Khoảng trống giữa nhu cầu và sử dụng dịch vụ khám sức khỏe tiền hôn nhân

Nghiên cứu nhằm mô tả sự khác biệt giữa nhu

cầu và thực trạng khám sức khỏe tiền hôn nhân.

Phương pháp: Kết hợp nghiên cứu định lượng và

nghiên cứu định tính. Kết quả: Nhu cầu khám sức

khỏe tiền hôn nhân trong nhóm phụ nữ nghiên cứu là

khá cao (76,5% và 86,5%) trong khi đó chỉ có 8,3%

những phụ nữ trong số đó đi khám sức khỏe trước

khi cưới. Những lý do được đưa ra nhằm giải thích

cho khoảng trống lớn này là việc thiếu thông tin về

dịch vụ chăm sóc sức khỏe tiền hôn nhân, sự chủ

quan về các vấn đề sức khỏe và sự e ngại khi đề cập

đến vấn đề này giữa cặp nam nữ thanh niên sắp

thành vợ chồng

pdf 4 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Khoảng trống giữa nhu cầu và sử dụng dịch vụ khám sức khỏe tiền hôn nhân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khoảng trống giữa nhu cầu và sử dụng dịch vụ khám sức khỏe tiền hôn nhân

Khoảng trống giữa nhu cầu và sử dụng dịch vụ khám sức khỏe tiền hôn nhân
 Y HỌC THỰC HÀNH (905) – SỐ 2/2014 
89
kiểm phi tham số Krusal-Kwallis. Tuổi nghề NLĐ nữ 
là 10 năm. Tuổi nghề NLĐ nam là 10 năm. 
Do luật lao động nên tuổi lao động nam là 60 tuổi 
nhiều hơn 5 tuổi so với nữ 55 tuổi. Vì thế cũng có sự 
khác biệt về tuổi đời bị ĐNN ở 2 giới, nam là 32 tuổi 
cao hơn nữ 31 tuổi. Có sự khác biệt về tuổi đời giữa 
các nhóm ngành nghề. Như đã phân tích ở trên, vì có 
số lượng đông là nữ (86,9%) nên tuổi đời bị ĐNN 
ngành Da giày là 31 năm 
Khi NLĐ ngành Da giày làm việc 1 năm trong môi 
trường ồn thì tỷ lệ ĐNN tăng lên 1,1 lần, với p<0,001. 
Tuổi đời bị ĐNN ngành Da giày là 31 năm. Về tuổi 
đời của từng giới với phương sai có sự khác biệt nên 
dùng phép kiểm phi tham số Krusal-Kwallis. Tuổi đời 
NLĐ nữ ngành Da giày là 41 năm. Tuổi đời NLĐ nam 
là 32 năm 
KẾT LUẬN 
Qua kiểm tra thính lực 1800 NLĐ đang làm việc 
trong ngành nghề Da giày có tiếng ồn cao >85dBA 
cho thấy tỷ lệ ĐNN là thấp 1,5%; như vậy 66 NLĐ 
trong môi trường tiếng ồn cao vượt mức mới có 1 bị 
ĐNN. Khi NLĐ làm việc tăng thêm 1 năm thì nguy cơ 
bị ĐNN tăng lên 1,1 lần. 
Mức độ ô nhiễm tiếng ồn vượt khá cao ở ngành 
Da giày có tỷ lệ số điểm ồn và cường độ vượt mức là 
(13,3% - 91dBA). Qua kiểm tra thính lực 1800 NLĐ 
đang làm việc trong ngành nghề Da giày có tiếng ồn 
cao >85dBA cho thấy, tỷ lệ ĐNN là 1,5%; như vậy có 
66 NLĐ ở môi trường tiếng ồn cao vượt mức thì có 1 
bị ĐNN. Khi NLĐ làm việc tăng thêm 1 năm thì nguy 
cơ bị ĐNN tăng lên 1,1 lần. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Đăng Quốc Chấn, Nguyễn Hữu Khôi, Bùi 
Đại Lịch (2005), “ Đánh giá sơ bộ tình hình bệnh ĐNN 
trên địa bàn TP.HCM”, Hội nghị khoa học kỹ thuật lần 
thứ 22, Tạp chí y học TP.HCM, tập 9, số 1, 2005, tr. 
139-142. 
2. Nguyễn Đăng Quốc Chấn và cộng sự (2009), Tình 
hình ĐNN tại một số nhà máy, xí nghiệp có tiếng ồn cao 
(>85dBA) tại TP.HCM – Biện pháp phòng ngừa, đề tài 
cấp Thành phố do Sở Khoa học công nghệ ký theo 
quyết định số 104/QĐ-SKHCN ngày 24/3/2009, tr.49-87. 
3. Phạm Khánh Hòa (1995), ”Phòng chống điếc và 
nghễnh ngãng” Nội San Tai Mũi Họng số chuyên đề, Hội 
