Kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019
Tại Việt Nam, trẻ em vẫn đang được sử dụng vắc xin bại liệt đường uống 2 tuýp (bOPV) và bổ sung thêm vắc xin bại liệt đường tiêm (IPV) để phòng chống bệnh bại liệt. Tuy nhiên, IPV là một loại vắc xin mới được triển khai rộng rãi trên cả nước từ năm 2018 và các nghiên cứu về vắc xin này còn hạn chế. Do vậy, nghiên cứu được tiến hành nhằm mô tả kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019. Kết quả nghiên cứu có thấy, có 44,4% nhân viên y tế có kiến thức đạt về tiêm phòng vắc xin. Tỷ lệ nhân viên y tế biết về liều tiêm IPV là 82,7% và có 84,0% nhân viên biết về tác dụng của sử dụng kết hợp vắc xin bại liệt đường uống và đường tiêm. Về thái độ, có 45,7% nhân viên y tế có thái độ chung tốt về tiêm phòng vắc xin. Tỷ lệ nhân viên y tế có thái độ tốt về hiệu quả của vắc xin tiêm tốt hơn uống là 69,1% và tỷ lệ nhân viên có thái độ tốt về tầm quan trọng của tập huấn về tiêm vắc xin là 48,1%. Chỉ có 25,9% cán bộ y tế có thái độ tốt với ý kiến cho trẻ dưới 1 tuổi của người thân đi tiêm IPV. Nhìn chung, kiến thức và thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV còn chưa cao, nên việc tăng cường tập huấn, hỗ trợ nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ của các nhân viên y tế tuyến xã là rất cần thiết
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019
SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn 101 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ VỀ TIÊM PHÒNG VẮC XIN IPV CHO TRẺ EM DƯỚI 1 TUỔI TẠI MỘT SỐ XÃ CỦA TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2019 Nguyễn Thị Ái1, Phan Thu Nga1, Nguyễn Văn Tiến1, Đỗ Mạnh Tiến2, Nguyễn Hà My1, Ngô Văn Đông1, Trần Quốc Kham1 TÓM TẮT Tại Việt Nam, trẻ em vẫn đang được sử dụng vắc xin bại liệt đường uống 2 tuýp (bOPV) và bổ sung thêm vắc xin bại liệt đường tiêm (IPV) để phòng chống bệnh bại liệt. Tuy nhiên, IPV là một loại vắc xin mới được triển khai rộng rãi trên cả nước từ năm 2018 và các nghiên cứu về vắc xin này còn hạn chế. Do vậy, nghiên cứu được tiến hành nhằm mô tả kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019. Kết quả nghiên cứu có thấy, có 44,4% nhân viên y tế có kiến thức đạt về tiêm phòng vắc xin. Tỷ lệ nhân viên y tế biết về liều tiêm IPV là 82,7% và có 84,0% nhân viên biết về tác dụng của sử dụng kết hợp vắc xin bại liệt đường uống và đường tiêm. Về thái độ, có 45,7% nhân viên y tế có thái độ chung tốt về tiêm phòng vắc xin. Tỷ lệ nhân viên y tế có thái độ tốt về hiệu quả của vắc xin tiêm tốt hơn uống là 69,1% và tỷ lệ nhân viên có thái độ tốt về tầm quan trọng của tập huấn về tiêm vắc xin là 48,1%. Chỉ có 25,9% cán bộ y tế có thái độ tốt với ý kiến cho trẻ dưới 1 tuổi của người thân đi tiêm IPV. Nhìn chung, kiến thức và thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV còn chưa cao, nên việc tăng cường tập huấn, hỗ trợ nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ của các nhân viên y tế tuyến xã là rất cần thiết. Từ khóa: Kiến thức, thái độ, vắc xin IPV, Thái Bình. ABSTRACT: KNOWLEDGE, ATTITUDE OF HEALTH WORKERS ON IPV VACCINATION FOR THE CHILDREN UNDER 1 YEAR OLD IN SOME COMMUNES OF THAI BINH PROVINCE IN 2019 In Vietnam, the oral polio vaccine (bOPV) and the inactivated polio vaccine (IPV) are still being used to protect children from poliomyelitis. However, IPV is a new vaccine that has been deployed across the country since 2018 and there is a limiation upon researching on this vaccine. Therefore, the study was conducted to describe the knowledge and attitude of health workers about IPV vaccination for children under 1 yea in some communes of Thai Binh Province in 2019. The result shows that there is 44,4 percent of health workers are knowledgeable about vaccination. The proportion of health workers who know about the IPV dose is 82,7% and 84,0% of the staffs know about the effects of using the combination of oral and inactivated polio vaccine. In terms of attitude, 45,7% of health workers have a good overall attitude about vaccination. The percentage of health workers who had a good attitude towards the better effectiveness of injected vaccine was 69,1% and a percentage of staffs with a good attitude about the importance of vaccine injection training was 48,1%. Only 25,9% of health workers had a good attitude to the idea that infants of their relatives would receive IPV. In general, the knowledge and attitude of health workers about IPV vaccination are not high, so the enhancement of training, support to improve knowledge and change attitudes of commune health workers is necessary. Key words: Knowledge, attitude, IPV vaccination, Thai Binh. Ngày nhận bài: 13/11/2019 Ngày phản biện: 20/11/2019 Ngày duyệt đăng: 27/11/2019 1. Khoa Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Dược Thái Bình Tác giả chính Nguyễn Thị Ái, Email: [email protected], SĐT: 0984391406 2. Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển (PHAD) SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn102 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh bại liệt là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu và để lại di chứng nặng nề ở trẻ dưới 5 tuổi. Hiện nay, không có thuốc điều trị bệnh nhưng bệnh lại có khả năng dự phòng nhờ sử dụng vắc xin bại liệt. Tại Việt Nam, nhờ duy trì triển khai việc uống vắc xin phòng bệnh bại liệt nhiều năm, nước ta đã chính thức công bố thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000 và từ đó đến nay vẫn đang duy trì được thành quả này [2]. Thực hiện chiến lược của Tổ chức Y tế Thế giới, Bộ Y tế đã phê duyệt kế hoạch “Bảo vệ thành quả thanh toán bại liệt ở Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020” trong đó vẫn duy trì vắc xin bại liệt uống 2 tuýp (bOPV) và bổ sung thêm vắc xin bại liệt tiêm (IPV) trong chương trình tiêm chủng mở rộng [3]. Vắc xin bại liệt tiêm IPV là vắc xin bất hoạt, chứa các tuýp virut bại liệt đã chết, được sử dụng dưới dạng vắc xin tiêm. Chế phẩm IPV có ưu điểm an toàn rất cao, không gây ra hiện tượng bại liệt liên quan tới vắc xin do các c-VDPV, đồng thời có khả năng tạo ra kháng thể trong hệ tuần hoàn là chính. Tiêm 1 mũi vắc xin IPV có chứa cả 3 tuýp kháng nguyên bại liệt tuýp 1, 2 và 3 giúp tăng cường miễn dịch đối với tuýp 1 và tuýp 3; đồng thời gây miễn dịch phòng bệnh đối với tuýp 2 cho trẻ sử dụng 3 liều bOPV [3]. Tuy nhiên các nghiên cứu về vắc xin mới này còn rất hạn chế, do vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019” với mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi tại một số xã của tỉnh Thái Bình năm 2019. