Khó khăn và thách thức khi áp dụng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam

Trong xu thế hội nhập sâu rộng và toàn diện nền kinh tế toàn cầu, việc lập và trình bày báo cáo tài chính

theo Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ngày càng nhận được sự ủng hộ của các nước trên thế

giới. Tại Việt Nam, việc áp dụng IFRS sẽ nâng cao uy tín quốc gia và góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập

kinh tế thế giới cũng như công cuộc cải cách ở Việt Nam. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm chỉ ra những

khó khăn và thách thức khi áp dụng IFRS tại Việt Nam thông qua việc phân tích các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng

đến việc áp dụng IFRS, bao gồm: hệ thống luật pháp, môi trường văn hoá, thị trường vốn, trình độ giáo dục

và vai trò của các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp.

pdf 5 trang phuongnguyen 280
Bạn đang xem tài liệu "Khó khăn và thách thức khi áp dụng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khó khăn và thách thức khi áp dụng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam

Khó khăn và thách thức khi áp dụng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam
49Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅISoá 10 (195) - 2019
1. Giới thiệu
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, toàn 
cầu hóa về hợp tác và phát triển kinh tế, lĩnh vực kế 
toán được xác định không còn là vấn đề mang tính 
nội tại, riêng biệt của từng quốc gia, việc tìm ra một 
ngôn ngữ chung cho các doanh nghiệp trong việc 
lập và trình bày báo cáo tài chính là hết sức cấp thiết. 
Để phù hợp với yêu cầu đa dạng của doanh nghiệp 
cũng như các nhà đầu tư, các quốc gia thường cho 
phép các doanh nghiệp lựa chọn chuẩn mực kế toán 
quốc gia hoặc chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế 
(IFRS) khi lập và trình bày báo cáo tài chính. Theo 
khảo sát của Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế 
(IASB), trong số 166 quốc gia và vùng lãnh thổ có 
144 quốc gia và vùng lãnh thổ đã tuyên bố yêu cầu 
áp dụng IFRS cho tất cả hoặc hầu hết các công ty, 
12 quốc gia và vùng lãnh thổ cho phép tất cả hoặc 
hầu hết các công ty sử dụng IFRS, 09 quốc gia và 
vùng lãnh thổ có chuẩn mực kế toán riêng hoặc đang 
chuyển sang IFRS, 01 quốc gia và vùng lãnh thổ yêu 
cầu áp dụng IFRS cho các tổ chức tài chính (IFRS 
Foundation, 2018).
Việt Nam là một trong số ít các quốc gia chưa áp 
dụng IFRS, đang áp dụng chuẩn mực kế toán Việt 
Nam (VAS) cho việc lập và trình bày báo cáo tài 
chính. Tuy nhiên, việc áp dụng VAS ngày càng bộc 
lộ nhiều hạn chế, một số nội dung chưa phù hợp 
với các giao dịch của kinh tế thị trường trong giai 
đoạn mới, nhất là trong bối cảnh thị trường vốn 
phát triển mạnh mẽ, xuất hiện nhiều loại công cụ 
tài chính phức tạp. Chính vì vậy, để phù hợp với xu 
thế toàn cầu hoá, cam kết áp dụng IFRS, Việt Nam 
đang hoàn thiện “Đề án áp dụng chuẩn mực kế toán 
quốc tế vào Việt Nam”. Đây có thể nhìn nhận như 
công cuộc cải cách kế toán lần thứ ba, đánh dấu một 
bước quyết định trong quá trình hội nhập toàn diện 
của kế toán Việt Nam với thế giới (Mai Ngọc Anh, 
2016). Cùng với đó, trong những năm qua có rất 
nhiều nghiên cứu liên quan đến việc làm thế nào 
để áp dụng IFRS, các yếu tố ảnh hưởng đến khả 
năng áp dụng IFRS vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, 
thông qua đó chỉ ra những điều kiện thuận lợi, các 
rào cản, thách thức khi áp dụng IFRS tại Việt Nam.
KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC KHI ÁP DỤNG CHUẨN MỰC 
BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM 
TS. Nguyễn Thu Hiền*
Ngày nhận bài: 4/9/2019
Ngày chuyển phản biện: 6/9/2019
Ngày nhận phản biện: 19/9/2019
Ngày chấp nhận đăng: 23/9/2019
Trong xu thế hội nhập sâu rộng và toàn diện nền kinh tế toàn cầu, việc lập và trình bày báo cáo tài chính 
theo Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ngày càng nhận được sự ủng hộ của các nước trên thế 
giới. Tại Việt Nam, việc áp dụng IFRS sẽ nâng cao uy tín quốc gia và góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập 
kinh tế thế giới cũng như công cuộc cải cách ở Việt Nam. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm chỉ ra những 
khó khăn và thách thức khi áp dụng IFRS tại Việt Nam thông qua việc phân tích các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng 
đến việc áp dụng IFRS, bao gồm: hệ thống luật pháp, môi trường văn hoá, thị trường vốn, trình độ giáo dục 
và vai trò của các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp.
• Từ khóa: báo cáo tài chính, IFRS, giá trị hợp lý, kế toán.
In the trend of extensive and comprehensive 
integration of the global economy, the preparation 
and presentation of financial statements in 
accordance with International Financial Reporting 
Standards (IFRS) are increasingly supported 
by countries around the world. In Vietnam, the 
adoption of IFRS will enhance national prestige 
and contribute to promoting the process of 
international economic integration as well as the 
reform process in Vietnam. The objective of this 
study is to point out the difficulties and challenges 
of applying IFRS in Vietnam by analyzing the 
macro factors affecting the adoption of IFRS, 
including: legal system, environment, culture, 
capital markets, education levels and the role of 
professional organizations and associations.
• Keywords: financial statement, IFRS, fair value, 
accounting.
* Học viện Tài chính
50 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Thông qua việc tổng hợp kết quả các nghiên cứu 
trong và ngoài nước về việc áp dụng IFRS cũng như 
một số yếu tố đặc thù ảnh hưởng đến việc áp dụng 
IFRS được phát hiện trong các nghiên cứu như: môi 
trường chính trị, luật pháp, kinh doanh, văn hóa, 
giáo dục, áp lực hội nhập, tăng trưởng kinh tế, thị 
trường vốn... Nghiên cứu này tập trung phân tích 
các yếu tố vĩ mô bao gồm: hệ thống luật pháp, môi 
trường văn hoá, thị trường vốn, trình độ giáo dục và 
vai trò của các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp ảnh 
hưởng đến việc áp dụng IFRS, từ đó chỉ ra những 
rào cản khi áp dụng IFRS tại Việt Nam.
2. Tổng quan nghiên cứu về các yếu tố ảnh 
hưởng đến việc áp dụng IFRS
2.1. Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế 
(IFRS)
IFRS được ban hành và phát triển bởi IASB 
nhằm mục đích tạo ra một ngôn ngữ kế toán chung 
trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính, từ đó 
báo cáo tài chính có thể dễ hiểu và dễ dàng so sánh 
hơn. Cho đến nay IASB đã ban hành 16 IFRS (có 
hiệu lực) và IFRS đang được phát triển liên tục (gần 
đây nhất IFRS 17 được ban hành để thay thế IFRS 
4 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2021). Cơ sở của 
IFRS là minh bạch, có trách nhiệm và hiệu quả đối 
với thị trường tài chính trên toàn thế giới và IFRS 
thường mang tính xét đoán nhiều hơn và được xem 
xét trên cơ sở nguyên tắc (principles) hơn là các qui 
định (rules), đang hướng tới việc ghi nhận theo giá 
trị hợp lý (fair value) hơn là ghi nhận theo giá gốc 
(historical cost).
2.2. Áp dụng và lợi ích của việc áp dụng IFRS 
Các nước đang phát triển đang ngày càng nỗ lực 
trở thành một phần của nền kinh tế toàn cầu do tổ 
chức đa quốc gia và hợp tác quốc tế về chính sách 
giữa các nước ngày càng gia tăng, vì vậy đòi hỏi 
thông tin minh bạch hơn (Alp & Ustundag, 2009). 
IFRS được ban hành đã tạo ra một ngôn ngữ kế toán 
chung trên toàn cầu trong việc lập và trình bày báo 
cáo tài chính. Áp dụng IFRS sẽ tăng khả năng so 
sánh của các thông tin tài chính và tăng chất lượng 
thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư, giảm rủi ro 
đầu tư, tăng hiệu quả của thị trường và giảm thiểu 
chi phí vốn. Do vậy, trong thời gian qua có khá 
nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới về việc 
áp dụng IFRS tại các quốc gia, đặc biệt tập trung 
nhiều vào các quốc gia đang phát triển, bởi việc áp 
dụng IFRS như một cách để các quốc gia này có 
được sự chấp nhận trong thế giới kinh doanh quốc 
tế (Saudagaran & Diga, 2000) và thu hút đầu tư trực 
tiếp nước ngoài. Ở các quốc gia mới nổi IFRS đang 
ngày càng được chấp nhận bất chấp những lo ngại 
về sự phù hợp của IFRS đối với các nền kinh tế đó. 