Tai Mũi Họng Việt Nam,Hà Nội, tháng 5, tr. 48. 
4. Đặng Xuân Hùng (2000), Khảo sát ĐNN ở NLĐ 
một số nhà máy dệt tại TPHCM, nghiên cứu sản xuất 
nút tai chống ồn bảo vệ thính lực cho NLĐ, Luận án Tiến 
sĩ Y học, ĐH Y Dược TP.HCM, tr.34 -36, tr. 110 - 113, tr. 
126 - 129. 
5. Ngô Ngọc Liễn (1983), “Bảng tính tổn thương cơ 
thể trong giám định điếc nghề nghiệp”, Tập san giám 
định Y khoa II/1983, tr. 51-57. 
6. Ngô Ngọc Liễn (2001), “Ảnh hưởng tiếng ồn đến 
thính lực người lao động ngành giao thông”, Nội san Tai 
Mũi Họng, 4/2001, tr. 3-8. 
7. Ngô Ngọc Liễn (2001), Thính học ứng dụng, NXB 
Y Học, tr. 9-231. 
8. Nguyễn Thị Toán (1992),” Tìm hiểu thính lực của 
công nhân nhà máy xi măng Bỉm Sơn”, Tập san y học lao 
động, tr 57-58. 
9. Lê Trung, Nguyễn thị Toán (2004), Chẩn đoán 
bệnh ĐNN, Viện Y Học Lao Động và Vệ Sinh Môi 
Trường, Bộ Y Tế, tr. 2-40. 
10. Trung Tâm Bảo vệ sức khỏe lao động & môi 
trường TP.HCM (2006), Báo cáo tổng kết hoạt động, tr. 
3-6. 
11. Viện Y Học Lao Động và Vệ Sinh Môi Trường 
(2003), Hai mươi mốt BNN được bảo hiểm. NXB Y học, 
tr. 124-142. 
12. Marques FP, da Costa EA (2006), “Exposure to 
occupational noise: otoacoustic emissions test 
alterations”, Rev Bras Otorrinolaringol, May-Jun, 72(3), 
pp. 362-6. 
13. Marshall L, Lapsley Miller JA, Heller LM (2001), 
“Distortion-Product Otoacoustic Emissions as a 
Screening Tool for Noise-Induced Hearing Loss”, Noise 
Health, 3(12), pp. 43-60. 
14. Noise-induced hearing loss” J Acoust Soc Am, 
Jul, 120(1), pp. 280-96. 
KHOẢNG TRỐNG GIỮA NHU CẦU VÀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ 
KHÁM SỨC KHỎE TIỀN HÔN NHÂN 
NGUYỄN THỊ THÚY HẠNH – Trường Đại học Y Hà Nội 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu nhằm mô tả sự khác biệt giữa nhu 
cầu và thực trạng khám sức khỏe tiền hôn nhân. 
Phương pháp: Kết hợp nghiên cứu định lượng và 
nghiên cứu định tính. Kết quả: Nhu cầu khám sức 
khỏe tiền hôn nhân trong nhóm phụ nữ nghiên cứu là 
khá cao (76,5% và 86,5%) trong khi đó chỉ có 8,3% 
những phụ nữ trong số đó đi khám sức khỏe trước 
khi cưới. Những lý do được đưa ra nhằm giải thích 
cho khoảng trống lớn này là việc thiếu thông tin về 
dịch vụ chăm sóc sức khỏe tiền hôn nhân, sự chủ 
quan về các vấn đề sức khỏe và sự e ngại khi đề cập 
đến vấn đề này giữa cặp nam nữ thanh niên sắp 
thành vợ chồng 
Từ khóa: nhu cầu, khám sức khỏe tiền hôn nhân. 
SUMMARY 
THE GAP BETWEEN NEED AND USING THE 
SERVICES OF PRE-MARITAL HEALTH EXAMINATION 
The study aims to describe the difference between 
premarital health examination need and reality. 
Methods: Combine qualitative study and quantitative 
study. Results: Health examination need in the group 
of studied women is high (76.5% and 86.5%) 
wheareas there is only 8.3% of them have premarital 
 Y HỌC THỰC HÀNH (905) – SỐ 2/2014 
90 
health examinations. Given reasons for this huge gap 
is the lack of information on premarital health 
examination service, subjectivism about health 
problems and hesitation when the problem is 
mentioned between the couples before married. 
