Khoảng trống thuế trong lĩnh vực thuế khoán đối với hộ kinh doanh

TÓM TẮT

Bài báo xuất phát từ tổng quan về tình hình thất thu thuế trong lĩnh vực thuế khoán đối với hộ

kinh doanh cá thể. Từ bất hợp lý trong thực tế là nhóm đối tượng hộ kinh doanh cá thể chiếm

số lượng đông nhất trong cả nước, nhưng số thu nộp cho ngân sách nhà nước lại ít nhất, bài viết

chỉ ra các bất hợp lý trong quy định pháp lý, cơ chế quản lý trong thực tiễn dẫn đến bất hợp lý

trên. Cụ thể, do chính sách thuế khoán (ấn định thuế dựa trên dự báo doanh thu) thiếu cơ sở khoa

học, do phương pháp tính thuế trong các quy định pháp luật liên tục thay đổi, phân thành nhiều

nhóm ngành với mức thuế suất chênh lệch lớn và do không áp dụng thống nhất chế độ hóa đơn

chứng từ giống như phương pháp tính thuế khấu trừ, đã tạo ra sự cảm tính, dễ tiêu cực khi tính

thuế. Từ đó, bài báo đưa ra những kiến nghị thay đổi chính sách, hoàn thiện pháp luật để thống

nhất phương pháp tính thuế, nhằm hạn chế thấp nhất những tiêu cực, thất thu trong lĩnh vực thuế

khoán, tạo công bằng về thuế như đối với các loại hình doanh nghiệp. Đồng thời cũng đề xuất ứng

dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tạo minh bạch và công bằng hơn, giúp hộ kinh doanh

tăng tính tuân thủ, giảm chi phí thực hiện; giúp cơ quan quản lý nhà nước dễ quản lý, hạn chế tiêu

cực, phù hợp với thời đại công nghiệp 4.0 và xu thế phát triển của thế giới.

Từ khoá: Thất thu thuế khoán, thuế hộ kinh doanh cá thể, hoàn thiện thuế khoán

pdf 8 trang phuongnguyen 540
Bạn đang xem tài liệu "Khoảng trống thuế trong lĩnh vực thuế khoán đối với hộ kinh doanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khoảng trống thuế trong lĩnh vực thuế khoán đối với hộ kinh doanh

