Kiểm soát cơn đau đột xuất trong ung thư
Theo Bộ Y tế Việt Nam (2006): “CSGN đối với người mắc bệnh ung thư và người bệnh AIDS là sự phối hợp các biện pháp nhằm cải thiện chất lượng sống của người bệnh bằng cách phòng ngừa, phát hiện sớm, điều trị đau và xử trí các triệu chứng thực thể, tư vấn và hỗ trợ giải quyết các vấn đề tâm lý - Xã hội mà người bệnh và gia đình họ phải chịu đựng”[1].
Thực tế cho thấy rằng triệu chứng đau và những chịu đựng về đau là những biểu hiện thường gặp ở người có HIV, ung thư và những người mắc các bệnh đe dọa đến tính mạng nói chung. Theo kết quả nghiên cứu, trên thế giới 60-80% người nhiễm HIV và BN ung thư có các biểu hiện đau đớn, suy sụp tinh thần, đặc biệt là trong thời gian cuối của bệnh. Ở nước ta mới chỉ có một số ít những BN này được tiếp cận tới các dịch vụ CSGN
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiểm soát cơn đau đột xuất trong ung thư
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 374 KIỂM SOÁT CƠN ĐAU ĐỘT XUẤT TRONG UNG THƯ QUÁCH THANH KHÁNH1 1 ThS.BSCKII. Trưởng Phòng Kế hoạch Tổng hợp, kiêm Trưởng Khoa Chĕm sóc Giảm nhẹ - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM TỔNG QUAN ĐIỀU TRỊ ĐAU Theo Bộ Y tế Việt Nam (2006): “CSGN đối với người mắc bệnh ung thư và người bệnh AIDS là sự phối hợp các biện pháp nhằm cải thiện chất lượng sống của người bệnh bằng cách phòng ngừa, phát hiện sớm, điều trị đau và xử trí các triệu chứng thực thể, tư vấn và hỗ trợ giải quyết các vấn đề tâm lý - xã hội mà người bệnh và gia đình họ phải chịu đựng”[1]. Thực tế cho thấy rằng triệu chứng đau và những chịu đựng về đau là những biểu hiện thường gặp ở người có HIV, ung thư và những người mắc các bệnh đe dọa đến tính mạng nói chung. Theo kết quả nghiên cứu, trên thế giới 60-80% người nhiễm HIV và BN ung thư có các biểu hiện đau đớn, suy sụp tinh thần, đặc biệt là trong thời gian cuối của bệnh. Ở nước ta mới chỉ có một số ít những BN này được tiếp cận tới các dịch vụ CSGN. Vụ Điều trị - Bộ Y tế đã phối hợp với các tổ chức quốc tế tiến hành một phân tích đánh giá nhanh (Rapid Situational Analysis) tại 5 tỉnh/ thành phố là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, TP. HCM và An Giang (1/1/2001 - 31/12/2004). Triệu chứng đau là biểu hiện thường gặp ở BN ung thư, đặc biệt là trên những người bệnh ở giai đoạn cuối: 79,5% BN ung thư chịu đựng đau. Tuy nhiên các biện pháp xử trí đau còn rất hạn chế. 77% BN ung thư báo cáo rằng vẫn bị đau mặc dù được điều trị đau. Phần lớn các BN đã từng phải chịu đựng những triệu chứng khó chịu về thể xác: 97,4% ở BN ung thư[10]. Thực tế cho thấy điều trị đau trong ung thư ở Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức. Điều trị đau hiệu quả khi đánh giá đau tốt, phải nhìn nhận đau trong ung thư là đau toàn thể (total pain) nghĩa là cơn đau liên quan thể chất, tinh thần, xã hội và cả tâm linh của người bệnh. Điều trị đau hiệu quả khi ta phân biệt được cơ chế đau là đau cảm thụ (đau thân thể, đau tạng), đau do viêm, đau thần kinh, đau xương, đau hỗn hợp[18-22]. Điều trị nên bắt đầu bằng giải thích rõ ràng cho bệnh