Keywords: need, premarital health examination. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hôn nhân có vai trò quan trọng trong đời sống của 
con người và xã hội. Cuộc sống gia đình sau hôn 
nhân có ổn định, khỏe mạnh và hạnh phúc thì xã hội 
cũng ổn định và phát triển. Khám sức khỏe trước khi 
kết hôn nhằm đảm bảo cuộc sống hạnh phúc của vợ 
chồng sau khi cưới. Khi vợ chồng kết hôn có sức 
khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản tốt thì làm giảm 
đáng kể các nguy cơ trong quá trình mang thai và 
những đứa con sinh ra được khỏe mạnh, do vậy mà 
làm giảm tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, tỷ lệ chết mẹ, tỷ lệ 
chết của trẻ em dưới 1 tuổi, hay làm giảm được tỷ lệ 
trẻ suy dinh dưỡng nếu các bà mẹ có kiến thức đầy 
đủ về nuôi con. Khám sức khỏe trước khi kết hôn 
nhằm giảm được tỷ lệ trẻ sinh ra bị dị tật bẩm sinh 
hay thiểu năng trí tuệ, nó là nỗi đau không chỉ của 
những gia đình có trẻ bị bệnh hay dị tật nói riêng mà 
còn là gánh nặng cho xã hội nói chung. Việc khám 
sức khỏe trước khi kết hôn nhằm phát hiện phòng 
ngừa và hướng dẫn điều trị các bệnh lý có nguy cơ 
ảnh hưởng đến sức khỏe khi kết hôn, mang thai, sinh 
đẻ, nuôi con bằng sữa mẹ, các nguy cơ sinh con bị 
bệnh, tật bẩm sinh, góp phần đảm bảo hôn nhân bền 
vững và nâng cao chất lượng giống nòi [1]. Khác với 
nhiều quốc gia trên thế giới thì tại Việt Nam việc 
khám sức khỏe tiền hôn nhân (SK THN) chưa được 
quy định bới pháp luật [2]. Hiện nay các dịch vụ khám 
SK THN nhân chưa được phổ biến rộng rãi. Trong 
một vài nghiên cứu đã cho thấy sự xuất hiện nhu cầu 
chăm sóc sức khỏe tiền hôn nhân trong nhóm những 
cặp vợ chồng sắp cưới [3]. Chính vì lý do đó nghiên 
cứu này được thực hiện với mục tiêu: (1) Mô tả nhu 
cầu khám sức khỏe tiền hôn nhân trong nhóm phụ nữ 
kết hôn năm 2009 – 2012 tại tại 2 xã Phù Linh và thị 
trấn Sóc Sơn; (2) Mô tả thực trạng khám sức khỏe 
tiền hôn nhân của nhóm phụ nữ trên. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu: Phụ nữ đã kết hôn từ 
1/2009 đến 8/2012 tại xã Phù Linh và thị trấn Sóc 
Sơn, huyện Sóc Sơn. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
* Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả, kết hợp 
nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính. 
* Kỹ thuật thu thập thông tin: 
Phỏng vấn trực tiếp đối tượng nghiên cứu dựa 
vào bộ câu hỏi phỏng vấn. 
Áp dụng cách tiếp cận nhân học để thăm dò và 
tìm hiểu sâu vấn đề. 
* Chọn mẫu và cỡ mẫu: 
Định lượng: Theo công thức ước tính cỡ mẫu cho 
một tỷ lệ cỡ mẫu tính được là 317, lấy thêm 10% do 
đối tượng từ chối phỏng vấn hay đối tượng vắng mặt 
tại thời điểm nghiên cứu, tổng số cỡ mẫu tối thiểu là 
349, làm tròn là 350. Lấy mẫu toàn bộ tại hai xã đã 
phỏng vấn được 362 phụ nữ. 
Định tính: chọn những phụ nữ từ nghiên cứu định 
lượng có đi khám SK THN và không đi khám SK 
THN, chọn bố mẹ của những cặp vợ chồng trên, cán 
bộ y tế, cán bộ truyền thông,. 
KẾT QUẢ 
1. Nhu cầu khám sức khỏe tiền hôn nhân 
* Nhu cầu khám SK THN cho chính bản thân 
Đa số phụ nữ trong nghiên cứu đều có nhu cầu 