Khoảng trống thuế trong lĩnh vực thuế khoán đối với hộ kinh doanh
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):737-744
Open Access Full Text Article Bài tổng quan
Báo Sài Gòn Giải Phóng
Liên hệ
Đặng Thị Hàn Ni, Báo Sài Gòn Giải Phóng
Email: hannisggp@gmail.com
Lịch sử
 Ngày nhận: 10/05/2019
 Ngày chấp nhận: 05/07/2019
 Ngày đăng: xx/06/2020
DOI : 0.32508/stdjelm.v4i2.625 
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Khoảng trống thuế trong lĩnh vực thuế khoán đối với hộ kinh
doanh
Đặng Thị Hàn Ni*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Bài báo xuất phát từ tổng quan về tình hình thất thu thuế trong lĩnh vực thuế khoán đối với hộ
kinh doanh cá thể. Từ bất hợp lý trong thực tế là nhóm đối tượng hộ kinh doanh cá thể chiếm
số lượng đông nhất trong cả nước, nhưng số thu nộp cho ngân sách nhà nước lại ít nhất, bài viết
chỉ ra các bất hợp lý trong quy định pháp lý, cơ chế quản lý trong thực tiễn dẫn đến bất hợp lý
trên. Cụ thể, do chính sách thuế khoán (ấn định thuế dựa trên dự báo doanh thu) thiếu cơ sở khoa
học, do phương pháp tính thuế trong các quy định pháp luật liên tục thay đổi, phân thành nhiều
nhóm ngành với mức thuế suất chênh lệch lớn và do không áp dụng thống nhất chế độ hóa đơn
chứng từ giống như phương pháp tính thuế khấu trừ, đã tạo ra sự cảm tính, dễ tiêu cực khi tính
thuế. Từ đó, bài báo đưa ra những kiến nghị thay đổi chính sách, hoàn thiện pháp luật để thống
nhất phương pháp tính thuế, nhằm hạn chế thấp nhất những tiêu cực, thất thu trong lĩnh vực thuế
khoán, tạo công bằng về thuế như đối với các loại hình doanh nghiệp. Đồng thời cũng đề xuất ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tạo minh bạch và công bằng hơn, giúp hộ kinh doanh
tăng tính tuân thủ, giảm chi phí thực hiện; giúp cơ quan quản lý nhà nước dễ quản lý, hạn chế tiêu
cực, phù hợp với thời đại công nghiệp 4.0 và xu thế phát triển của thế giới.
Từ khoá: Thất thu thuế khoán, thuế hộ kinh doanh cá thể, hoàn thiện thuế khoán
ĐẶT VẤNĐỀ
Theo con số thống kê của Tổng CụcThống kê, năm 2017
cả nước có hơn 5,1 triệu hộ kinh doanh cá thể (hiện
nay đã tăng lên thành 5,6 triệu lượt hộ) gấp gần 10
lần số lượng doanh nghiệp. Thế nhưng, số thu nộp cho
ngân sách lại giảm, chỉ bằng 1,9% (2015) xuống chỉ còn
1,61% (2018) trong tổng số thu của ngành thuế. Nhìn
từ thực tế, hộ kinh doanh cá thể là lực lượng hùng hậu
nhất, tồn tại trên khắp các tuyến đường trong cả nước,
lại nộp ngân sách với tỷ lệ thấp nhất, nên xét dưới góc
độ kinh tế thì đây được xem là khu vực kinh tế chưa
được quan sát của ngành Tài chính. Do vậy, lĩnh vực
thuế khoán đối với hộ kinh doanh cá thể cần phải được
nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn để đảm bảo thu
đúng, thu đủ, tạo công bằng trong nền kinh tế. Điều
gì đã tạo ra “khoảng trống” thuế, giải pháp nào để hạn
chế thất thu thuế, tạo đơn giản, thuận tiện và công bằng
trong thực thi là vấn đề được nghiên cứu và đề xuất giải
pháp trong bài này .
BẤT HỢP LÝ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ
KHOÁN: SỐ LƯỢNG TĂNGNHƯNG
SỐNỘP GIẢM
Theo số liệu thu thuế của Tổng Cục thuế trên biểu
đồ cho thấy, số thu thuế từ hộ kinh doanh thực hiện
theo thuế khoán chỉ tăng nhẹ, trong khi số lượng hộ
kinh doanh (bao gồm cá nhân kinh doanh, cơ sở kinh
doanh) tăng mạnh qua các năm. Trong năm 2015, cả
nước có 1,61 triệu hộ kinh doanh, đóng góp số thuế
gần 14.200 tỷ đồng; năm 2016 số hộ kinh doanh tăng
lên, đạt gần 1,63 triệu hộ, đóng góp vào số thu khoảng
15.570 tỷ đồng; năm 2017 số hộ kinh doanh tăng tiếp,
đạt gần 1,7 triệu hộ, đóng góp cho ngân sách khoảng
16.300 tỷ đồng và năm2018 số hộ kinh doanh tăng đạt
gần 1,8 triệu hộ, nộp thuế khoảng 18.000 tỷ đồng1.
Nếu so sánh tốc độ phát triển số thu của ngành thuế
thì số thu của đối tượng hộ kinh doanh cá thể tăng
trưởng chậm hơn, dẫn đến tỷ lệ số thu của khu vực
hộ kinh doanh cá thể chiếm tỷ lệ ngày càng nhỏ lại
trong tổng thu thuế. Phân tích và so sánh tỷ lệ số thu
qua các năm sẽ thấy rõ (Hình 1):
Năm 2015, tổng thu ngành thuế đạt khoảng 744.800
tỷ đồng thì số thu đối với hộ kinh doanh chỉ 14.200 tỷ
đồng, chiếm tỷ lệ 1,9% trong tổng thu.
Năm 2016, tổng thu ngành thuế đạt khoảng 818.300
tỷ đồng thì số thu đối với hộ kinh doanh chỉ 15.570 tỷ
đồng, chiếm tỷ lệ 1,9% trong tổng thu.
Năm 2017, tổng thu ngành thuế đạt khoảng 919.300
