Khẩu phần thực tế của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại xã Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội năm 2018

Nghiên cứu mô tả cắt ngang, điều tra khẩu phần trên 196 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại xã Cổ Loa, huyện

Đông Anh, Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp bằng phương pháp hỏi ghi khẩu phần 24

giờ. Tổng năng lượng ăn vào trung bình của đối tượng nghiên cứu là 2359,9 kcal/ngày, cao hơn so với nhu cầu

khuyến nghị của Viện dinh dưỡng năm 2016. Protein ăn vào là 95,4g cao hơn so với nhu cầu khuyến nghị của

Viện dinh dưỡng năm 2016 là 35,4g. Lipid ăn vào là 58,3g, cao hơn so với mức nhu cầu khuyến nghị của Viện

dinh dưỡng năm 2016. Tỉ lệ giữa Protein : Lipid : Glucid đạt nhu cầu khuyến nghị. Tỷ lệ protein động vật so với

protein tổng số và tỷ lệ lipid thực vật so với lipid tổng số đều lần lượt cao hơn khuyến nghị của Viện dinh dưỡng

năm 2016. Tỷ lệ canxi và photpho, chất xơ, sắt thấp hơn nhu cầu khuyến nghị của Viện dinh dưỡng năm 2016.

pdf 6 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Khẩu phần thực tế của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại xã Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội năm 2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khẩu phần thực tế của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại xã Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội năm 2018

