới 80%; và chỉ có 
50% cán bộ giám sát hỗ trợ có kiến thức về các quy định 
tiêm chủng, thực hành đúng giám sát 77,6% [7]. Qua đây 
chúng tôi nhận thấy kiến thức của NVYT về tiêm chủng 
nói chung và vắc xin IPV nói riêng là rất quan trọng. Kiến 
thức của NVYT ảnh hưởng đến quá trình bảo quản vắc 
xin, khám sàng lọc, xử lý các tình huống bất thường xảy 
ra sau tiêm.
Kiến thức của NVYT về nhiệt độ cần thiết, tại huyện 
Đông Hưng là 100% đối tượng biết cần bảo quản ở nhiệt 
độ từ 2-8oC, ở huyện Kiến Xương là 69,0%. Trong nghiên 
cứu của tác giả Nguyễn Tuấn, số NVYT hiểu đúng về 
nhiệt độ bảo quản vắc xin trong dây chuyền lạnh và bảo 
quản ở tuyến xã chiếm tỷ lệ không cao. Biết đúng nhiệt độ 
bảo quản vắc xin trong tủ lạnh đạt 91,7%. Biết đúng liều 
lượng các loại vắc xin đạt từ 95 - 97,5% [8]. Như vậy, việc 
tổ chức các buổi tập huấn về vấn đề tiêm vắc xin IPV và 
bảo quản vắc xin là rất cần thiết.
Tại Việt Nam hiện nay, việc không tiêm quá 1 liều 
của cùng 1 loại vắc xin trong cùng 1 thời gian. Nếu khoảng 
thời gian giữa các liều bị chậm vượt quá khoảng thời gian 
theo lịch tiêm chủng thì tiêm mũi tiếp theo mà không cần 
tiêm lại từ đầu. Nếu liều đầu tiên bị muộn hơn so với lịch 
tiêm chủng vẫn phải duy trì đúng liều lượng và đảm bảo 
khoảng cách tối thiểu giữa các mũi tiêm theo lịch tiêm 
Bảng 5. Thái độ của nhân viên y tế về tầm quan trọng của tập huấn về vắc xin IPV (n=81)
Thái độ
Đông Hưng (n=39) Kiến Xương (n=42) Chung (n=81)
n % n % n %
Tốt 19 48,7 20 45,5 39 48,1
Không tốt 20 51,3 22 55,5 42 51,9
Biểu đồ 3. Thái độ của nhân viên y tế về đồng ý cho trẻ em dưới 1 tuổi của người thân
trong gia đình đi tiêm IPV (n=81)
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn106
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020
chủng [5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy kiến 
thức về kết hợp vắc xin là tương đối tốt, phần lớn các đối 
tượng trong nghiên cứu biết tác dụng của việc kết hợp 
vắc xin tiêm và uống là phòng được virus bại liệt ở các 
tuýp khác, với tỷ lệ này ở huyện Đông Hưng là 100,0% và 
huyện Kiến Xương là 69,0%.
Thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin 
IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi
Trước những kiến thức và phương pháp thực hành 
mới con người sẽ có cách ứng xử khác nhau nếu thái độ của 
mỗi người khác nhau. Thái độ giúp con người hình thành 
sự hứng thú, sự quan tâm đến việc làm của chính mình. 
Không thể dạy thái độ một cách trực tiếp, cách tốt nhất là 
cung cấp cho cá nhân và cộng đồng các kinh nghiệm, bằng 
đóng vai làm mẫu, thảo luận, tự phân tích đánh giá để cá 
nhân và cộng đồng tự hình thành thái độ. Các biện pháp 
thay đổi thái độ để thay đổi hành vi là khó nhất [1].
Trên thực tế, thái độ tích cực sẽ giúp chúng ta đối 
phó dễ dàng hơn với những công việc hàng ngày của cuộc 
sống. Nó mang đến sự lạc quan và sẽ dễ dàng hơn để tránh 
những lo lắng và suy nghĩ tiêu cực. Vì thế, thái độ tích cực 
sẽ giúp các NVYT làm việc hiệu quả hơn. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhân viên y tế 
có thái độ tốt về tiêm phòng vắc xin IPV chiếm 45,7% thấp 
hơn so với nhóm có thái độ không tốt (54,3%). Trong đó, 
tại huyện Đông Hưng tỷ lệ đối tượng có thái độ tốt chiếm 
41,0% và huyện Kiến Xương tỷ lệ này là 50,4%. Phần lớn 
nhân viên y tế đồng ý về việc vắc xin tiêm hiệu quả tốt hơn 
vắc xin uống (69,1%), trong đó tại huyện Đông Hưng là 
74,4% và tại huyện Kiến Xương là 64,3% (bảng 4).
Về thái độ đối với việc tập huấn nhân viên y tế về tiêm 
vắc xin IPV trong chương trình tiêm chủng mở rộng, có 
48,1% đồng ý và 51,9% không đồng ý (bảng 5). Bên cạnh 
đó, cũng chỉ có 25,9% cán bộ đồng ý về việc cho trẻ em 
dưới 1 tuổi là con của người thân trong độ tuổi tiêm chủng 
đi tiêm IPV (tại huyện Đông Hưng là 23,1% và tại huyện 
Kiến Xương là 28,6%), phần lớn rất đồng ý với ý kiến này 
(biểu đồ 3).