được khám sức khỏe trước khi cưới (71,5% trước khi 
cưới và tăng lên 86,5% sau khi cưới). 
71,5%
28,5%
Có nhu cầu
Không có nhu cầu
 Biểu đồ 1. Nhu cầu khám sức khỏe THN tại thời điểm 
trước khi kết hôn 
86,5%
13,5%
có nhu cầu 
Biểu đồ 2. Nhu cầu khám sức khỏe THN tại thời điểm sau 
khi kết hôn 
Qua biểu đồ 1 và biểu đồ 2 thấy rằng nhu cầu 
khám SK THN là khá cao cả tại thời điểm họ chưa 
kết hôn và thời điểm sau khi họ đã kết hôn. Nhu cầu 
khám SK THN tại thời điểm sau khi kết hôn của 
những phụ này cao hơn thời điểm trước khi họ kết 
hôn. Điều này tương đồng với nghiên cứu định tính. 
Khi những người phụ nữ lập gia đình, họ đã có 
những trải nghiệm cuộc sống vợ chồng và chứng 
kiến các vấn đề liên quan đến sức khỏe của con 
cái/những cặp vợ chồng khác, họ cảm nhận rằng việc 
khám SK THN là cần thiết hơn lúc họ còn chưa lập 
gia đình. Có nhiều nguyên nhân khiến cho họ nghĩ 
đến việc đi khám sức khỏe trước khi kết hôn. Một vài 
phụ nữ đi khám sức khỏe trước khi kết hôn cho rằng 
họ đi khám vì sợ sau này sinh con có thể bị dị tật, và 
họ khám với mục đích phòng bệnh cho những đứa 
con sau này. Lý do nữa khiến cho nhiều phụ nữ nghĩ 
đến việc đi khám sức khỏe trước khi cưới là họ muốn 
chắc chắn rằng mình có khả năng sinh con, hay nói 
chính xác hơn là họ muốn khẳng định rằng họ không 
bị vô sinh. Nhiều trường hợp cưới nhau rồi không có 
con làm họ lo lắng, với họ những đứa con là sợi dây 
gắn kết tình cảm của hai vợ chồng, nếu không có con 
thì cuộc sống gia đình thiếu hạnh phúc. 
Với những phụ nữ đã kết hôn mà trước đây 
không đi khám SKTHN thì gần như tất cả đều mong 
muốn nếu như được quay trở lại thời điểm trước khi 
cưới và họ sẽ đi khám sức khỏe để đảm bảo cho 
cuộc sống gia đình được tốt hơn. Hầu hết họ cho 
rằng nếu như khám sức khỏe trước khi cưới sẽ có 
thể biết tình trạng sức khỏe của mình và bạn đời, có 
 Y HỌC THỰC HÀNH (905) – SỐ 2/2014 
91
thể chữa trị kịp thời hay phòng tránh một số bệnh 
khác. Một số những người phụ nữ này đã bày tỏ rằng 
họ cảm thấy tiếc vì đã không khám sức khỏe trước 
khi kết hôn:“Thì mình nghĩ là nó rất là cần thiết, kể cả 
bây giờ, ví dụ trước như bọn chị thì thực ra mà nói thì 
kết hôn thì là nó cũng lớn tuổi rồi thế nhưng mà trước 
mình cũng không hiểu biết lắm nên là để đến bây giờ 
mình mới thấy là nó tiếc ý” (T., 29 tuổi). 
Nhu cầu đi khám SK THN, nhưng không phái tất 
cả những phụ nữ có nhu cầu đều đi khám SK THN, 
những lý do được đưa ra là vì họ cảm thấy khỏe, 
không có đủ thời gian đi khám, vì điều kiện xa không 
đi được, hay cũng có thể do họ sợ rằng đi khám có 
thể dẫn đến làm rách màng trinh, hoặc sợ mọi người 
nghĩ không hay về chính bản thân mình. 
Bên cạnh những người thực sự mong muốn được 
khám sức khỏe trước khi kết hôn thì có một số người 
khác không có nhu cầu này, thâm chí họ cho rằng 
thanh niên bây giờ không có nhu cầu về vấn đề này. 
Họ đưa ra một số lý do giải thích cho việc không có 
nhu cầu hay thậm chí không nghĩ đến việc khám sức 
khỏe trước khi kết hôn, đó là họ không có thông tin 
về việc chăm sóc sức khỏe tiền hôn nhân, hoặc thậm 
chí họ không nghĩ đến vấn đề này, không có ai đi 