tỷ đồng thì số thu đối với hộ kinh doanh chỉ 16.300 tỷ
đồng, chiếm tỷ lệ 1,66% trong tổng thu.
Năm 2018, tổng thu ngành thuế đạt khoảng 1.118.600
tỷ đồng thì số thu đối với hộ kinh doanh chỉ 18.000 tỷ
đồng, chiếm tỷ lệ 1,61% trong tổng thu.
Trích dẫn bài báo này: Ni D T H. Khoảng trống thuế trong lĩnh vực thuế khoán đối với hộ kinh 
doanh. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 4(2):737-744.
737
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):737-744
Như vậy, tỷ lệ số thu của hộ kinh doanh cá thể trong
tổng số thu của ngành thuế giảm dần qua các năm, từ
tỷ lệ 1,9% (2015, 2016), xuống 1,66% (2017) và 1,61%
(2018). Trong khi đó, số lượng hộ kinh doanh cá thể
tăng mạnh qua các năm: từ 1,61 triệu hộ (năm 2015)
lên 1,63 triệu hộ (năm 2016), tăng tiếp đạt 1,7 triệu hộ
(năm 2017) và đạt 1,8 triệu hộ (năm 2018). Xu hướng
ngược chiều này đã tạo ra bất hợp lý, đã đặt ra vấn đề
về công tác quản lý của ngành thuế đối với nhóm đối
tượng hộ kinh doanh cá thể. Đã từng có nhiều nghi
vấn được nêu lên trong các cuộc họp của Chính phủ
trong việc áp mức thuế khoán ở địa phương, như cán
bộ bắt tay với hộ kinh doanh để giảm mức ấn định
doanh số nhằm giảm số thuế phải nộp, việc quản lý
hộ kinh doanh còn lỏng lẻo, không đầy đủ, bỏ sót
đối tượng trong thu thuế Đặc biệt, khi số hộ kinh
doanh tăng nhưng số thu không tăng, thậm chí còn
giảm trong cơ cấu thuế của ngành thuế trong biểu đồ
bên dưới càng minh chứng cho nghi vấn về thất thu
thuế trong lĩnh vực thuế khoán là có cơ sở.
THIẾU GIÁM SÁT, NỬA TRIỆU HỘ
KINH DOANH “LỌT SỔ”
Trong khi năm 2017 Tổng Cục thuế báo cáo số lượng
hộ kinh doanh cá thể chỉ đạt 1,7 triệu hộ thì báo
cáo từ Tổng cục Thống kê thống kê số hộ, cá nhân
kinh doanh cao gấp nhiều lần. Theo kết quả tổng
điều tra của Tổng cục Thống kê, năm 2017 cả nước
có đến 5,14 triệu cơ sở kinh doanh. Vì sao có sự
chênh lệch lớn này? Lãnh đạo ngành thuế giải trình
rằng, do Tổng cục Thống kê đã thống kê cả xe ôm,
xe lam, chủ thầu xây dựng vãng lai, quán cóc vỉa hè;
các hoạt động tại nhiều địa điểm kinh doanh trong
cùng một xã phường; hoạt động tại các địa điểm tự
phát (không chính thức) được phép hoạt động như
chợ tạm, chợ cóc, xóm, làng, thôn, bản; cư dân tại các
làng nghề truyền thống; cư dân tại khu vực du lịch
theo thời vụ, hộ kinh doanh có thu nhập thấp không
có địa điểm cố định... nên số lượng lớn hơn so với dữ
liệu quản lý thuế. Vì theoThông tư 92/2015/TT-BTC,
những cá nhân, hộ kinh doanh có doanh thu dưới
100 triệu/năm sẽ được miễn nộp thuế giá trị gia tăng
và thuế thu nhập cá nhân nên ngành thuế chỉ quản
lý thuế những hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh
có doanh số trên 100 triệu đồng/năm2. Tuy nhiên,
ngành thuế vẫn thừa nhận, sau khi trừ các đối tượng
“chênh lệch về tiêu chí thống kê” kể trên thì số liệu do
cơ quan thuế quản lý chỉ có 1,7 triệu hộ kinh doanh
là bị “lọt sổ” khoảng trên 500.000 hộ kinh doanh.
Còn so sánh về số thuế thực nộp của lực lượng hộ
kinh doanh với lực lượng doanh nghiệp thì sức đóng
góp cho ngân sách giữa hai lực lượng cũng thấy bất
hợp lý. Theo thống kê, năm 2017 cả nước có 517.900
doanh nghiệp đăng ký (trong đó, số doanh nghiệp
hoạt động, có doanh thu, nộp thuế vào ngân sách nhà
nước chỉ 505.000 doanh nghiệp, số còn lại là mới đầu
tư, chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh). Còn
số lượng hộ kinh doanh (1,7 triệu hộ) cao hơn gấp
3 lần số lượng doanh nghiệp, thế nhưng, đóng góp
của hộ kinh doanh cá thể chỉ bằng số lẻ, chiếm chưa
đầy 2% trong tổng số thu thuế3 là quá ít. Nếu nhìn
thực tế, các hộ kinh doanh cá thể, trong đó có các nhà
hàng, quán ăn, shop, cửa hàng tạp hoá, bãi xe, phòng
khám trên khắp đất nước, số thu lớn nhưng đóng
góp trong năm 2017 chỉ bằng 1,6% tổng thu thuế là
điều bất hợp lý.
Nếu kể luôn hơn nửa triệu hộ kinh doanh bị lọt sổ,
chưa được đưa vào quản lý, thu thuế, thì rõ ràng khu
vực hộ kinh doanh có một khoảng trống thuế lớn
không bị kiểm soát. Do vậy, cần nhìn nhận khu vực
hộ kinh doanh cá thể và hoạt động thuế khoán như
là khu vực kinh tế chưa được quan sát, để nghiên cứu
làm rõ. Qua đó, sẽ có biện pháp thu đúng, thu đủ, thu
công bằng và chống thất thu cho ngân sách.
QUYĐỊNH LIÊN TỤC THAY ĐỔI
Thuế khoán được áp dụng đối với hộ kinh doanh cá
thể. Theo đó, “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc
một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt
Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh
doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động
và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
đối với hoạt động kinh doanh”4. Chính vì đặc thù
của hộ kinh doanh mang tính cá nhân, nhỏ lẻ nên từ
đầu các nhà làm luật áp dụng thuế khoán đối với hộ
kinh doanh nhằm đơn giản, thuận tiện và giảm chi
phí tuân thủ cho họ. Nếu doanh nghiệp phải có bộ
phận kế toán, có máy móc để khai thuế điện tử thì hộ
kinh doanh nộp thuế khoán sẽ được ấn địnhmộtmức
thuế ổn định trong vòng 1 năm, mà không cần phải
kê khai, khấu trừ như phương pháp kê thai thuế của
doanh nghiệp. Đặc điểm của hộ kinh doanh là chịu
trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh; hộ
kinh doanh chỉ phải tiến hành thủ tục đăng ký kinh
doanh tại Ủy ban Nhân dân quận, huyện và phải nộp
thuế khoán theomộtmức ấn định 5. Tuy nhiên, với sự
phát triển quá rộng lớn của lực lượng hộ thuế khoán,
cung cấpmột lượng không nhỏ hàng hoá cho các đơn
vị - mà các đơn vị này cần phải có hoá đơn để kê khai
thuế - nên các quy định đã được sửa đổi, cho phép hộ
kinh doanh được mua hoá đơn. Do vậy, hiện nay các
hộ kinh doanh có nhu cầu hoá đơn thì vừa phải nộp
thuế khoán vừa phải nộp thuế dựa trên kê khai hoá
đơn, khiến việc tính thuế trở nên phức tạp hơn.
738
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):737-744
Hình 1: So sánh tỷ lệ thuế khoán của hộ kinh doanh cá thể trong tổng thu của ngành thuếa
aNguồn: Tổng Cục thuế
Về mặt lý thuyết, hộ kinh doanh cá thể không thuộc
loại hình doanh nghiệp nào, nhưng lại được quy định
trong Luật doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp phải
thực hiện phương pháp kê khai khấu trừ thuế thì
hộ kinh doanh được áp dụng thuế khoán. Dù thuế
khoán, hộ kinh doanh vẫn phải chịu sự điều chỉnh của
rất nhiều sắc thuế, phí, tương tự như đối với doanh
nghiệp. Cụ thể, hộ kinh doanh chịu các sắc thuế,
phí như phí môn bài, thuế giá trị gia tăng, thuế thu
nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi
trường, phí bảo vệ môi trường. Các sắc thuế, phí này
được quy định bởi các luật thuế và phí, lệ phí, được
hướng dẫn bởi rất nhiều Thông tư, Nghị định và các
văn bản dưới luật. Do đó, việc tìm hiểu về chính sách
thuế đối với hộ kinh doanh rất khó khăn, dễ dẫn đến
khó trong thực thi và quản lý.
Cách tính thuế cũng liên tục thay đổi. Riêng về chính
sách thuế thu nhập cá nhân đối với hộ kinh doanh,
trước năm 2015 được xây dựng theo hướng quân bình
theo chiều dọc – tức điều chỉnh mức thuế theo từng
đối tượng trong xã hội bằng cách tính giảm trừ gia
cảnh, áp dụng biểu thuế lũy tiến 7 bậc 6 và phải quyết
toán thuế thu nhập cá nhân vào cuối năm. Nhưng do
số lượng hộ kinh doanh đông, có đặc điểm là kinh
doanh không ổn định, có thể ngừng nghỉ hoặc kinh
doanh trở lại bất cứ lúc nào hoặc chỉ kinh doanh theo
thời vụ, đại đa số là có trình độ hiểu biết pháp luật
thấp, không thực hiện sổ sách kế toán, không áp dụng
công nghệ thông tin trong quản lý nên việc tính toán
giảm trừ gia cảnh, theo luỹ tuyến đối với từng cá nhân
hàng năm, tốn quá nhiều chi phí tuân thủ, quản lý.
Chính sự biến động ngừng nghỉ thường xuyên đó,
khiến cơ quan thuế khó có thể tính được số thuế họ
phải nộp là bao nhiêu, các cơ quan quản lý thuế cấp
trên cũng không thể kiểm soát theo rủi ro đối với việc
quản lý hộ kinh doanh của cơ quan thuế cấp dưới, rất
dễ xảy ra hiện tượng bắt tay - thoả thuận ngầm nhằm
giảm số thuế phải nộp.
Để giải quyết những vướng mắc đó, kể từ 1/1/2015,
chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với hộ kinh
doanh được sửa đổi từ chiều dọc, sang chiều ngang.
Các hộ kinh doanh có quy mô, ngành nghề như nhau
thì sẽ nộp thuế như nhau. Với cách tính thuếmới đơn
giản chỉ cần nhân (x) doanh thu với thuế suất sẽ ra số
thuế phải nộp7. Quy định này đơn giản, giúp hộ kinh
doanh tự tính toán số thuế của mình, giúp cơ quan
thuế giám sát được việc tính thuế của cán bộ thuế.
Tuy nhiên, do mỗi ngành nghề đặc thù khác nhau,
nên có nhiều mức thuế suất khác nhau. Hiện giờ, hộ
kinh doanh cá thể nộp thuế khoán theo 4 nhómngành
nghề chính gồm:
- Nhóm ngành thương mại: thuế giá trị gia tăng 1%
và thuế thu nhập cá nhân 0,5%.
- Nhóm ngành dịch vụ, xây dựng không bao thầu