nhân về nguyên nhân gây đau. Nhiều loại đau được điều trị tốt nhất bằng cách phối hợp hai phương pháp dùng thuốc và không dùng thuốc. Tuy nhiên, thuốc giảm đau opioid và một số thuốc khác đóng vai trò chủ yếu trong việc quản lý đau do ung thư. Điều trị ung thư và thuốc điều trị đau do ung thư có thể dùng đồng thời. Một số loại đau có đáp ứng tốt khi kết hợp giữa thuốc opioid và không opioid. Đau do bệnh thần kinh thường ít đáp ứng với thuốc giảm đau có và không có opioid, nhưng có thể được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm 3 vòng và thuốc chống động kinh[2][11][19][20]. Những bệnh nhân ung thư thường có nhiều lo lắng, sợ hãi và có thể dẫn đến trầm cảm. Những bệnh nhân trầm cảm và lo lắng nhiều, có thể dùng kết hợp một thuốc hướng thần thích hợp với thuốc giảm đau. Nếu điều thực tế này không được hiểu rõ giá trị, thì đau khó có thể điều trị được[2][11]. Trong mọi trường hợp, việc sử dụng thuốc giảm đau là phương pháp rẻ tiền nhưng lại hiệu quả trong giảm đau trong ung thư cho 70-90% bệnh nhân[17]. Sử dụng thang giảm đau ba bậc của Tổ chức Y tế Thế giới Hình 2. Thang giảm đau ba bậc của Tổ chức Y tế Thế giới[12]. • Bậc I khuyên dùng các thuốc giảm đau không opioid như paracétamol và những thuốc kháng viêm không steroid (NSAID). • Bậc II gồm những thuốc giảm đau opioid “yếu”, như codéine và dextropropoxyphène, tramadol chlorhydrate, buprénorphine, • Bậc III là morphin (dạng uống, dạng phóng thích tức thì LI và dạng phóng thích kéo dài LP), fentanyl (LI và LP), hydromorphone (LP), oxycodone (LI và LP) và méthadone. Morphin vẫn là thuốc chuẩn vì thiếu những nghiên cứu so sánh và vẫn là ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 375 thuốc ưu tiên hàng đầu trong các loại opioid thậm chí khi những opioid mới sẽ tĕng lên trong tương lai[13]. Hiện tại Việt Nam các thuốc giảm đau opioid yếu thường dùng có dạng Acetaminophen 500mg kết hợp với Codein 30mg hoặc Acetaminophen 500mg kết hợp với Tramadol 37,5mg và Tramadol đơn chất 50mg. Giảm đau opioid mạnh thường dùng là Morphine và Fentanyl, gần đây có thêm nhóm oxycodone trong lựa chọn điều trị đau. ĐAU ĐỘT XUẤT Thang kiểm soát đau của WHO có thể kiểm soát phần lớn các bệnh nhân ung thư có đau tuy nhiên trong một số trường hợp đau khó kiểm soát khi bệnh nhân xuất hiện cơn đau đột xuất. Đây là một vấn đề quan trọng trong thực tế lâm sàng, khó đánh giá, tiên liệu và ảnh hưởng chất lượng sống của bệnh nhân. Nhiều thuật ngữ mô tả hiện tượng đau đột xuất này nhưng vẫn chưa thống nhất và chưa có biện pháp kiểm soát đau hiệu quả nhất. Gần đây, các tác giả cũng như các hiệp hội CSGN Thế giới (IAHPC), Mỹ, Hiệp hội CSGN Châu Á Thái Bình Dương (APHN) khá thống nhất trong việc dùng thuật ngữ cơn đau đột xuất (breakthrough pain)[18][22]. 1989 tác giả Edmonton đưa thuật ngữ “ incidental pain” để chỉ cơn đau tĕng đột xuất sau khi vận động, nuốt, đi tiêu, đi tiểu. Cơn đau thường tĕng lên với những hoạt động đặc hiệu. McQuay và Jadad chia cơn đau thành hai nhóm nhỏ. Một nhóm liên quan đến hoạt động: đi lại, trở mình, nhấc người lên, ho, hít thở mạnh, kể cả các hoạt động chủ ý của người bệnh và có thể dự đoán trước cơn đau. Nhóm còn lại không liên quan đến hoạt động, không dự đoán trước cơn đau[8],[14],[15]. 