khám trước đây nên họ cho rằng vấn đề này không 
quan trọng. 
Tóm lại, nghiên cứu cho thấy nhu cầu khám SK 
THN khá cao. Họ mong muốn đực biết tình trạng sức 
khỏe của mình và đặc biệt là sức khỏe của những 
đứa con trong tương lai. Tuy nhiên thì nhu cầu này ở 
mỗi người là khác nhau, và chính vì vậy mà những 
cách thức tìm kiếm dịch vụ hay sử dụng dịch vụ cũng 
rất khác nhau. Nhưng nhìn chung, đa phần họ muốn 
khám để chắc chắn rằng họ khỏe mạnh và có thể 
sinh con. Bên cạnh những phụ nữ rất có nhu cầu 
trong việc chăm sóc sức khỏe trước khi cưới thì có 
một bộ phận không nghĩ đến việc này. 
* Nhu cầu được biết tình hình sức khỏe của 
người bạn đời tương lai 
Ngoài nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho bản thân 
và những đứa trẻ trong tương lai thì những phụ nữ 
trong nghiên cứu còn bày tỏ nhu cầu muốn biết được 
tình trạng sức khỏe người chồng tương lai của họ.Tại 
thời điểm trước khi kết hôn, những người phụ nữ này 
muốn chồng tương lai của họ làm những xét nghiệm 
cơ bản về máu để tránh những bệnh lây truyền như 
HIV, viêm gan B, hay thậm chí họ còn muốn những 
người chồng tương lai làm xét nghiệm tinh dịch đồ để 
chắc chắn rằng họ sẽ có những đứa con với nhau. 
Bên cạnh đó, gia đình, bố mẹ và người thân của 
những phụ nữ này cũng mong muốn biết được tình 
trạng sức khỏe của người chuẩn bị là một thành viên 
trong gia đình:“Nói thật với chị là lúc đấy thì bố mẹ 
em với bên nhà em bảo là đi kiểm tra xem thế nào vì 
bố mẹ cứ thấy anh ấy gầy gầy. Bởi vì thấy thứ nhất là 
nhà chỉ có một mình anh ấy thôi, với thứ hai là thấy 
anh ấy cứ gầy gầy thế nên mọi người cứ nghĩ là anh 
ấy, sợ bị bệnh gì hay là bị làm sao đấy” (N., 22 tuổi). 
Không chỉ riêng những người phụ nữ và gia đình 
của cô ta muốn biết tình trạng của người bạn đời 
tương lai mà ngược lại cũng có những gia đình mong 
muốn biết được tình trạng sức khỏe con dâu tương 
lai của họ, đặc biệt là vấn đề sức khỏe sinh sản, họ 
muốn chắc chắn rằng người con dâu dó có thể sinh 
cháu nội cho họ. 
Những phụ nữ này có mong muốn biết được sức 
khỏe người bạn đời tương lai nhưng không dám bày 
tỏ, họ lo sợ rằng người bạn trai-người chồng sắp 
cưới sẽ nghi ngờ vào tinh cảm của họ, hoặc do họ e 
ngại vấn đề này vì vấn đề được đưa ra còn rất tế nhị, 
hay họ tự cho rằng nếu có đề cập vấn đề này với 
chồng sắp cưới thì chồng cũng không đi. “Thật ra là 
mình nghĩ là anh rất cần phải khám, nhưng mà lúc 
đấy cũng e ngại nữa chị nên là không dám, ngày xưa 
mình yêu nhau không như bây giờ đâu, mình ở quê 
nữa nên mình hủ tục lắm” (H., 27 tuổi). 
Kêt quả nghiên cứu định tính đã chỉ ra rằng hầu 
hết tất cả những phụ nữ trong nghiên cứu đều mong 
muốn biết được tình trạng sức khỏe của chồng sắp 
cưới. Tuy nhiên, mong muốn là thế, nhưng không 
phải người phụ nữ nào cũng bày tỏ vấn đề này với 
chồng sắp cưới của họ, họ sợ mất niềm tin vào tình 
yêu, họ ngại, hoặc họ nghĩ rằng có nói thì chồng cũng 
không đi. 
* Thực trạng sử dụng dịch vụ khám sức khỏe 
tiền hôn nhân 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đi khám sức 
khỏe tiền hôn nhân của những phụ nữ đã kết hôn tại 