Các quốc gia này có rất ít sự lựa chọn ngoài việc 
tiến hành IFRS khi chịu áp lực từ các lực lượng bên 
ngoài (Phan, 2014). 
2.3. Các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến việc áp 
dụng IFRS
Hệ thống luật pháp: luật pháp được xem là 
một yếu tố tác động đến hệ thống kế toán quốc gia 
(Robert & cộng sự, 1998) và ảnh hưởng trực tiếp đến 
cách thức quản lý kế toán, đây là nhân tố được ghi 
nhận sớm về ảnh hưởng đến hệ thống kế toán quốc 
gia (Nobes & Parker, 1995, Dayanandan & cộng sự, 
2016). Nhiều nghiên cứu cho thấy môi trường luật 
pháp có ảnh hưởng đáng kể đến việc xây dựng các 
tiêu chuẩn và thực hành kế toán, điển hình là các 
nghiên cứu về ảnh hưởng của hai loại hệ thống luật 
pháp dựa trên thông luật (common law) hoặc điển 
luật (code law) đối với một số vấn đề kế toán. Theo 
đó, các quốc gia thuộc nhóm thông luật thường ít 
ban hành những quy định chi tiết về kế toán hơn các 
quốc gia thuộc hệ thống điển luật (Nobes & Parker, 
1995). Các doanh nghiệp thuộc các quốc gia dựa 
trên thông luật thường có công bố tài chính tốt hơn 
các doanh nghiệp thuộc các quốc gia dựa trên điển 
luật (Jaggi & Low, 2000). Ngoài ra, Dayanandan & 
cộng sự (2016) cho rằng tính pháp lý đã tác động 
đến việc sử dụng IFRS tại các quốc gia ở châu Âu; 
hay hệ thống pháp lý ảnh hưởng đến việc áp dụng 
IFRS (Zehri & Chouaibi, 2013; Lahmar & Asbi, 
2017). Perera & Baydoun (2007) tìm ra bằng chứng 
cho thấy sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật ở 
Indonesia và các nước có nền văn hóa Anglo-Saxon, 
điều này làm cho việc áp dụng IFRS ở Indonesia 
gặp những vấn đề nhất định.
Môi trường văn hóa: văn hóa là nhân tố tác động 
chủ yếu đến các chuẩn mực và giá trị của hệ thống 
xã hội cũng như hành vi của các nhóm tương tác 
trong hệ thống (Zeff, 1998), giải thích sự lựa chọn 
một hệ thống kế toán phù hợp với mỗi quốc gia. 
Điều này ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của 
kế toán và hệ thống báo cáo tài chính (Perera, 1989) 
cũng như kế toán quốc tế (Gray, 1988). Theo Nobes 
(1998), các quốc gia bị ảnh hưởng bởi những giá trị 
văn hóa như nhau thì thường áp dụng các tiêu chuẩn 
kế toán như nhau. Salter & Niswander (1995) cho 
rằng, nền văn hoá có mức độ né tránh rủi ro thấp thì 
hệ thống kế toán ít có khả năng bị điều chỉnh bởi các 
yêu cầu pháp lý bắt buộc nên sẽ thu hút mọi người 
sử dụng IFRS, và chấp nhận vận dụng báo cáo tài 
chính theo IFRS (Shima & Yang, 2012). Edeigba & 
cộng sự (2018) tìm thấy yếu tố văn hoá tổ chức và 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI Soá 10 (195) - 2019
51Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅISoá 10 (195) - 2019
đặc điểm doanh nghiệp là những yếu tố quan trọng 
quyết định đến việc áp dụng IFRS của các công ty 
tại Nigeria. Bên cạnh đó, các quốc gia châu Phi với 
nền văn hóa gần với Anh thì khả năng áp dụng IFRS 
lớn hơn (Stainbank, 2014). 