nguyên vật liệu: thuế giá trị gia tăng là 5% và thuế
thu nhập cá nhân là 2%.
739
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):737-744
- Nhóm ngành sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với
hàng hoá, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu: thuế
giá trị gia tăng là 3% và thuế thu nhập cá nhân là 1,5%.
- Nhóm ngành nghề, lĩnh vực khác: thuế giá trị gia
tăng là 2%, thuế thu nhập cá nhân là 1%.
Nhóm ngành này được phân định dựa trên sự án
chừng theo tỷ suất lợi nhuận của từng nhóm ngành
nên chưa sát thực tế. Do vậy, qua vài năm áp dụng, đã
bộc lộ nhiều điểm yếu.
PHƯƠNG PHÁP ÁP THUẾ CHƯA
KHOAHỌC
Vì đặc thù của thuế khoán là không thực hiện chế độ
hoá đơn, chứng từ, nên việc giao thương giữa hộ kinh
doanh cá thể với doanh nghiệp, tổ chức sẽ khó khăn
vì không có hoá đơn. Do vậy, Bộ Tài chính ban hành
Thông tư 92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015 quy định
rõ, hộ kinh doanh không phải thực hiện sổ sách kế
toán, hoá đơn, chứng từ và nộp thuế theo phương
khoán và hộ kinh doanh nộp thuế khoán vẫn được
sử dụng hóa đơn của cơ quan thuế để cung cấp cho
khách hàng. Doanh thu tính thuế là doanh thu khoán
và doanh thu thực tế phát sinh trên hóa đơn và nộp
thuế khoán riêng, thuế theo hóa đơn riêng - không
gộp chung như trước. Thông tư cũng bổ sung thêm
hình thức công khai thông tin hộ khoánđể tăng cường
giám sát của cơ quan ban ngành địa phương, tăng
cường sự giám sát của người dân (trong đó công khai
danh sách hộ kinh doanh đến từng hộ kinh doanh
cùng địa bàn, công khai doanh thu vàmức thuế khoán
trên website ngành thuế); quy định trách nhiệm của
CụcThuế trong kiểm soát việc quản lý hộ kinh doanh
tại các Chi cụcThuế trên địa bàn.
Các căn cứ để ấn định doanh số đối với hộ kinh doanh
cá thể cũng khá phức tạp. Trong khi doanh nghiệp
được quyền tự tính – tự khai – tự nộp8 thuế và tự
chịu trách nhiệm thì hộ kinh doanh đượcHội đồng tư
vấn thuế phường xã ấn định số thu ổn định cho mỗi
năm. Hội đồng tư vấn thuế phường xã gồm Chủ tịch
Ủy ban Nhân dân, cán bộ tài chính, đại diện Công an,
đại diện Uỷ banMặt trận Tổ quốc và cán bộ phụ trách
thuế phườn ... án thấp
hơn), nên hiện có nhiều đơn vị kinh doanh có doanh
số 100-200 tỷ đồng/năm, sử dụng hàng trăm lao động
nhưng vẫn đăng kýmôhình hộ kinh doanh. Nhiều hộ
kinh doanh nộp thuế khoán nhưng hoạt động trong
các lĩnh vực cung cấp máymóc thiết bị công nghệ cao
(thiết bị y tế, thiết bị thí nghiệm, máy móc xây dựng),
cung cấp hàng tiêu dùng nhập khẩu, cung cấp nguyên
740
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):737-744
vật liệu có nguồn gốc tài nguyên khoáng sản (gỗ, cát,
sỏi, đá xây dựng, ....) - là những lĩnh vực hoạt động
kinh doanh không phù hợp với mô hình hộ khoán,
không thực hiện sổ sách kế toán, dễ dẫnđến tình trạng
núp bóng hộ khoán để không thực hiện nộp thuế theo
đúng kết quả sản xuất kinh doanh thực tế. Ngoài ra,
còn dễ phát sinh việc lợi dụng hoá đơn của hộ kinh
doanh để tiêu thụ hàng hoá nhập lậu - thất thu thuế
nhập khẩu, hợp thức hoá đầu vào cho doanh nghiệp
để trốn thuế thu nhập doanhnghiệp; lợi dụng hoá đơn
của hộ kinh doanh trong việc tham nhũng làm thất
thoát ngân sách nhà nước tại các đơn vị sử dụng vốn
ngân sách nhà nước cũng có thể diễn ra. Có nhiều hộ
kinh doanh mới thành lập nhưng đã phát sinh doanh
thu sử dụng hoá đơn lên đến cả trăm tỷ đồng/năm.
Nếu cơ quan thuế thực hiện kiểm tra thì đóng cửa,
giải thể để thành lập hộ kinh doanhmới để tránh việc
kiểm soát của cơ quan thuế.
Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp quy định, hộ kinh
doanh tối đa không quá 10 lao động, nhưng vì luật
không có chế tài xử lý, nên có rất nhiều hộ kinh doanh
quy mô lớn vẫn hoạt động theo mô hình hộ khoán để
hưởng thuế suất thấp, mà không bị xử lý.
Kiến nghị:
- Bãi bỏ cácmức khoán thuế giá trị gia tăng chêch lệch
nhau, thống nhất một mức thuế giá trị gia tăng cho cả
hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp, dựa trên thực
tế bán hàng của đơn vị. Vì sắc thuế này do người tiêu
dùng cuối cùng trả, nên cần phải thu bằng nhau. Khi
việc áp thuế khoán không còn có lợi, thì trao quyền
cho người kinh doanh được tự chọn mô hình kinh
doanh là hộ cá thể hay doanh nghiệp, mà không cần
ràng buộc theo quymô doanh số, vốn hay số lao động.
- Loại bỏ việc vừa áp dụng thuế khoán, vừa áp dụng