Khẩu phần thực tế của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại xã Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội năm 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 39
KHẨU PHẦN THỰC TẾ CỦA PHỤ NỮ TRONG ĐỘ TUỔI SINH 
SẢN TẠI XÃ CỔ LOA, ĐÔNG ANH, HÀ NỘI NĂM 2018
Nguyễn Thị Thu Liễu¹ , Nguyễn Thị Duyên², Phan Thị Bích Hạnh¹ 
Đỗ Nam Khánh¹, Lê Thị Hương¹
¹Viện Đào tạo YHDP &YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội
²Sở Y tế Hà Nội
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, điều tra khẩu phần trên 196 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại xã Cổ Loa, huyện 
Đông Anh, Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp bằng phương pháp hỏi ghi khẩu phần 24 
giờ. Tổng năng lượng ăn vào trung bình của đối tượng nghiên cứu là 2359,9 kcal/ngày, cao hơn so với nhu cầu 
khuyến nghị của Viện dinh dưỡng năm 2016. Protein ăn vào là 95,4g cao hơn so với nhu cầu khuyến nghị của 
Viện dinh dưỡng năm 2016 là 35,4g. Lipid ăn vào là 58,3g, cao hơn so với mức nhu cầu khuyến nghị của Viện 
dinh dưỡng năm 2016. Tỉ lệ giữa Protein : Lipid : Glucid đạt nhu cầu khuyến nghị. Tỷ lệ protein động vật so với 
protein tổng số và tỷ lệ lipid thực vật so với lipid tổng số đều lần lượt cao hơn khuyến nghị của Viện dinh dưỡng 
năm 2016. Tỷ lệ canxi và photpho, chất xơ, sắt thấp hơn nhu cầu khuyến nghị của Viện dinh dưỡng năm 2016. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Khẩu phần ăn, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh.
Theo khảo sát của Viện dinh dưỡng, tỷ lệ 
thiếu hụt năng lượng trường diễn (chỉ số khối 
cơ thể - BMI <18,5 kg / m2) ở phụ nữ trong độ 
tuổi sinh sản giảm đáng kể giữa năm 1990 và 
2000 (từ 48% xuống 33,1%),¹ và tiếp tục giảm 
xuống 18% trong năm 2010.² Những thay đổi 
dinh dưỡng này có thể là do tăng trưởng kinh 
tế, tăng mức sống,¹ giảm tỷ lệ mắc bệnh truyền 
nhiễm và cải thiện mô hình tiêu thụ chế độ ăn 
uống.³ 
Mặc dù đã có những cải thiện đáng kể trong 
thập kỷ qua, tình trạng thiếu năng lượng trường 
diễn vẫn là một vấn đề sức khỏe cộng đồng 
quan trọng, ảnh hưởng đến một phần năm phụ 
nữ trong độ tuổi sinh sản tại Việt Nam.² Hơn hai 
phần ba tổng năng lượng trong khẩu phần thực 
tế của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản là từ các 
loại thực phẩm giàu tinh bột,4,5 đồng thời khẩu 
phần ăn không đủ lượng vi chất dinh dưỡng.⁶ 
Việc bổ sung dinh dưỡng không đầy đủ ở phụ 
nữ trong độ tuổi sinh sản có ý nghĩa quan trọng 
không chỉ đối với sức khỏe phụ nữ bao gồm 
suy dinh dưỡng và bệnh mạn tính mà còn ảnh 
hưởng tiêu cực đến kết quả mang thai và trẻ 
em, bao gồm tăng nguy cơ dị tật ống thần kinh, 
nhẹ cân và sinh non.⁷
Tuy nhiên, các dữ liệu về chế độ ăn uống 
cho phụ nữ ở Việt Nam là không đầy đủ, chỉ có 
rất ít nghiên cứu liên quan đến chủ đề này. Một 
số nghiên cứu ở cấp hộ gia đình đã được thực 
hiện bao gồm Khảo sát về mức sống hộ gia 
đình Việt Nam năm 2004⁴ và 2006.⁵ Tuy nhiên, 
những khảo sát này chỉ được thu thập tại hộ 
gia đình thay vì ở cấp độ cá nhân và không 
có dữ liệu nào cụ thể cho phụ nữ trong độ tuổi 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thu Liễu, Viện Đào tạo 
Y học dự phòng và Y tế công cộng - Trường Đại học 
Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 05/02/2020
Ngày được chấp nhận: 25/04/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 202040
sinh sản. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu “Khẩu phần thực tế của phụ nữ trong độ 