1990 Portenoy và Hagen dựa vào nghiên cứu tiền cứu về đau trên bệnh nhân ung thư và đưa ra thuật ngữ ‘Breakthrough pain” để chỉ cơn đau tĕng lên đột xuất tạm thời so với mức độ đau nền của bệnh nhân đang được kiểm soát, cơn đau “Breakthough” chỉ dùng khi bệnh nhân đã được kiểm soát đau nền theo giờ hằng ngày với opioids. Do vậy, nó cũng được tính khi cơn đau xuất hiện khi liều cuối opioids đã giảm hiệu quả trước khi bệnh nhân dùng liều kế tiếp[14]. 12/2000 Hiệp hội CSGN Châu Âu (EAPC) đưa ra thuật ngữ “ Episodic pain” chỉ các cơn đau nặng lên thay đổi theo thời gian nó có thể xuất hiện trên nền cơn đau đã kiểm soát hay chưa kiểm soát được. Nhóm này cũng nhận ra cơn đau xuất hiện với những hoạt động chủ ý như nuốt đau khi viêm niêm mạc, đụng chạm vào vùng bị tĕng cảm đau và những cơn đau không chủ ý như hắc hơi, ho, cười, run giật cơ. Đau đột xuất có thể xuất hiện độc lập với vận động hoặc chủ ý như đau thần kinh[14]. Tuy nhiên, gần đây thì hiệp hội này cũng dần sử dụng từ khóa “breakthrough pain” Với những thuật ngữ trên “breakthrough pain” thì cơn đau đột xuất sử dụng hữu ích nhất và chia thành 3 nhóm: nhóm cơn đau đột xuất liên quan hoạt động, nhóm cơn đau tự phát, nhóm cơn đau liên quan đến cuối liều opioids kém hiệu quả[15]. NGUYÊN NHÂN ĐAU ĐỘT XUẤT Trong đau ung thư, cơn đau đột xuất có thể liên quan trực tiếp đến bệnh ung thư, sự suy nhược do ung thư hoặc phương pháp điều trị ung thư, hoặc rối loạn đồng thời nhiều nguyên nhân[15]. CƠ CHẾ ĐAU ĐỘT XUẤT Cơ chế đau đột xuất như đau ung thư liên quan đến cơ chế sinh lý bệnh học và cơ thể học khác nhau. Các cơ chế: đau cảm thụ, đau thân thể bề mặt và đau thân thể trong sâu, đau tạng, và đau thần kinh,thường gặp trong đau xương khi di chuyển. Cơn đau đột xuất có thể có cơ chế sinh lý bệnh khác với cơn đau nền[16]. ĐẶC TÍNH CƠN ĐAU ĐỘT XUẤT Tầng xuất cơn đau đột xuất trung bình 40-70%, các nước nói tiếng anh 80,1%, Bắc và Tây Âu 69,4%, 54,8% ở Nam Phi, Châu Á 45,9%. Trong một khảo sát quốc tế về đau đột xuất, những nhà lâm sàng đã báo cáo đau đột xuất chiếm khoảng 65%, tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ 64% bệnh nhân nhìn nhận đã trải qua đau đột xuất trong hoàn cảnh mà đau nền của họ đã được kiểm soát tốt[9]. Tầng xuất trung bình cơn đau đột xuất 4-6 lần/ngày. Hầu hết cơn đau đột xuất là mức độ nặng hơn trên cơn đau nền, một số ít bệnh nhân mô tả nhiều hơn một loại đau đột xuất. Đặc tính cơn đau đột xuất: trung bình đau đỉnh điểm khoảng 3 phút và thời gian kéo dài trung bình cơn đau 15-30 phút. Đau dữ dội, thời gian cơn đau ngắn so với cơn đau nền. Cơn đau nền là tình trạng đau ở mức hằng định kéo dài. Một khảo sát 1095 bệnh nhân trên 24 nước cho thấy đau đột xuất thường có thang điểm đau cao và ảnh hưởng chức nĕng hoạt động bệnh nhân[3]. 20-40% cơn đau liên quan đến vận động, 13-30% liên quan đến cuối liều kém hiệu quả, cơn đau thần kinh đột xuất thường xuất hiện ngắn hơn và thường gặp hơn đau cảm thụ[15]. ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 376 TÁC ĐỘNG CƠN ĐAU ĐỘT XUẤT Bệnh nhân có cơn đau đột xuất thường có mức độ đau chung nặng hơn, ảnh hưởng đến hoạt động của bệnh nhân, gây tĕng tỷ lệ lo âu, trầm cảm, mất ngủ, giảm chất lượng sống, các hoạt động xã hội, tĕng chi phí điều trị, nằm viện Đau đột xuất liên quan đến vận động trong ung thư thường kèm di cĕn xương là loại đau khó kiểm soát bằng thuốc giảm đau và nhìn chung những bệnh nhân đau đột xuất có liên quan hoạt động chủ ý hay vô ý điều khó đáp ứng tốt với thuốc giảm đau[14]. KIỂM SOÁT ĐAU ĐỘT XUẤT Đầu tiên phải kiểm soát đau nền bằng thuốc giảm đau theo giờ theo hướng dẫn giảm đau ba bậc của tổ chức WHO, tiếp theo sau đó sẽ dung liều cứu hộ (rescue dose) cùng với liều thuốc theo giờ để kiểm soát đau cho bệnh nhân, hướng dẫn cách dung thuốc cho bệnh nhân và gia đình. Để kiểm soát đau đột xuất cần chiến lược phối hợp đa mô thức trong khi chờ đợi một mô hình kiểm soát lý tưởng. Quan trọng là giải thích cho bệnh nhân và gia đình người bệnh là một phần không thể thiếu[7],[15]. ĐÁNH GIÁ ĐAU ĐỘT XUẤT Đánh giá chi tiết các cơn đau đột xuất cũng như cơ chế, loại đau, đánh giá tâm lý... cùng với đánh giá đau nền của bệnh nhân. Hướng dẫn của hiệp hội đau Mỹ nĕm 2005 cũng như Hiệp hội CSGN Châu Âu khuyến cáo đánh giá đau bao gồm tầng xuất xuất hiện cơn đau, khoảng thời gian mỗi cơn đau, cường độ, các yếu tố tiên đoán sự xuất hiện cơn đau, điều trị trước đây và hiện tại cơn đau nền, hiệu quả của điều trị đó. Đánh giá đau cũng nên bao gồm sinh lý bệnh và nguyên nhân gây đau[7],[14]. Sheet used to document breakthrough (episodic) pain in a UK hospice Source: Zeppetella G, Ribeiro MDC. Episodic pain in patients with advanced cancer. Am J Hospice Pall Care 2002; 19(4): 267-276. ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 377 CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ Những phương pháp điều trị chủ yếu cho những nguyên nhân gây đau đã biết. Đau xương: Xạ trị, đồng vị phóng xạ, Biphosphonates. Hóa trị, liệu pháp nội tiết giảm nhẹ với những bệnh ung thư còn đáp ứng. Phẫu thuật giảm nhẹ: cố định xương gẫy, cố định cột sống với những bệnh nhân di cĕn xương thất bại với xạ trị, phẫu thuật giảm nhẹ trong tắt ruột Phát huy tối đa liệu pháp dùng thuốc giảm đau[7],[13],[14],[22]. Sử dụng ba bậc thang kiểm soát đau của WHO kiểm soát đau nền, chú ý không gây ngủ bệnh nhân do tĕng liều kiểm soát đau nền để kiểm soát đau đột xuất. Một số bệnh nhân thay đổi khoảng cách liều để kiểm soát đau đột xuất do cuối liều kém hiệu quả (ví dụ fentanyl dán 48 giờ thay vì 72 giờ, hoặc Morphine viên kéo dài dung mỗi 8 giờ thay vì mỗi 12 giờ). Tùy thuộc cơ chế đau đột xuất sử dụng thêm các nhóm thuốc hỗ trợ: NSAIDs, Dexamethasone trong đau xương, viêm niêm mạc hay đau viêm cĕng bao gan, màng phổi, phúc mạc hoặc đau thần kinh: chống trầm cảm, chống co giật, Ketamine đối vận thụ thể NMDA Các nhóm thuốc hỗ trợ chống co thắt ruột, bàng quang (hyoscine butybromide), co thắt cơ (seduxen, baclofen) Sử dụng liều cứu hộ “rescue dose” liều thuốc opioids được