kê khai thuế khi sử dụng hoá đơn cho cùng một hộ
kinh doanh. Khi một hộ cùng lúc được áp dụng hai
loại thuế là khoảng trống cho kẻ gian dồn doanh số
của thuế khoán sang xuất hoá đơn cho doanh nghiệp
đưa vào chi phí, nhằmgiảm số thuế thu nhập phải nộp
của doanh nghiệp.
Chỉphân theo2nhóm: dịchvụvà thươngmại
Hộ kinh doanh hiện được áp dụng thuế suất thấp hơn
so với doanh nghiệp. Thông thường tổng thuế điều
tiết đối với hộ kinh doanh từ 1,5% đến 7%. Trong đó,
thuế thu nhập cá nhân được áp với mức rất thấp, chỉ
0,5% - 1% - 1,5% - 2% (tuỳ theo nhóm ngành). Trong
khi đó, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%
trên thunhập chịu thuế. Mặc dù, thuế thunhậpdoanh
nghiệp tính trên phần lợi nhuận, còn thuế thu nhập cá
nhân của hộ khoán tính trên doanh thu nên thấp hơn.
Tuy nhiên, nếu xác định mức thuế thu nhập cá nhân
2% (căn cứ vào mức thuế 20% trên lợi nhuận) thì tỷ
suất lợi nhuận được xác định chỉ 10%; nếu mức thuế
thu nhập cá nhân 1% thì tỷ suất lợi nhuận 5%... Ví dụ,
bác sĩ cạo vôi răng với giá 200.000 đồng, phải nộp 1%
thuế thu nhập cá nhân, tức chỉ 2.000 đồng, như vậy,
áp phương pháp khấu trừ của doanh nghiệp (nộp 20%
trên lợi nhuận) thì số thuế 2.000 phải nộp quy ra lợi
nhuận được xác định là 10.000 đồng, tương đương tỷ
suất lợi nhuận 5%. Điều đó cho thấy, mức thuế đối
với hộ khoán quá thấp. Trong thực tế, ngành dịch vụ
kể trên sẽ có tỷ lệ lợi nhuận rất cao, đến khoảng 50%
doanh thu, chứ không phải 5% như thể trên.
Do vậy, cần phải phân theo 2 nhóm hàng hoá: nhóm
thương mại (mua bán) với nhóm dịch vụ. Qua đó,
xác định mức thuế suất đối với ngành dịch vụ phải
cao hơn nhiều lần so với nhóm thương mại.
Vì thực tế, cùng là hộ khoán nhưng nếu phân vào các
nhóm khác nhau sẽ có mức thuế khoán khác nhau.
Dù không có cơ sở lý luận nào cho thấy các mức thuế
suất này phù hợp hay không, nhưng trong thực tế,
mức thuế thể hiện sự bất hợp lý. Chẳng hạn, người
kinh doanh dịch vụ giữ xe phải nộp thuế cao hơn
phòng khám của bác sĩ. Ví dụ, một bãi giữ xe cũng
đầu tưmáymóc, phòng cháy chữa cháy, máy soi, cam-
eracódoanh số 500 triệu đồng/tháng sẽ bị tính thuế
thuộc nhóm “dịch vụ không bao thầu nguyên liệu” với
mức thuế suất là 7% (gồm 2% thuế thu nhập cá nhân
và 5% thuế giá trị gia tăng). Số thuế chủ bãi xe phải
nộp là 500 triệu x 7% = 35 triệu đồng/tháng. Trong
khi đó, một phòng khám bác sĩ cũng có doanh số 500
triệu đồng/tháng nhưng được phân vào nhóm “ngành
nghề, lĩnh vực khác” nên chỉ áp thuế 3% (gồm1% thuế
thu nhập doanh nghiệp và 2% thuế giá trị gia tăng)
nên số thuế phải nộp chỉ 500 triệu x 3% = 15 triệu
đồng/tháng. Chứng minh cho thấy có sự khác biệt
lớn trong tính thuế giữa các ngành nghề, chênh lệch
hơn gấp đôi.
Một bất hợp lý khác không kém phần quan trọng nữa
là dù luật quy định mức thuế suất của từng nhóm
ngành thấp, nhưng thất thu lại nằm ở khâu xác định
doanh số. Rất nhiều hộ kinh doanh nộp thuế khoán
ở các chợ đầu mối có doanh số hàng trăm triệu đồng,
thậmchí cả tỷ đồng/đêmnhưng số thuế hiện nay được
khoán cho mỗi hộ chỉ chừng chục triệu đồng đến 15
triệu đồng/tháng, là quá ít. Ví dụ, với mức bán thấp
nhất ở chợ đầu mối là 100 triệu đồng/đêm x 30 đêm
= 3 tỷ đồng/tháng. Nhóm ngành thương mại có mức
thuế suất 1,5% (0,5% thuế thu nhập cá nhân và 1%
thuế giá trị gia tăng) thì số thuế phải nộp là 45 triệu
đồng/tháng – nhưng thực tế chỉ khoán 10-15 triệu
đồng/tháng. Điều đó cho thấy một con số thất thu
thuế khủng ở lĩnh vực thuế khoán. Nguyên nhân, cán
741
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):737-744
bộ bắt tay với hộ kinh doanh để giảmdoanh thu nhằm
trốn thuế, “cưa” lợi ích.
Ngoài ra, cần tách thuế giá trị gia tăng ra khỏi mức
khoán thuế, vì thuế này đã được Luật thuế Giá trị gia
tăng quy định thống nhất cho từng loại hàng hoá, dịch
vụ, nên căn cứ vào mức thuế suất trong luật để áp vào
doanh số bán hàng để thu.
Từ đó, cần kiến nghị một số giải pháp để tăng cường
quản lý, chống thất thu thuế như:
- Phân lại, phân chi tiết nhóm ngành vàmức thuế phù
hợp với tỷ suất lợi nhuận trung bình, tương ứng với
tỷ suất lợi nhuận 20% của doanh nghiệp. Việc này chỉ
tạm thời, vì dần dần nên hướng đến áp dụng khấu trừ
thuế thống nhất đối với các hình thức kinh doanh,
để tránh lỗ hỏng thuế. Khi chưa áp dụng khấu trừ
thuế, cũng chỉ nên ấn định thuế khoán đối với thuế