Trình độ giáo dục: IFRS được mô tả như một 
hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc và hướng 
tới việc ghi nhận theo giá trị hợp lý nên khá phức 
tạp, do vậy đòi hỏi sự hiểu biết, kiến thức chuyên 
sâu không chỉ về kế toán mà cả về các lĩnh vực 
khác. Việc thiếu kiến thức, giáo dục, đào tạo đầy 
đủ về IFRS (Jermakowicz & Gornik-Tomaszewski, 
2006) và khó khăn về ngôn ngữ (Istratea, 2015) là 
một trong những rào cản khi chuyển đổi sang IFRS. 
Phần lớn các quốc gia áp dụng IFRS thường có hệ 
thống giáo dục tốt (Kolsi & Zehri, 2008) và có các 
chương trình đào tạo cần thiết (Capkun & cộng 
sự, 2012). Ở các nước đang phát triển có trình độ 
giáo dục tiên tiến có nhiều xu hướng áp dụng IAS/
IFRS (Zeghal & Mhedhbi, 2006), hay mức độ phát 
triển của hệ thống đào tạo và áp dụng IAS/IFRS có 
mối quan hệ thuận chiều (Judge & cộng sự, 2010). 
Ngoài ra, trình độ của đội ngũ kế toán ảnh hưởng 
đến sự phát triển khung báo cáo tài chính và áp dụng 
IFRS (Chen & cộng sự, 2002; Lundqvist & cộng sự, 
2008), do vậy khi áp dụng IFRS cần có một năng 
lực nhất định (các cá nhân có trình độ thích hợp) 
(Hegarty & cộng sự, 2004).
Thị trường vốn: thực tế cho thấy, IFRS giúp 
cho thông tin có thể so sánh được trên diện rộng và 
như một ngôn ngữ kinh doanh chung trên toàn cầu. 
Nó giúp cho thị trường vốn quốc gia dễ dàng liên 
thông với thị trường vốn thế giới. Tuy nhiên, IFRS 
không phải phù hợp hoàn toàn với tất cả các quốc 
gia, bởi mỗi quốc gia có trình độ phát triển và chuẩn 
mực kế toán khác nhau. Ở các nước đang phát triển 
việc áp dụng giá trị hợp lý sẽ gặp nhiều khó khăn 
do thiếu thị trường hoạt động, chi phí áp dụng lớn 
hơn lợi ích mang lại, thiếu các kỹ thuật về đo lường 
(Kumarasiri & Fisher, 2011), trong khi IFRS đang 
hướng tới việc ghi nhận theo giá trị hợp lý. Điều 
này sẽ cản trở và ảnh hưởng đáng kể đến khả năng 
áp dụng IFRS tại các quốc gia này. Tại một số quốc 
gia, trong thực tiễn kế toán được điều chỉnh/thay đổi 
đến từ các thị trường vốn (Perumpral & cộng sự, 
2009). Thị trường vốn đóng vai trò quan trọng trong 
việc thuyết phục các công ty tăng cường khung báo 
cáo tài chính theo hướng công khai, thống nhất và 
có khả năng so sánh hơn (Roudaki, 2008) và ảnh 
hưởng tích cực đến việc lựa chọn và quyết định 
áp dụng IFRS (Zeghal & Mhedhbi, 2006; Zehri & 
Chouaibi, 2013). Ngoài ra, để phù hợp với tính toàn 
cầu của kinh tế thị trường và thị trường tài chính, các 
công ty đa quốc gia (môi trường kinh doanh phức 
tạp và mang tính toàn cầu) thường quy định đồng 
nhất trong việc lập báo cáo tài chính nhằm mang 
lại lợi ích cho nhà đầu tư, chủ nợ, nhà phân tích tài 
chính, kế toán và kiểm toán, đồng thời giúp cho việc 
so sánh báo cáo tài chính của các công ty ở những 
quốc gia khác nhau được dễ dàng hơn.
Vai trò của các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp: 
tổ chức nghề nghiệp có vai trò rất quan trọng, tác 
động đến hệ thống kế toán quốc gia (Robert & 
cộng sự, 1998). Ở các quốc gia mới nổi, những cản 
trở chính phải đối mặt trong việc thiết lập các tiêu 
chuẩn là do không có các tổ chức nghề nghiệp có 
ảnh hưởng (Roudaki, 2008). Vai trò của các tổ chức 
nghề nghiệp kế toán trong việc tiếp nhận IFRS có 
ý nghĩa cực kỳ quan trọng (Fikru, 2012) và ảnh 
hưởng đến việc chuyển đổi, vận dụng báo cáo tài 
chính theo IFRS (Nobes & Parker, 1995). Ở các 
nước có tổ chức nghề nghiệp kế toán phát triển sẽ 
giúp nhanh chóng cập nhật những thay đổi của IAS/
IFRS ban hành mới và thực hiện những điều chỉnh 
cần thiết phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc 
gia, từ đó có thể vận dụng IAS/IFRS một cách hiệu 
quả nhất (Chand & Patel, 2008). Ngoài ra, Halyer 
(2010) cho rằng có sự khác biệt giữa hệ thống chuẩn 
mực kế toán quốc gia và hệ thống IFRS, do vậy các 
hiệp hội kế toán, kiểm toán cần phải hỗ trợ trong 
việc triển khai đào tạo IFRS. 