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu: 3 xã thuộc huyện Đông Hưng và 3 xã huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. - Đối tượng nghiên cứu: Nhân viên y tế đang làm việc ở TYT xã và nhân viên y tế thôn ở các xã tại địa bàn nghiên cứu. - Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 12/2018 đến tháng 07/2019. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp dịch tễ học mô tả qua cuộc điều tra cắt ngang. 2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu - Cỡ mẫu Chọn toàn bộ nhân viên y tế tại 6 trạm y tế xã và nhân viên y tế thôn của các xã thuộc địa bàn nghiên cứu. Thực tế điều tra là 81 đối tượng. - Phương pháp chọn mẫu Chọn chủ đích 2 huyện nghiên cứu. + Bước 1: Chọn chủ đích huyện Đông Hưng và huyện Kiến Xương. + Bước 2: Lập danh sách các xã trên địa bàn nghiên cứu. + Bước 3: Chọn ngẫu nhiên 3 xã trực thuộc huyện Đông Hưng: kết quả lựa chọn được 3 xã Đông Hoàng, Đông Dương, Nguyên Xá. Chọn 3 xã trực thuộc huyện Kiến Xương, kết quả chọn được 3 xã Vũ Ninh, Vũ Lễ, Bình Nguyên tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. + Bước 4: Chọn đối tượng nghiên cứu tại mỗi xã: Chọn tất cả nhân viên y tế tại trạm và nhân viên y tế thôn của các xã thuộc địa bàn nghiên cứu để phỏng vấn kiến thức và thái độ về vắc xin IPV phòng bệnh bại liệt. 2.3. Thu thập số liệu Phỏng vấn đối tượng theo phiếu phỏng vấn đã lập sẵn. 2.4. Xử lý số liệu - Làm sạch số liệu để hạn chế lỗi sau điều tra và nhập số liệu. Nhập số liệu bằng phần mềm Epi Data 3.1, sau đó số liệu được chuyển sang SPSS 22.0 để phân tích. - Sử dụng các thuật toán để xác định tần số, tỷ lệ (%), giá trị trung bình, max, min và sử dụng các bảng, biểu đồ để mô tả kiến thức, thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi. III. KẾT QUẢ Kiến thức của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn 103 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Biểu đồ 1. Kiến thức của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV (n=81) Bảng 1. Tỷ lệ nhân viên y tế biết dung tích lạnh và nhiệt độ cần thiết để bảo quản vắc xin IPV (n=81) Nội dung Đông Hưng (n=39) Kiến Xương (n=42) Chung (n=81) n % n % n % Dung tích lạnh (cm3) 2,46 32 82,1 11 26,2 43 53,1 3,0 1 2,6 2 4,8 3 3,7 2,0 0 0,0 7 16,7 7 8,6 Không biết 6 15,4 22 52,4 28 34,6 Nhiệt độ cần thiết (oC) 2 – 8 39 100,0 29 69,0 68 84,0 9 – 15 0 0,0 7 16,7 7 8,6 16 – 20 0 0,0 2 4,8 2 2,5 Không biết 0 0,0 4 9,5 4 4,9 Bảng 2. Tỷ lệ đối tượng biết liều tiêm theo địa bàn nghiên cứu (n=81) Nội dung Đông Hưng (n=39) Kiến Xương (n=42) Chung (n=81) n % n % n % Liều tiêm 0,5 ml 35 89,7 32 76,2 67 82,7 0,22 ml 3 7,7 1 2,4 8 4,9 Không biết 1 2,6 9 21,4 10 12,3 Biểu đồ 1 cho thấy, tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức đạt về tiêm phòng vắc xin chiếm tỷ lệ cao (55,6%). Kết quả bảng 1 cho thấy, tỷ lệ đối tựợng ở cả hai huyện cho rằng dung tích lạnh cần thiết để bảo quản vắc xin là 2,46 cm3 chiếm 53,1%. Về nhiệt độ cần thiết, phần lớn các đối tượng biết nhiệt độ cần thiết để bản quản vắc xin là 2-8oC chiếm 84,0%. Bảng 2 cho thấy, phần lớn