thu nhập cá nhân, còn thuế giá trị gia tăng là thuế do
người tiêu dùng đóng, cần phải thống nhất thuế suất
chung cho cả hộ kinh doanh lẫn doanh nghiệp.
- Gắn máy tính tiền, để theo dõi doanh số bán hàng
của hộ kinh doanh, để tính đúng doanh thu thực tế,
tránh việc hội đồng tư vấn thuế bắt tay với hộ kinh
doanh giảm doanh số khoán.
Giảmchiphíquản lý, thốngnhấtmộtđầumối
trách nhiệm
Nếumỗi hội đồng tư vấn thuế phường xã gồm5 người
(trong đó có 1 cán bộ thuế chuyên trách) thì cả nước
có 11.162 xã phường, tính trung bình có đến 55.810
người lo chuyện tính thuế khoán ở địa phương. Dẫu
biết hầu hết là cán bộ kiêm nhiệm, nhưng với lực
lượng đông như thế, mà mỗi năm chỉ thu được 2%
trong tổng số thu thì liệu số thu có đủ để bù đắp
được chi phí quản lý? Đó là chưa kể, khi bỏ sót trong
thu thuế - điểm hình là việc lọt sổ hơn nửa triệu hộ
kinh doanh - thu thuế không đúng, không đủ, thì vẫn
không xác định được trách nhiệm thuộc về ai.
Do vậy, để giảm chi phí tuân thủ và chi phí quản lý,
tăng hiệu quả quản lý, cần một chế độ quản lý thuế
hiện đại. Mặc dù từ năm 2016, ngành thuế thực hiện
thí điểm nộp thuế điện tử thông qua tổ chức kinh
tế nhận ủy nhiệm thu thuế (do Ủy ban Nhân dân
phường xã, không có cơ sở vật chất và phương tiện để
thực hiện nhận và gửi dữ liệu thu thuế bằng phương
thức điện tử cho cơ quan thuế). Đã có 316/711 Chi
cụcThuế (đạt 43,7%) tham gia thí điểm nộp thuế điện
tử của cá nhân kinh doanh qua tổ chức nhậnuỷ nhiệm
thu thuế hay nộp thuế điện tử (POS), tin nhắn điện
thoại, nộp thuế tại địa chỉ đăng ký, thanh toán tại quầy
giao dịch của đơn vị nhận uỷ nhiệm thu thuế, thanh
toán tại các điểm thu di động giúp việc nộp thuế
trở nên thuận tiện, tiết kiệm được thời gian, công sức.
Thế nhưng, việc ứng dụng công nghệ thông tin này
chỉ mới giải quyết khâu “đầu ra” là nộp thuế. Trong
khi, chi phí tuân thủ và chi phí quản lý lại nằm ở khâu
“đầu vào”, tức là tính thuế, xác định thuế, áp thuế ở
địa phương. Do vậy, để giảm chi phí quản lý cần thay
đổi chính sách theo hướng:
- Chỉ một lực lượng cán bộ thuế chịu trách nhiệm, các
ngành khác chỉ giám sát.
- Tăng mức phạt thật nặng đối với người vi phạm để
đủ sức răn đe.
- Giao quyền tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu
trách nhiệm cho hộ kinh doanh cá thể như đối với
doanh nghiệp. Khi đó sẽ giải tán hội đồng tư vấn thuế
phường xã. Cán bộ thuế dành thời gian đi hậu kiểm
và xử phạt đơn vị, cá nhân vi phạm.
-Ứngdụng công cụ côngnghệ thông tin trong quản lý.
Ngành thuế trang bị máy POS tính tiền cho tất cả các
hộ kinh doanh, có gắn kết nối với mạng của cơ quan
thuế để cơ quan thuế có thể giám sát doanh số bán của
hộ kinh doanh. Nếu ngân hàng phục vụ khách hàng,
gắn máy POS tính tiền ở các điểm kinh doanh, thì cơ
quan thuế thu tiền, phải đầu tư hệ thống để đảm bảo
giám sát công bằng, tránh thất thu trong lâu dài là cần
thiết.
- Sửa đổi Luật thuế Giá trị gia tăng theo hướng xem
phiếu tính tiền từ máy POS có mã số hộ kinh doanh
của từng hộ là hoá đơn chứng từ hợp pháp khi kê khai,
khấu trừ thuế. Từ đó, dần dần sẽ tiến tới khấu trừ thuế
thu nhập cá nhân đối với từng cá nhân, nhằm khuyến
khích cá nhân nhận hoá đơn. Có thể áp dụng cả
phần mềm trong máy POS tính tiền bằng cách doanh
nghiệp, cá nhân mua hàng chỉ cần nhập mã số thuế
thì hoá đơn đó sẽ được chuyển dữ liệu tự động vào hồ
sơ thuế của bên mua (đồng thời thông báo qua điện
thoại di động hoặc tin nhắn trên mạng để người mua
theo dõi), đến cuối năm, bên mua sẽ có dữ liệu sẵn
quyết toán thuế mà không cần phải giữ hoá đơn giấy.
Khi tất cả hộ kinh doanh, doanh nghiệp cùng sử dụng
hoá đơn chứng từ trong mọi hoạt động mua bán thì
sẽ không có khoảng trống thuế nữa. Sẽ không còn
chuyện những hộ kinh doanh dùng phần bán cho cá
nhân không lấy hoá đơn rồi dồn doanh số đó xuất hoá
đơn khống bán cho doanh nghiệp khác, giúp họ kê
khai, khấu trừ thuế hoặc hoạch toán trục lợi tiền từ
ngân sách.
KẾT LUẬN
Bài báo đã chỉ ra rằng, do hai phươngpháp tính thuế là
phương pháp trực tiếp (thuế khoán) và phương pháp
khấu trừ (đầu ra trừ (-) đầu vào của hàng hóa, dịch
vụ) có độ chênh lệch lớn về xác định số thuế phải
nộp; đặc biệt với việc áp dụng các loại hóa đơn khác
nhau (hóa đơn trực tiếp và hóa đơn giá trị gia tăng) đã
742
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):737-744