3. Những khó khăn và thách thức khi áp dụng 
IFRS tại Việt Nam
Hệ thống luật pháp: hệ thống luật pháp ở Việt 
Nam dựa trên bộ luật (điển luật) nên hệ thống kế 
toán chú trọng việc ban hành chế độ cụ thể, ít cần 
đến xét đoán nghề nghiệp của kế toán viên. Chế độ 
kế toán chú trọng những vấn đề về thuế hơn là cung 
cấp thông tin cho các nhà đầu tư. Đồng thời, việc 
duy trì chế độ kế toán là cách để các cơ quan quản 
lý nhà nước quản lý công tác tài chính kế toán của 
doanh nghiệp. Trong khi, việc áp dụng IFRS thường 
mang tính xét đoán nhiều hơn và được xem xét 
trên cơ sở nguyên tắc hơn là các qui định, và IFRS 
hướng tới việc ghi nhận theo giá trị hợp lý hơn là ghi 
nhận theo giá gốc. Ngoài ra, các cơ chế, chính sách 
cũng như việc khuyến khích các doanh nghiệp áp 
dụng IFRS hiện vẫn chưa hoàn thiện, do vậy chưa 
có căn cứ pháp lý để thực hiện một số kỹ thuật đặc 
biệt của IFRS (ghi nhận tổn thất tài sản, ghi nhận giá 
trị hợp lý của một số tài sản tài chính, bất động sản 
đầu tư, tài sản sinh học,). Điều này có thể làm cản 
trở việc áp dụng IFRS tại Việt Nam. 
52 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Thị trường vốn: do nền kinh tế Việt Nam đang 
trong quá trình phát triển và chuyển đổi sang nền 
kinh tế thị trường, mức độ phát triển kinh tế cũng 
như thị trường tài chính Việt Nam còn thấp. Thị 
trường vốn chủ yếu hoạt động trong phạm vi quốc 
gia, chưa có sự liên thông nhiều với thị trường vốn 
của khu vực và thế giới, do quy mô còn nhỏ, sản 
phẩm ít và chất lượng còn thấp. Nhiều doanh nghiệp 
chưa tham gia/kế hoạch phát hành các công cụ nợ/
vốn trên thị trường nước ngoài, chỉ có ý định niêm 
yết và huy động vốn trên thị trường chứng khoán 
Việt Nam. Ngoài ra, các yếu tố thị trường nói chung 
chưa phát triển một cách đồng bộ (thị trường hàng 
hoá chưa phát triển, chưa tồn tại thị trường hoạt 
động thực sự cho các loại tài sản, thiếu các tổ chức 
định giá độc lập có uy tín để có thể thực hiện việc 
định giá các tài sản...). Trong khi, nền tảng cơ bản 
và chủ đạo chi phối IFRS là nguyên tắc giá trị hợp 
lý, do vậy, để áp dụng được IFRS đòi hỏi phải có 
một thị trường cung cấp đủ các dữ liệu cơ sở để có 
thể đánh giá, ghi nhận theo quy định, hướng dẫn của 
IFRS. Điều này cũng là một trong những rào cản 
cản trở việc áp dụng IFRS vào Việt Nam. 
Môi trường văn hóa: ở Việt Nam, đa phần đội 
ngũ quản lý được đào tạo và trưởng thành trong nền 
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp nên bị ảnh hưởng 
bởi văn hoá khuôn mẫu, nặng về hành chính, thận 
trọng né tránh rủi ro và sự không chắc chắn, đồng 
thời đã quen với việc sử dụng VAS (các ước tính kế 
toán ít hơn) và thận trọng hơn làm hạn chế những 
yếu tố không chắc chắn, vì vậy việc tiếp cận và thực 
hành với phương pháp mới của kế toán trong nền 
kinh tế thị trường gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh 
đó, tâm lí không muốn công khai tình hình tài chính 
hoặc cố tình che dấu những yếu kém sẽ là rào cản 
đối với quá trình tiếp cận IFRS vì IFRS sử dụng 
nhiều ước tính kế toán và đòi hỏi sự linh hoạt cùng 
với những phán xét nghề nghiệp cần thiết. Ngoài ra, 
chưa có sự bình đẳng trong quan hệ giữa cơ quan 
quản lý và doanh nghiệp (vẫn tồn tại nhiều thủ tục 
hành chính phiền hà, thái độ thiếu thân thiện với 
doanh nghiệp...). Đây tiếp tục là một trong những 
rào cản đối với việc áp dụng IFRS tại Việt Nam. 