tuổi sinh sản tại xã Cổ Loa – Đông Anh, Hà Nội 
năm 2018”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (15 - 49 tuổi) 
có hộ khẩu thường trú, tại thời điểm điều tra 
hiện đang sinh sống tại Đông Anh, Hà Nội, 
không mắc bệnh cấp tính, không đang mang 
thai, đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn 
loại trừ đối tượng bao gồm những người không 
hợp tác, không giao tiếp được, đang mang thai.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Nghiên 
cứu được tiến hành trên địa bàn xã Cổ Loa, 
huyện Đông Anh, Hà Nội từ 01/08/2018-
30/09/2018.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn 
chủ đích xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội 
là nơi nghiên cứu. Lập danh sách phụ nữ trong 
độ tuổi sinh sản từ 15-49 tuổi. Sau đó, chọn 196 
đối tượng theo phương pháp ngẫu nhiên đơn.
Ước tính cỡ mẫu cho giá trị tỉ lệ:
n (p )
p(1 p)z12 22=
-
# f
- a
Trong đó:
n: Cỡ mẫu
p: Tỷ lệ phụ nữ có khẩu phẩn thực tế chưa 
đáp ứng nhu cầu khuyến nghị từ nghiên cứu 
trước;⁴ p = 0,35
ε: Độ chính xác tương đối bằng 0,2
α: Mức ý nghĩa thống kê, α = 0,05, như vậy 
Z1-α/2 = 1,96
Thay thế vào công thức, chúng tôi có n = 
178 đối tượng, lấy thêm 10% dự phòng vắng 
mặt hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu có 
cỡ mẫu là 196 phụ nữ
Nội dung, chỉ số nghiên cứu
Hỏi ghi khẩu phần: Phỏng vấn trực tiếp phụ 
nữ trong độ tuổi sinh sản về khẩu phần ăn bằng 
phương pháp hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua.
Khẩu phần ăn của phụ nữ được phân tích 
về giá trị năng lượng (kcal) và thành phần các 
chất dinh dưỡng, mức tiêu thụ LTTP, tính cân 
đối khẩu phần. Dựa vào nhu cầu khuyến nghị 
về giá trị năng lượng và các chất dinh dưỡng 
cho phụ nữ lứa tuổi trưởng thành (Viện Dinh 
Dưỡng Quốc Gia 2016), từ đó đánh giá được 
mức đáp ứng nhu cầu của khẩu phần.⁸ 
Thông tin chung: Phỏng vấn đối tượng để 
thu thập thông tin về tuổi trình độ học vấn, tình 
trạng hôn nhân.
Qui trình tiến hành nghiên cứu: Xây dựng 
phiếu thu thập thông tin trước khi điều tra chính 
thức. Sau đó, tiến hành tập huấn điều tra viên. 
Cuối cùng là tiến hành điều tra tại thực địa.
3. Xử lý số liệu
Số liệu khẩu phần ăn 24h qua được qui đổi 
và nhập vào phần mềm tính toán khẩu phần 
Access Database (sử dụng bảng thành phần 
các thức ăn Việt Nam). Số liệu được làm sạch, 
được nhập bằng phần mềm RedCap, xử lý 
bằng phần mềm thống kê STATA 14.0.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu chỉ thu thập số liệu khi được 
sự chấp thuận và đồng ý tham gia của đối 
tượng nghiên cứu. Mọi thông tin đều chỉ phục 
vụ cho mục đích nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
được trình bày trong Bảng 1. Trong tổng số 196 
đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ phụ nữ từ 15-20 
tuổi là 4,6%, 21-30 tuổi chiếm 20,4%, 31-40 
tuổi là 55,6% và 40-49 chiếm 19,4%. Về trình 
độ học vấn, tỉ lệ phụ nữ học hết trung học cơ sở 
(11,2%), trung học phổ thông (39,3%), trường 
dạy nghề (12,8%), cao đẳng (5,1%) và đại học 
(31,6%). 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 41
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Thông tin chung về đối tượng
n
(196)
%
(100)
Nhóm tuổi
15-20
21-30
31-40
40-49
9 4,6
40 20,4
109 55,6
38 19,4
Trình độ học vấn
≤ THCS 
≤ THPT
Trường dạy nghề
Cao đẳng, Đại học
22 11,2
77 39,3
25 12,8
10 5,1
Bảng 2. Thành phần giá trị dinh dưỡng trong khẩu phần của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản
Thành phần
Giá trị 
TB
Dưới 
khuyến nghị
Trên
khuyến nghị SD
Nhu cầu 