tính bằng 10% tổng liều opioids trong 24 giờ. Một số trường hợp nên dò liều liều cứu hộ. Thuốc cứu hộ bao gồm những đặc tính sau Hấp thụ nhanh, đạt đỉnh hiệu quả giảm đau nhanh. Thời gian tác dụng ngắn nhưng đủ để kiểm soát đau đột xuất. Tác dụng phụ ít. Sử dụng an toàn. Bảng so sánh thời gian tác dụng thuốc theo đường dùng Đường dùng Thời gian đạt đỉnh giảm đau Thời gian hiệu quả giảm đau Morphine uống tác dụng nhanh 30 phút 4 giờ Morphine: TM 5 phút 1-2 giờ Morphine: TDD 10-15 phút 3-4 giờ Fentanyl: niêm mạc miệng, mũi 5-15 phút 1-2 giờ Opioid dùng đường tiêm tĩnh mạch hiệu quả nhanh nhất và thời gian tác dụng ngắn, nếu có sẳn thì bệnh nhân dùng bơm tiêm tự kiểm soát đau (PCA: patient control analgesia) cho phép giảm cơn đau đột xuất nhanh và kiểm soát đau nền khi bệnh nhân không thể dùng thuốc đường uống. Một số thuốc dùng đường niêm mạc mũi, niêm mạc hốc miệng giúp thuốc hấp thu trực tiếp vào hệ thống tuần hoàn không qua đường ruột và được chuyển hóa ở gan nên tác dụng sẽ nhanh hơn phù hợp trong kiểm soát đau đột xuất, các chế phẩm opioids này được gọi là nhóm tác dụng nhanh (Rapid onset opioids ROO) như Oral transmucosal fentanyl citrate (OTFC) vừa tác dụng nhanh cùng với thời gian tác dụng ngắn[4]. Thực tế tại Việt Nam chưa có opioids dạng này nên morphine đường tiêm vẫn là lựa chọn phù hợp và hiệu quả cùng với chi phí thấp nhất trong kiểm soát cơn đau đột xuất. Một nghiên cứu trên 48 bệnh nhân ung thư cho thấy với Morphine tiêm tĩnh mạch liều 20% tổng liều Morphine uống trong ngày giúp kiểm soát hiệu quả đau đột xuất, an toàn khi dùng và chi phí thấp[7]. Các thuốc khác sử dụng kiểm soát đau đột xuất Gây ngủ tạm thời bằng Midazolam tiêm dưới da: những trường hợp đau đột xuất nặng, khó kiểm soát, gẫy xương bệnh lý. Tiền mê với Ketamine liều dưới da 20-40mg cho những bệnh nhân đau đột xuất dự báo được như thay bĕng khó khĕn, thay đổi tư thế trên bệnh nhân gẫy xương dài Phương pháp giảm đau can thiệp: phong bế thần kinh ngoại biên, trung ương (trong màng tủy, ngoài màng cứng...)[15]. KIỂM SOÁT KHÔNG DÙNG THUỐC Nhiều yếu tố: Chườm nóng, nằm nghỉ, thay đổi tư thế phù hợp, massage, thư giản, làm xao nhãng, vật lý trị liệu. Phương pháp này cũng có hiệu quả khi bệnh nhân có những cơn đau đột xuất không tiên liệu trước được và khi đó sử dụng các phương pháp không dùng thuốc giúp bệnh nhân bớt đau trong khi chờ đợi hiệu quả thực sự của thuốc giảm đau đem lại. TÓM LẠI Đau đột xuất là một thách thức trong kiểm soát đau bằng bậc thang của WHO. Tần suất từ 40-70% trong đau ung thư. Đặc trưng bởi khởi phát nhanh với khoảng thời gian cơn đau ngắn. ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 378 Với những thuốc giảm đau thích hợp nhất là opioids có thể giúp kiểm soát cơn đau đột xuất. Nên quan tâm đến nhóm oipiods tác dụng nhanh (ROO) thường là các chế phẩm fentanyl sử dụng qua đường qua niêm mạc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2006). “Hướng dẫn chĕm sóc giảm nhẹ đối với người bệnh ung thư và AIDS”, Nhà xuất bản y học, tr.1-29. 