Trình độ giáo dục: ở Việt Nam vẫn tồn tại một 
bộ phận kế toán được đào tạo và trưởng thành trong 
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp nên rất thận 
trọng, bảo thủ và hạn chế nhiều tính chủ động trong 
việc đưa ra các quyết định liên quan. Bên cạnh đó, 
phần lớn lại chưa được tiếp cận và đào tạo chuyên 
sâu về IFRS. Trong khi, việc áp dụng IFRS được 
cho là tương đối phức tạp, thậm chí phức tạp đối với 
cả các chuyên gia về tài chính kế toán, đội ngũ kiểm 
toán viên, và khó hiểu đối với người sử dụng, ngay 
cả ở những nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, IFRS sử 
dụng tiếng Anh và một số thuật ngữ kế toán sử dụng 
trong IFRS cũng tương đối phức tạp, mang tính chất 
chuyên ngành, đặc biệt chưa có từ tiếng Việt tương 
đương/sát nghĩa trong lĩnh vực kế toán, trong khi 
trình độ ngoại ngữ của nhân viên kế toán còn hạn 
chế nên ảnh hưởng đến khả năng đọc và hiểu tài liệu 
về IFRS. 
Vai trò của tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp: ở 
Việt Nam, Bộ Tài chính là cơ quan Nhà nước chịu 
trách nhiệm và có thẩm quyền soạn thảo và công bố 
chuẩn mực kế toán, tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp 
có trách nhiệm tham gia là thành viên ban soạn thảo, 
thẩm định và phản biện các dự thảo chuẩn mực kế 
toán trước khi ban hành. Do vậy, Hội chưa đóng vai 
trò chủ đạo trong quá trình soạn thảo chuẩn mực 
kế toán cũng như thực hành kế toán. Ngoài ra, Hội 
có vai trò tuyên truyền, quảng bá và tham gia trong 
quá trình triển khai áp dụng IFRS thông qua các 
hoạt động đào tạo, huấn luyện và kiểm tra, đánh 
giá việc thực hiện. Tuy nhiên, các tổ chức, hiệp hội 
nghề nghiệp chưa có sự phổ biến tích cực và hỗ trợ 
hướng dẫn thường xuyên về IFRS. Bên cạnh đó, 
nhân lực kế toán tại Việt Nam chưa được đào tạo 
chuyên sâu về IFRS, số lượng các chuyên gia và 
người làm công tác kế toán, kiểm toán có am hiểu, 
kinh nghiệm và kỹ năng lập báo cáo theo IFRS còn 
ít, trong khi các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp (Hội 
Kế toán và Kiểm toán Việt Nam - VAA, Hiệp hội 
Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam - VACPA,... và 
các đơn vị đào tạo trong nước) chưa có chương trình 
đào tạo về IFRS một cách bài bản, hệ thống. Chỉ có 
một số các tổ chức nghề nghiệp quốc tế như ACCA, 
CPA Australia, ICAEW,... có chương trình đào tạo 
IFRS cho một số học viên với số lượng rất khiêm 
tốn. Điều này sẽ gây khó khăn và là rào cản của việc 
áp dụng IFRS. 