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi về thái độ của 
NVYT tương tự như kết quả của tác giả Phí Văn Kiên và 
cộng sự, trong đó tỷ lệ bác sỹ có thái độ tích cực về bệnh 
cúm và việc sử dụng vắc xin cúm là khá cao, các bác sỹ thể 
hiện thái độ tích cực trong việc cần phải khuyến cáo mạnh 
mẽ cho nhân viên y tế tiêm vắc xin cúm (chiếm 89,6%) và 
quan tâm đến vấn đề nhiễm cúm ở những bệnh nhân do các 
bác sỹ điều trị (chiếm 89,3%), ngoài ra 72,1% số bác sỹ thể 
hiện thái độ quan tâm đến bệnh cúm mùa [6].
V. KẾT LUẬN
- Tỷ lệ nhân viên y tế có kiến thức đạt về tiêm phòng 
vắc xin chiếm 44,4%. 
- Tỷ lệ nhân viên y tế biết dung tích lạnh cần thiết 
chiếm 53,1% và biết về nhiệt độ cần thiết để bảo quản vắc 
xin là 84,0%.
- Tỷ lệ nhân viên y tế biết tác dụng của việc kết hợp 
vắc xin tiêm và uống là phòng được virus bại liệt ở các 
tuýp khác chiếm 84,0%.
- Phần lớn nhân viên y tế biết về liều tiêm là 0,5 ml 
chiếm 82,7%.
- Thái độ chung tốt của nhân viên y tế về tiêm phòng 
vắc xin là 45,7%.
- Tỷ lệ nhân viên y tế có thái độ tốt về hiệu qủa của 
vắc xin tiêm tốt hơn uống chiếm 69,1%.
- Có 48,1% nhân viên y tế có thái độ tốt về tầm quan 
trọng của tập huấn về tiêm vắc xin IPV.
- Có 25,9% nhân viên y tế đồng ý về việc cho trẻ dưới 
1 tuổi là con của người thân trong độ tuổi tiêm chủng đi 
tiêm IPV.
KHUYẾN NGHỊ
- Nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ của các nhân 
viên y tế tuyến xã, đặc biệt là nhân viên y tế, nhóm nhân 
viên y tế có trình độ cao đẳng, trung cấp và nhóm nhân 
viên y tế thôn bản về vắc xin IPV.
- Tuyên truyền, vận động tránh tâm lý chủ quan, xem 
nhẹ trong việc học hỏi, tiếp thu kiến thức mới đối với vắc 
xin đặc biệt là những vắc xin mới ở các nhân viên y tế có 
thời gian công tác từ 15 năm trở lên.
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020
Website: yhoccongdong.vn 107
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Tổ chức và Quản lý y tế (2015), Sức khỏe, hành vi sức khỏe, quá trình thay đổi hành vi sức khỏe, Bài 
giảng Truyền thông - giáo dục sức khỏe, Trường Đại học Y Dược Thái Bình.
2. Bộ Y tế (2014), Quyết định về việc ban hành “Hướng dẫn giám sát và phòng chống bệnh bại liệt”.
3. Bộ Y tế (2016), “Quyết định về việc phê duyệt kế hoạch bảo vệ thành quả thanh toán bệnh bại liệt giai đoạn 
2016-2020”.
4. Dương Anh Dũng, Phạm Quang Thái và Hoàng Khải Lập (2017), “Thực trạng tiêm chủng, kiến thức, thái độ 
thực hành tiêm chủng mở rộng tại 2 huyện biên giới của tỉnh Lạng Sơn năm 2015”, Tạp chí Y học Dự phòng, Tập 27, 
số 1 (189), trang 77.
5. Nguyễn Trần Hiển (2014), Hướng dẫn tiêm chủng an toàn, Dự án Tiêm chủng mở rộng, Hà Nội.
6. Phí Văn Kiên và cộng sự (2016), “Kiến thức, thái độ, thực hành về tiêm vaccin cúm mùa của nhân viên y tế hai 
bệnh viện tuyến Trung ương tại Hà Nội năm 2015 và yếu tố liên quan”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, 104 (6), trang 61-68.
7. Nguyễn Hữu Phúc và cộng sự. (2017), “Kiến thức và thực hành tiêm chủng của bà mẹ, cán bộ y tế tại các điểm 
tiêm tỉnh Lâm Đồng, 2016-2017”, Tạp chí Y học dự phòng. Tập 27, số 11.
8. Nguyễn Tuấn, Lê Quang Phong, Võ Viết Quang và cộng sự (2013), “Đánh giá thực trạng công tác tiêm chủng 
mở rộng tại Hà Tĩnh cho trẻ dưới 1 tuổi năm 2013”, Sở Y tế Hà Tĩnh.

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thai_do_cua_nhan_vien_y_te_ve_tiem_phong_vac_xin_i.pdf