xã Phù Linh và thị trấn Sóc Sơn huyện Sóc Sơn là 
8,3%. Còn lại 91,7% phụ nữ tại đây không đi khám 
sức khỏe trước khi kết hôn. 
BÀN LUẬN 
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy nhu cầu khám 
sức khỏe tiền hôn nhân khá cao trong khi tỷ lệ những 
người phụ nữ đi khám lại rất thấp. 
Những người phụ nữ đã kết hôn có nhu cầu khám 
cao hơn so với những nhóm phụ nữ khác mặc dù họ 
đã không đi khám trước khi kết hôn, nhưng khi họ có 
những trải nghiệm về cuộc sống gia đình thì họ mong 
muốn được khám nếu như họ được quay lại khoảng 
thời gian trước khi kết hôn. Kết quả này tương tự với 
nghiên cứu của Đỗ Ngọc Tấn khi về nhu cầu khám 
sức khỏe tiền hôn nhân [4]. Nghiên cứu của Đỗ Ngọc 
Tấn chỉ ra rằng phần lớn những đối tượng trong độ 
tuổi kết hôn đều cho là việc khám sức khỏe tiền hôn 
nhân là rất cần thiết [4]. Một số nghiên cứu khác cũng 
cho kết quả tương tự, như nghiên cứu của Lương Kim 
Phúc và Nguyễn Hải Yến tại Hà Nam cho thấy nhu cầu 
khám sức khỏe tiền hôn nhân là khá cao [3], [5]. 
Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng có khoảng trống 
lớn giữa nhu cầu và thực trạng khám sức khỏe trước 
khi kết hôn. Trong khi đa số phụ nữ có nhu cầu khám 
sức khỏe tiền hôn nhân nhưng thực tế chỉ có 8,3% đã 
khám sức khỏe tiền hôn nhân trước khi họ kết hôn. 
Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ được khám SKTHN trong 
nghiên cứu này còn cao hơn trong một nghiên cứu tại 
Hà Nam năm 2012 là 5.6% [5]. 
Có rất nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho 
 Y HỌC THỰC HÀNH (905) – SỐ 2/2014 
92 
“khoảng trống” giữa nhu cầu và thực trạng khám sức 
khỏe tiền hôn nhân, đó là nam nữ thanh niên “ngại” đi 
khám do các yếu tố văn hóa, chủ quan về sức khỏe 
của mình, sự tin tưởng trong tình yêu, điều kiện kinh 
tế cũng như sự hạn chế về thông tin và dịch vụ [6]. 
KẾT LUẬN 
Sự khác biệt lớn giữa như cầu được cung cấp 
dịch vụ khám sức khỏe tiền hôn nhân và thực trạng 
sử dụng dịch vụ đạt ra câu hỏi cho các nhà nghiên 
cứu và hoạch định chính sách y tế để lấp được 
khảng trống này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Thủ tướng Chính phủ (2011). Quyết định số 
2013/QĐ-TTg ngày 14 tháng 11 năm 2011 của Thủ 
tướng Chính phủ - Chiến lược dân số và sức khỏe sinh 
sản giai đoạn 2011-2020. 
2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam (2000). Luật hôn nhân và gia đình. 
3. Lương Kim Phúc (2013). Nhu cầu chăm sóc sức 
khỏe tiền hôn nhân tại xã Kim Bình huyện Kim Bảng tỉnh 
Hà Nam năm 2012. 
4. Đỗ Ngọc Tấn (2004). Đánh giá kết quả triển khai 
mô hình kiểm tra sức khỏe và tư vấn tiền hôn nhân tại 
Hưng Yên và Huế. Dân số và phát triển. 
5. Nguyễn Hải Yến (2013). Thực trạng sử dụng dịch 
vụ chăm sóc sức khỏe tiền hôn nhân và một số yếu tố 
liên quan của phụ nữ kết hôn năm 2009 – 2012 tại 4 xã 
huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. 
6. Lê Thị Mơ (2013). Một số yếu tố khó khăn trong 
việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tiền 
hôn nhân của phụ nữ tại xã Kim Bình huyện Kim Bảng 
tỉnh Hà Nam năm 2012. 