4. Kết luận và khuyến nghị
Trong thời gian qua có nhiều nghiên cứu khác 
nhau trên thế giới về việc áp dụng IFRS tại các quốc 
gia, đặc biệt tập trung nhiều vào các quốc gia đang 
phát triển, bởi việc áp dụng IFRS như một cách để 
các quốc gia này có được sự chấp nhận trong thế 
giới kinh doanh quốc tế và thu hút đầu tư trực tiếp 
nước ngoài. Việc áp dụng IFRS thay đổi từ quốc gia 
này sang quốc gia khác theo nhiều yếu tố khác nhau, 
chẳng hạn như: trình độ giáo dục, pháp lý, văn hóa, 
chính trị, môi trường kinh tế và bối cảnh lịch sử của 
các quốc gia. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng 
chỉ ra rằng các quốc gia đang phát triển (trong đó có 
Việt Nam) sẽ gặp phải một số rào cản, khó khăn nhất 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI Soá 10 (195) - 2019
53Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
định khi lựa chọn áp dụng IFRS. Kết quả nghiên cứu 
này cho thấy, hệ thống luật pháp, môi trường văn 
hóa, thị trường vốn, trình độ giáo dục và vai trò của 
các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp là những rào cản 
cản trở trong việc áp dụng IFRS tại Việt Nam. Vì 
vậy, để triển khai áp dụng IFRS tại Việt Nam được 
thành công, có thể cân nhắc một số khuyến nghị 
sau: (1) các cơ quan quản lý Nhà nước, nhà hoạch 
định chính sách ở Việt Nam cần xem xét, nghiên 
cứu ban hành, sửa đổi và bổ sung, hoàn chỉnh hệ 
thống chuẩn mực kế toán quốc gia phù hợp cơ chế 
kinh tế mới và các chính sách, chế độ tài chính đã và 
sẽ ban hành; hoàn thiện cơ chế, chính sách cho việc 
áp dụng IFRS ở Việt Nam thông qua việc xây dựng 
các văn bản quy định và hướng dẫn Luật Kế toán, để 
thực hiện một số kỹ thuật đặc biệt của IFRS nhằm 
đảm bảo việc chuyển đổi sang áp dụng IFRS; hoạch 
định một lộ trình chắc chắn có tầm nhìn chiến lược 
cho việc áp dụng IFRS ở Việt Nam; (2) nâng cao 
vai trò của các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp thông 
qua việc thường xuyên mở các khóa đào tạo và tổ 
chức hội thảo với các chuyên gia trong lĩnh vực kế 
toán nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ kế toán 
viên để có thể lập báo cáo tài chính theo quan điểm 
của IFRS, đồng thời tuyên truyền và quảng bá rộng 
rãi dưới mọi hình thức để các nhà quản lý thấy cần 
thiết, các nhà đầu tư đòi hỏi và các nhà kế toán thấy 
hết trách nhiệm phải trình bày báo cáo tài chính theo 
IFRS; (3) thay đổi chương trình giảng dạy chuyên 
ngành kế toán trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt 
Nam, củng cố kiến thức của giảng viên và sinh viên 
kế toán về Chuẩn mực kế toán quốc tế nói chung và 
IFRS nói riêng; (4) khuyến khích nghiên cứu khoa 
học trong lĩnh vực lập và trình bày báo cáo tài chính 
theo IFRS thông qua việc tập trung vào nghiên cứu 
định kỳ, tổ chức hội thảo và hội thảo khoa học để 
có thể áp dụng IFRS phù hợp với điều kiện cụ thể ở 
Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
Capkun, V., Collins, D. W. & Jeanjean, T. (2012), “Does Adoption 
of IAS/IFRS Deter Earnings Management?”, SSRN Electronic Journal, 
doi:10.2139/ssrn.1850228.
Chand, P. & Patel, C. (2008), “Convergence and harmonization 
of accounting standards in the South Pacific region”, Advances in 
Accounting, incorporating Advances in International Accounting, 24 (1), 
83–92. 
Dayanandan, A., Donker, H., Ivanof, M. & Karahan, G. (2016), “IFRS 
and accounting quality: legal origin, regional, and disclosure impacts”, 
International Journal of Accounting & Information Management, 24 (3), 
296–316.
Edeigba, J., Gan, C. & Amenkhienan, F. (2018), “The Effects of 
Organisational Culture on IFRS Adoption: Evidence from Nigerian’ 
Companies”, International Journal of Accounting and Financial 
Reporting, 8 (1), 198-220.
Fikru, F. T. (2012), “The Adoption of International Financial 
Reporting Standards (IFRS) in Ethiopia: Benefits and Key Challenges”, 
PhD, Addis Ababa University, Addis Ababa, Ethiopia.
Gray, S. J. (1988), “Towards a theory of cultural influence on the 
development of accounting internationally”, Abacus, 24 (1), 1-15.
Hegarty, J., Gielen, F. & Barros, A .C. H. (2004), “Implementation 
of International Accounting and Auditing Standards: Lessons learned 
from the World Bank’s Accounting and Auditing ROSC Program”, 
Washington: World Bank. Available from: 
LessonsLearned_ROSC_AA.pdf [Accessed 1 December 2012].