các đối tượng trong nghiên cứu đều biết liều tiêm cho trẻ (82,7%), tỷ lệ này ở huyện Đông Hưng là 89,7% và huyện Kiến Xương chiếm 76,2%. SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn104 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020 Kết quả bảng 3 cho thấy, phần lớn các đối tượng trong nghiên cứu biết tác dụng của việc kết hợp vắc xin tiêm và uống là phòng được virus bại liệt ở các tuýp khác chiếm 84,0%. Thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi Kết quả biểu đồ 2 cho thấy, thái độ tốt của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin (45,7%) thấp hơn so với nhóm có thái độ không tốt (54,3%). Thái độ của nhân viên y tế khi được hỏi vắc xin tiêm hiệu quả tốt hơn vắc xin uống, kết quả bảng trên cho thấy phần lớn đối tượng có thái độ tốt với ý kiến này chiếm 69,1%, trong đó tại huyện Đông Hưng là 74,4% và tại huyện Kiến Xương là 64,3%. Bảng 3. Kiến thức của nhân viên y tế về tác dụng sử dụng vắc xin kết hợp uống và tiêm (n=81) Kiến thức Đông Hưng (n=39) Kiến Xương (n=42) Chung (n=81) n % n % n % Không tác dụng gì 0 0,0 4 9,5 4 4,9 Phòng được virus bại liệt ở các tuýp khác 39 100,0 29 69,0 68 84,0 Không biết 0 0,0 9 21,4 9 11,1 Tổng 39 100,0 42 100,0 81 100,0 Biểu đồ 2. Thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV (n=81) Bảng 4. Thái độ của nhân viên y tế về vắc xin tiêm hiệu quả tốt hơn vắc xin uống Thái độ Đông Hưng (n=39) Kiến Xương (n=42) Chung (n=81) n % n % n % Tốt 29 74,4 27 64,3 56 69,1 Không tốt 10 25,6 15 35,7 25 30,9 SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn 105 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Kết quả bảng 5 cho thấy, phần lớn đối tượng cho rằng không cần tập huấn nhân viên y tế về vắc xin IPV trong chương trình tiêm chủng mở rộng với tỷ lệ 51,9%, 48,1% đồng ý với ý kiến trên. Khi hỏi nhân viên y tế về việc đồng ý cho trẻ dưới 1 tuổi là con của người thân trong độ tuổi tiêm chủng đi tiêm IPV thì chỉ có 25,9% cán bộ có thái độ tốt với ý kiến này. Trong đó tại huyện Đông Hưng là 23,1% và tại huyện Kiến Xương là 28,6%. IV. BÀN LUẬN Kiến thức của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Dương Anh Dũng và cộng sự, với kiến thức của cán bộ y tế làm công tác tiêm chủng còn ở mức độ thấp: 20,1% biết về mục tiêu TCMR, 58,7% biết chính xác về liều lượng, đường tiêm và vị trí tiêm vắc xin [4]. Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Hữu Phúc cùng cộng sự cho kết quả: kiến thức và thực hành đầy đủ về tiêm chủng của nhân viên y tế còn thấp dưới 70%; kiến thức, thực hành bảo quản vắc-xin dưới 80%; và chỉ có 50% cán bộ giám sát hỗ trợ có kiến thức về các quy định tiêm chủng, thực hành đúng giám sát 77,6% [7]. Qua đây chúng tôi nhận thấy kiến thức của NVYT về tiêm chủng nói chung và vắc xin IPV nói riêng là rất quan trọng. Kiến thức của NVYT ảnh hưởng đến quá trình bảo quản vắc xin, khám sàng lọc, xử lý các tình huống bất thường xảy ra sau tiêm. Kiến thức của NVYT về nhiệt độ cần thiết, tại huyện Đông Hưng là 100% đối tượng biết cần bảo quản ở nhiệt độ từ 2-8oC, ở huyện Kiến Xương là 69,0%. Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tuấn, số NVYT hiểu đúng về nhiệt độ bảo quản vắc xin trong dây chuyền lạnh và bảo quản ở tuyến xã chiếm tỷ lệ không cao. Biết đúng nhiệt độ bảo quản vắc xin trong tủ lạnh đạt 91,7%. Biết đúng liều lượng các loại vắc xin đạt từ 95 - 97,5% [8]. Như vậy, việc tổ chức các buổi tập huấn về vấn đề tiêm vắc xin IPV và bảo quản vắc xin là rất cần thiết. Tại Việt Nam hiện nay, việc không tiêm quá 1 liều của cùng 1 loại vắc xin trong cùng 1 thời gian. Nếu khoảng thời gian giữa các liều bị chậm vượt quá khoảng thời gian theo lịch tiêm chủng thì tiêm mũi tiếp theo mà không cần tiêm lại từ đầu. Nếu liều đầu tiên bị muộn hơn so với lịch tiêm chủng vẫn phải duy trì đúng liều lượng và đảm bảo khoảng cách tối thiểu giữa các mũi tiêm theo lịch tiêm Bảng 5. Thái độ của nhân viên y tế về tầm quan trọng của tập huấn về vắc xin IPV (n=81) Thái độ Đông Hưng (n=39) Kiến Xương (n=42) Chung (n=81) n % n % n % Tốt 19 48,7 20 45,5 39 48,1 Không tốt 20 51,3 22 55,5 42 51,9 Biểu đồ 3. Thái độ của nhân viên y tế về đồng ý cho trẻ em dưới 1 tuổi của người thân trong gia đình đi tiêm IPV (n=81) SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn106 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2020 chủng [5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy kiến thức về kết hợp vắc xin là tương đối tốt, phần lớn các đối tượng trong nghiên cứu biết tác dụng của việc kết hợp vắc xin tiêm và uống là phòng được virus bại liệt ở các tuýp khác, với tỷ lệ này ở huyện Đông Hưng là 100,0% và huyện Kiến Xương là 69,0%. Thái độ của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin IPV cho trẻ em dưới 1 tuổi Trước những kiến thức và phương pháp thực hành mới con người sẽ có cách ứng xử khác nhau nếu thái độ của mỗi người khác nhau. Thái độ giúp con người hình thành sự hứng thú, sự quan tâm đến việc làm của chính mình. Không thể dạy thái độ một cách trực tiếp, cách tốt nhất là cung cấp cho cá nhân và cộng đồng các kinh nghiệm, bằng đóng vai làm mẫu, thảo luận, tự phân tích đánh giá để cá nhân và cộng đồng tự hình thành thái độ. Các biện pháp thay đổi thái độ để thay đổi hành vi là khó nhất [1]. Trên thực tế, thái độ tích cực sẽ giúp chúng ta đối phó dễ dàng hơn với những công việc hàng ngày của cuộc sống. Nó mang đến sự lạc quan và sẽ dễ dàng hơn để tránh những lo lắng và suy nghĩ tiêu cực. Vì thế, thái độ tích cực sẽ giúp các NVYT làm việc hiệu quả hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhân viên y tế có thái độ tốt về tiêm phòng vắc xin IPV chiếm 45,7% thấp hơn so với nhóm có thái độ không tốt (54,3%). Trong đó, tại huyện Đông Hưng tỷ lệ đối tượng có thái độ tốt chiếm 41,0% và huyện Kiến Xương tỷ lệ này là 50,4%. Phần lớn nhân viên y tế đồng ý về việc vắc xin tiêm hiệu quả tốt hơn vắc xin uống (69,1%), trong đó tại huyện Đông Hưng là 74,4% và tại huyện Kiến Xương là 64,3% (bảng 4). Về thái độ đối với việc tập huấn nhân viên y tế về tiêm vắc xin IPV trong chương trình tiêm chủng mở rộng, có 48,1% đồng ý và 51,9% không đồng ý (bảng 5). Bên cạnh đó, cũng chỉ có 25,9% cán bộ đồng ý về việc cho trẻ em dưới 1 tuổi là con của người thân trong độ tuổi tiêm chủng đi tiêm IPV (tại huyện Đông Hưng là 23,1% và tại huyện Kiến Xương là 28,6%), phần lớn rất đồng ý với ý kiến này (biểu đồ 3). Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi về thái độ của NVYT tương tự như kết quả của tác giả Phí Văn Kiên và cộng sự, trong đó tỷ lệ bác sỹ có thái độ tích cực về bệnh cúm và việc sử dụng vắc xin cúm là khá cao, các bác sỹ thể hiện thái độ tích cực trong việc cần phải khuyến cáo mạnh mẽ cho nhân viên y tế tiêm vắc xin cúm (chiếm 89,6%) và quan tâm đến vấn đề nhiễm cúm ở những bệnh nhân do các bác sỹ điều trị (chiếm 89,3%), ngoài ra 72,1% số bác sỹ thể hiện thái độ quan tâm đến bệnh cúm mùa [6]. V. KẾT LUẬN - Tỷ lệ nhân viên y tế có kiến thức đạt về tiêm phòng vắc xin chiếm 44,4%. - Tỷ lệ nhân viên y tế biết dung tích lạnh cần thiết chiếm 53,1% và biết về nhiệt độ cần thiết để bảo quản vắc xin là 84,0%. - Tỷ lệ nhân viên y tế biết tác dụng của việc kết hợp vắc xin tiêm và uống là phòng được virus bại liệt ở các tuýp khác chiếm 84,0%. - Phần lớn nhân viên y tế biết về liều tiêm là 0,5 ml chiếm 82,7%. - Thái độ chung tốt của nhân viên y tế về tiêm phòng vắc xin là 45,7%. - Tỷ lệ nhân viên y tế có thái độ tốt về hiệu qủa của vắc xin tiêm tốt hơn uống chiếm 69,1%. - Có 48,1% nhân viên y tế có thái độ tốt về tầm quan trọng của tập huấn về tiêm vắc xin IPV. - Có 25,9% nhân viên y tế đồng ý về việc cho trẻ dưới 1 tuổi là con của người thân trong độ tuổi tiêm chủng đi tiêm IPV. KHUYẾN NGHỊ - Nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ của các nhân viên y tế tuyến xã, đặc biệt là nhân viên y tế, nhóm nhân viên y tế có trình độ cao đẳng, trung cấp và nhóm nhân viên y tế thôn bản về vắc xin IPV. - Tuyên truyền, vận động tránh tâm lý chủ quan, xem nhẹ trong việc học hỏi, tiếp thu kiến thức mới đối với vắc xin đặc biệt là những vắc xin mới ở các nhân viên y tế có thời gian công tác từ 15 năm trở lên. SỐ 1 (54) - Tháng 01-02/2020 Website: yhoccongdong.vn 107 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ môn Tổ chức và Quản lý y tế (2015), Sức khỏe, hành vi sức khỏe, quá trình thay đổi hành vi sức khỏe, Bài giảng Truyền thông - giáo dục sức khỏe, Trường Đại học Y Dược Thái Bình. 2. Bộ Y tế (2014), Quyết định về việc ban hành “Hướng dẫn giám sát và phòng chống bệnh bại liệt”. 3. Bộ Y tế (2016), “Quyết định về việc phê duyệt kế hoạch bảo vệ thành quả thanh toán bệnh bại liệt giai đoạn 2016-2020”. 4. Dương Anh Dũng, Phạm Quang Thái và Hoàng Khải Lập (2017), “Thực trạng tiêm chủng, kiến thức, thái độ thực hành tiêm chủng mở rộng tại 2 huyện biên giới của tỉnh Lạng Sơn năm 2015”, Tạp chí Y học Dự phòng, Tập 27, số 1 (189), trang 77. 5. Nguyễn Trần Hiển (2014), Hướng dẫn tiêm chủng an toàn, Dự án Tiêm chủng mở rộng, Hà Nội. 6. Phí Văn Kiên và cộng sự (2016), “Kiến thức, thái độ, thực hành về tiêm vaccin cúm mùa của nhân viên y tế hai bệnh viện tuyến Trung ương tại Hà Nội năm 2015 và yếu tố liên quan”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, 104 (6), trang 61-68. 7. Nguyễn Hữu Phúc và cộng sự. (2017), “Kiến thức và thực hành tiêm chủng của bà mẹ, cán bộ y tế tại các điểm tiêm tỉnh Lâm Đồng, 2016-2017”, Tạp chí Y học dự phòng. Tập 27, số 11. 8. Nguyễn Tuấn, Lê Quang Phong, Võ Viết Quang và cộng sự (2013), “Đánh giá thực trạng công tác tiêm chủng mở rộng tại Hà Tĩnh cho trẻ dưới 1 tuổi năm 2013”, Sở Y tế Hà Tĩnh.
File đính kèm:
kien_thuc_thai_do_cua_nhan_vien_y_te_ve_tiem_phong_vac_xin_i.pdf