2. Atallah JN (2011). ”Management of cancer pain”. Essentials of pain management, Springer, pp 597-627 3. Caraceni A, Martini C, Zecca E, Portenoy RK et al. Working Group of an IASP Task Force on Cancer Pain. Breakthrough pain characteristics and syndromes in patients with cancer pain. An international survey. Palliat Med 2004; 18 (3):177-183. 4. Coluzzi PH, Schwartzberg L, Conroy JD, et al. Breakthrough cancer pain: a randomized trial comparing oral transmucosal fentanyl citrate (OTFC) and morphine sulfate immediate release (MSIR). Pain 2001; 91(1-2):123-130. 5. Farrar JT, Berlin JA, Strom BL. Clinically important changes in acute pain outcome measures: a validation study. J Pain Symptom Manage 2003; 25(5):406-411. 6. Fortner BV, Demarco G, Irving G, et al. Description and predictors of direct and indirect costs of pain reported by cancer patients. J Pain Symptom Manage 2003; 2: 9-18 7. Mercadante S, Radbruch L, Caraceni A, et al. Episodic (breakthrough) pain: consensus conference of an expert working group of the European Association for Palliative Care. Cancer 2002; 94(3):832-839. 8. Miaskowski C, Cleary J, Burney R, et al. Guidelines for the management of cancer pain in adults and children. APS Clinical Practice Guidelines Series, No. 3, Glenview, IL: American Pain Society, 2005. 9. Portenoy RK, Hagen NA. Breakthrough pain: definition, prevalence and characteristics. Pain 1990; 41: 273-281. 10. Green K, Kinh L N, Khue L N (2006). “Palliative Care in Vietnam: Findings from a Rapid Situation Analysis in Five Provinces”. Hanoi: Ministry of Health. 11. Kathleen M Foley, (2010), “Acute and chronic cancer pain syndromes”. Oxford text book of Palliative Care, Oxford University Press. 12. Ministry Of Health (2006), Guidelines on palliative care for cancer and AIDS patients, Medical Publishing House, Hanoi, pp.1, 4-35. 13. Portenoy RK, Hagen NA. Breakthrough pain: definition, prevalence and characteristics. Pain 1990; 41: 273-281. 14. Sebastiano Mercadante (2010).”Breakthough pain”, Cancer pain: Assessment and management, Cambridge University Press, pp 506-513. 15. Shirley H Bush (2006). “Episodic pain”. Text book of palliative medicine, Edward Anord, London, 1st edition, pp 505-512. 16. Urch CE, (2010). “Pathophysiology of cancer pain”. Palliative Medicine, Sauders Elsevier, pp 1378-1435. 17. World Health Organization (2000). “Definition of Palliative Care”. Geneva: WHO. ( 18. J. Boceta (2016). “Concensus and controversies in the definition, assessment, treatment and monitoring of BTcP: results of a Delphi study”. Clin Transl Oncology 18, pp 1088-1097. 19. Augusto Caraceni (2013). “Giudelines for the management of breakthrough pain in patients with cancer” JNCCN Vol 11 supplement 1. 20. Renato Vellucci (2017). “Assessment and treatment of breakthrough cancer pain: from theory to clinical practice” Journal of Pain research Vol 10, pp 2147-2155. 21. Sebastiano Mercadante (2016). “Breakthrough cancer pain: Ten commandments” Elservier- Value in health 19 pp 531-536. 22. NCCN Guidelines vesion 1.2018” Adult Cancer Pain”
File đính kèm:
kiem_soat_con_dau_dot_xuat_trong_ung_thu.pdf