tạo ra khoảng trống thuế, giúp người nộp thuế và cán
bộ thuế bắt tay trục lợi, gây thất thu cho ngân sách
nhà nước. Với việc phân nhiều nhóm ngành để ấn
định thuế suất trong quy định pháp luật hiện hành gây
phức tạp và khó áp dụng, bởi hoạt động kinh doanh
nhỏ lẻ thường đa ngành nghề, doanh số lại thống nhất
chung, không có hóa đơn, chứng từ xác định từngmặt
hàng thì khó có thể thực hiện đúng phân nhómngành
áp thuế, từ đó việc xác định sai nhằm giảm số thuế sẽ
dễ xảy ra. Từ đó, bài báo cũng hàm ý chính sách thuế
khoán xây dựng theo hướng tinh gọn nhóm ngành;
thống nhất cách áp thuế dựa trên doanh số thực thông
qua việc ứng dụng công nghệ thông tin (máy POS tính
tiền kết nối với cơ quan quản lý thuế); đồng thời tăng
hậu kiểm để phát hiện sai phạm; sửa đổi chế tài theo
hướng tăng nặng mức xử phạt đối với người vi phạm
để đủ tính răn đe.
TUYÊN BỐ XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột
lợi ích nào trong công bố bài báo.
TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC
GIẢ
Toàn bộ nội dung bài viết chỉ do tác giả thực hiện (dựa
trên số liệu của Tổng Cục thuế và đối chiếu với quy
định pháp luật).
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Tổng Cục thuế. Báo cáo tổng kết công tác Thuế năm 2015,
2016, 2017 và 2018;.
2. Điều 3 Thông tư 92/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính;.
3. Bộ Tài Chính, Báo cáo tìnhhình thungân sáchnăm2015, 2016,
2017, 2018;.
4. Khoản 1 Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP hướng dẫn về thủ
tục đăng ký kinh doanh của Luật doanh nghiệp . 2014;.
5. Nghị định 78/2015/NĐ-CP hướng dẫn về thủ tục đăng ký kinh
doanh của Luật doanh nghiệp. 2014;.
6. Nghị định 75/2002/NĐ-CP quy định về lệ phí môn bài; Nghị
định 139/2016/NĐ-CP quy định về lệ phí môn bài;.
7. Khoản 2 Điều 2 Thông tư 92/2015/TT-BTC hướng dẫn thực
hiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân đối với
cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh;.
8. Luật số 71/2014/QH13 Luật thuế Thu nhập Doanh nghiệp;.
9. Thông tư số 208/2015/TT-BTC về hoạt động của Hội đồng tư
vấn thuế xã, phường, thị trấn;.
10. Luật số 13/2008/QH12 Luật thuế Giá trị gia tăng;.
743
Science & Technology Development Journal – Economics - Law and Management, 4(2):737-744
Open Access Full Text Article Review
Sai Gon Giai Phong newspaper
Correspondence
Dang Thi Han Ni, Sai Gon Giai Phong
newspaper
Email: hannisggp@gmail.com
History
 Received: 10/05/2019 
 Accepted: 05/07/2019 
 Published: 30/06/2020
DOI : 0.32508/stdjelm.v4i2.625 
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Tax gaps to business households
Dang Thi Han Ni*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
The article starts from tax revenue loss to individual business households. From the fact that indi-
vidual business households account for the largest number in the country yet the budget revenue
from this group is lowest, the article points out irrationalities in legal regulations and management
mechanismwhich result in the issue. Specifically, tax policies have not been developed on a scien-
tific basis, tax calculationmethods are changed regularly and divided into many groups of industry
with a large difference in tax rates. In addition, the inconsistency in the regulations on invoices has
caused varying applications and paved the way for illegitimate activities in tax calculation. There-
fore, the article proposes to change policies and improve the legal system so as to uniform tax
calculation methods for mitigating illegitimate activities, reducing the revenue loss from tax and
ensuring a fair playground to different types of businesses. Besides, the article suggests applying IT
in the tax management for better transparency, just tax treatment, better compliance by the busi-
ness households and reduction of compliance costs. This also can make it easier for government
agencies to manage and reduce negative issues, especially in the context of Industry 4.0 and the
world's development trend.
Key words: Tax revenue loss, individual business household tax, tax improvement
Cite this article : Ni D T H. Tax gaps to business households. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 
4(2):737-744.
744

File đính kèm:

  • pdfkhoang_trong_thue_trong_linh_vuc_thue_khoan_doi_voi_ho_kinh.pdf