IFRS Foundation (2018), Use of ifrs Standards around the world 
overview sept 2018, from .
Istrate, C. (2015), “The Persistence of the Accounting Policies After 
the Transition to IFRS of the Romanian Listed Companies”, Journal of 
Accounting and Management Information Systems, 14 (4), 599-626.
Jaggi, B. & Low, P. Y. (2000), “Impact of culture, market forces 
and legal system on financial disclosures”, The International Journal of 
Accounting, 35 (4), 495–519.
Jermakowicz, E. K. & Gornik-Tomaszewski, S. (2006), “Implementing 
IFRS from the perspective of EU publicly traded companies”, Journal of 
International Accounting, Auditing and Taxation, 15 (2), 170–196.
Judge, W., Li, S. & Pinsker, R. (2010), “National adoption of 
mtemational accounting standards, an instimtional perspective”, 
Corporate Governance An International Review, 18 (3), 161-174.
Lahmar, A.T. & Asbi, A. (2017), “Factors influence Adoption of 
International Financial Reporting Standards (IFRS) Adoption in Libya”, 
Global Journal of Accounting and Finance, 1, 18-32.
Lee, G. & Fargher, N. L. (2010), “Did the Adoption of IFRS 
Encourage Cross-Border Investment?”, SSRN Electronic Journal, 
doi:10.2139/ssrn.1686571.
Nobes, C. & Parker, R. (1995), Comparative International 
Accounting, 4th ed’, Oxford, UK: Phillip Allan/St. Martin’s Press.
Perera, H. & Baydoun, N. (2007), “Convergence with International 
Financial Reporting Standards: the case of Indonesia”, Advances in 
International Accounting, 20, 201–224. 
Perera, M. H. B. (1989), “Accounting in developing countries: A 
case for localized uniformity”, The British Accounting Review, 21(2), 
141-157.
Perumpral, S. E., Evans, M., Agarwal, S. & Amenkhienan, F. (2009), 
“The evolution of Indian accounting standards: Its history and current 
status with regard to International Financial Reporting Standards”, 
Advances in Accounting, incorporating Advances in International 
Accounting, 25 (1), 106–111. 
Phan, D. H. T. (2014), “What factors are perceived to influ-ence 
consideration of IFRS adoption by Vietnamese policymakers?”, Journal 
of Contemporary Issues in Business and Government, 20 (1), 27-40.
Rahman, A., Perera, H. & Ganesh, S. (2002), “Accounting practice 
harmony, accounting regulation and firm characteristics”, ABACUS, 38 
(1), 46-77. 
Robert, C. B., Weetman, P. & Gordon, P. D. (1998), International 
Financial Accounting: A Comparative Approach, Financial Times, 
Prentice Hall.
Roudaki, J. (2008), “Accounting profession and evolution of standard 
setting in Iran”, Journal of Accounting, Business & Management, 15 (1), 
33-52. 
Salter, S. B. & Niswander, F. (1995), “Cultural Influence on the 
Development of Accounting Systems Internationally: A Test of Gray’s 
[1988] Theory”, Journal of International Business Studies, 26 (2), 379-
397.
Saudagaran, S. M. & Diga, J. G. (2000), “The Institutional 
Environment of Financial Reporting Regulation in ASEAN”, The 
International Journal of Accounting, 35 (1), 1–26.
Shima, K.M. & Yang, D. C. (2012), “Factors Affecting the Adoption 
of IFRS”, International Journal of Business, 17 (3), 276-298.
Stainbank, L. J. (2014), “Factors Influencing the Adoption of 
International Financial Reporting Standards by African Countries”, 
South African Journal of Accounting Research, 28 (1), 79–95.
Zeff, S. A. (1998), “The IASC core standards: what will the SEC 
DO?”, The Journal of Financial Statement Analysis, 67-78.
Zeghal, D. & Mhedhbi, K. (2006), “An analysis of the factor affecting 
the adoption of international accounting standards by developing 
countries”, The International Journal of Accounting, 41 (4), 373-386. 
Zehri, F. & Chouaibi, J. (2013), “Adoption determinants of 
the internationalaccountingstandards IAS/IFRS by the developing 
countries”, Journal of Economics, Financial and Administrative Science, 
18 (35), 56-62.
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅISoá 10 (195) - 2019

File đính kèm:

  • pdfkho_khan_va_thach_thuc_khi_ap_dung_chuan_muc_bao_cao_tai_chi.pdf