NGHI£N CøU §ÆC §IÓM CËN THÞ HäC §¦êNG ë HäC SINH TIÓU HäC 
 Vµ TRUNG HäC C¥ Së Hµ NéI N¡M 2009 
Vò ThÞ Thanh*, §oµn Huy HËu**, Hoµng ThÞ Phóc*** 
* Bệnh viện Mắt Hà Nội; ** Học viện Quân y; *** Bệnh viện Mắt TW 
TÓM TẮT 
Mục đích nghiên cứu: Khảo sát tỷ lệ tật khúc xạ 
của học sinh tại thành phố Hà Nội. Phương pháp 
quan sát phân tích, cắt ngang. Nghiên cứu trên 
6.184 học sinh (3.222 nam và 2.962 nữ) tiểu học và 
trung học cơ sở từ 6- 15 tuổi ở 04 quận, huyện ở Hà 
Nội năm 2009. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ cận 
thị là 33,7% (khúc xạ cầu tương đương: ≥- 0,75D). Tỷ 
lệ cận thị ở học sinh nữ (35,0%) cao hơn học sinh 
nam (32,5%), (p<0,05). Tỷ lệ cận thị ở học sinh quận 
Ba Đình (42,3%), quận Thanh Xuân (41,0%) và 
huyện Từ Liêm (44,3%) cao hơn so với huyện Đông 
Anh (18,8%), (p<0,001). 
Từ khóa: Tật khúc xạ, cận thị. 
SUMMARY 
Aim: to study the prevalence of refractive error of 
school children at Hanoi. Methods: cross - sectional 
and prospective study in 2009. The study carry out 
on 6.184 children (3.222 males, 2.962 females) from 
primary and secondary schools, of 4 districts in 
Hanoi, aged 7 -15 years. Results: the prevalence 
of myopia (SE at least – 0.75D): 33,7%. The rate 
of myopia in female children (35.0%) were than male 
children (32.5%), (p <0.05). The rate of myopia in Ba 
Dinh district (42.3%), Thanh Xuan district (41.0%) 
and Tu Liem (44.3%) were higher than the Dong Anh 
district (18.8%), (p<0.001). 
Keywords: Refractive error, myopia. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tật khúc xạ nói chung, cận thị học đường (CTHĐ) 
nói riêng đang ngày càng tăng, là mối quan tâm của 
từng gia đình và toàn xã hội [1], [9], [12]. Cận thị học 
đường làm ảnh hưởng đến sức khỏe và khả năng 
học tập, sinh hoạt của học sinh [2], [14]. Ở Việt Nam, 
CTHĐ đã được chú ý từ những năm 1960, nhưng 
đến nay vẫn chiếm tỷ lệ khá cao và có xu hướng tăng 
nhanh, không chỉ ở khu vực thành thị mà ở cả khu 
vực nông thôn [3], [4], [5], [7]. 
Để góp phần nâng cao hiệu quả của chương trình 
phòng chống các bệnh học đường, công trình được 
tiến hành nhằm mục tiêu: “Mô tả đặc điểm cận thị 
học đường ở học sinh tiểu học và trung học cơ 
sở Hà Nội năm 2009”. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
Gồm 6.184 HS (3.222 nam và 2.962 nữ) tiểu học 
và trung học cơ sở (THCS) từ 6- 15 tuổi ở 04 quận, 
huyện ở Hà Nội là Ba Đình, Thanh Xuân, Từ Liêm và 
Đông Anh. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân 
tích. 
- Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức 
mô tả cắt ngang, ước tính là 5.780 HS. Thực tế đã 
nghiên cứu 6.184 HS. 
- Khám mắt, đo thị lực và thử kính xác định TKX 
(cận thị, viễn thị, loạn thị) cho tất cả HS theo danh 
sách đã chọn. Đo khúc xạ bằng máy khúc xạ tự 
động. 
- Mắt được coi là cận thị: Khi khúc xạ cầu tương 
đương (KXCTĐ) ≥- 0,75D). Người được coi là cận thị 
khi có một mắt hoặc cả hai mắt cận thị. 
Số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê y 
sinh học bằng phần mềm SPSS 13.0. 

File đính kèm:

  • pdfkhoang_trong_giua_nhu_cau_va_su_dung_dich_vu_kham_suc_khoe_t.pdf