khuyến nghị
n % n %
Năng lượng (kcal) 2359,9 41 20,9 155 79,1 723 2030
Protein (g) 95,4 32 16,3 164 83,7 42,2 60
Protein động vật/Protein 
tổng số (%) 57,9 19 9,7 177 90,3 34,6 30 - 35
Lipid (g) 58,3 99 50,5 97 49,5 78,9 46 - 56
Lipid thực vật/Lipid tổng 
số(%) 39,8 140 71,4 56 28,6 76,9 40
Carbohydrat (g) 363,6 137 69,9 59 30,1 112,1 320
Xơ(g) 11,6 186 94,9 10 5,1 20,1 25
Canxi(mg) 893,1 156 79,6 40 20,4 250,1 800
Photpho(mg) 1738,8 27 13,8 169 86,2 112,3 700
Sắt(mg) 23,4 175 89,3 21 10,7 10,8 26,1
Vitamin A 688,1 89 45,4 107 54,6 649,6 450 - 500
Vitamin B1 (mg) 1,9 56 28,6 140 71,4 7,2 1,0 - 1,1
Vitamin B2 (mg) 1,4 110 56,1 86 43,9 2,3 1,2
Vitamin C(mg) 172,9 46 23,5 150 76,5 32,2 85
Tổng năng lượng trung bình trong khẩu phần của phụ nữ là khoảng 2359,9 kcal /ngày, con số 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 202042
này cao hơn với khuyến nghị của Viện dinh dưỡng. Tuy nhiên, lượng chất xơ và sắt trong khẩu phần 
ăn của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản thấp hơn khi so sánh với khuyến nghị của Viện dinh dưỡng. 
Lượng protein, lipid, carbohydrate, vitamin, canxi, phốt pho gần như cao hơn so với khuyến nghị 
của Viện dinh dưỡng.
Bảng 3. Tính cân đối trong khẩu phần ăn của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản
Tỉ lệ Kết quả Khuyến nghị 
Năng lượng từ protein/Tổng năng lượng (%) 16,2 13 - 20
Năng lượng từ lipid/Tổng năng lượng (%) 22,2 20 - 25
Năng lượng từ glucid/Tổng năng lượng (%) 61,4 55 - 65
Protein động vật/Protein tổng số (%) 57,9 30 - 35
Lipid thực vật/lipid động vật (%) 39,8 30 - 35
Canxi/Phospho 0,51 0,8 - 1,2
Tỷ lệ phần trăm năng lượng từ P: L: G là 16,2: 22,2: 61,6. Tỷ lệ protein động vật trên tổng protein 
và tỷ lệ lipid thực vật trên tổng lipid đều cao hơn so với khuyến nghị. Tuy nhiên, tỷ lệ giữa Canxi và 
Phốt pho chưa cân đối thấp hơn so với khuyến nghị.
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mức tiêu 
thụ năng lượng trung bình của phụ nữ trong 
độ tuổi sinh sản tại xã Cổ Loa, Đông Anh, Hà 
Nội là 2359,9 Kcal/ ngày. Mức năng lượng này 
cao hơn so với nhu cầu khuyến nghị trung bình 
của Viện dinh dưỡng năm 2016. Mức năng 
lượng này tương tự như ước tính từ nghiên 
cứu của Nguyễn Hồng Phương trên phụ nữ 
ở tỉnh Thái Nguyên năm 2013⁹ và hầu hết các 
nghiên cứu trước đây ở Việt Nam.2,5 So với các 
quốc gia khác ở Đông Nam Á, tổng lượng dinh 
dưỡng từ các chất sinh năng lượng và vi chất 
dinh dưỡng của phụ nữ trong nghiên cứu này 
cao hơn so với phụ nữ Malaysia (1615 Kcal / 
ngày).10 Những thay đổi dinh dưỡng này có thể 
là do tăng trưởng kinh tế, tăng mức sống,¹ giảm 
tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm và cải thiện mô 
hình tiêu thụ chế độ ăn uống.³ Về các chất dinh 
dưỡng đa lượng, lượng protein và lipid của 
phụ nữ trong nghiên cứu này tương đương với 
một nghiên cứu năm 2013 của Nguyễn Hồng 
Phương tại tỉnh Thái Nguyên.⁹ Đối với phụ nữ 
ở Đông Anh, khi so sánh với nghiên cứu của 
Nguyễn Hồng Phương,⁴ lượng carbohydrat tiêu 
thụ thấp hơn, khi so sánh với nghiên cứu của 
Nguyễn Minh Thắng,11 lượng protein và lipid 
trong khẩu phần cao hơn. Sự gia tăng tiêu thụ 
lipid và protein dẫn đến thực tế là tỷ lệ năng 
lượng cung cấp từ hai nguồn đều gia tăng đáng 
kể trong khẩu phần ăn của phụ nữ. 
Về vi chất dinh dưỡng, đối với phụ nữ trong 
độ tuổi sinh sản ở Đông Anh, so với nghiên cứu 
của Nguyễn Hồng Phương,⁹ lượng sắt tiêu thụ 
thấp hơn trong khi lượng tiêu thụ các vi chất 
dinh dưỡng khác cao hơn. Khẩu phần ăn của 
phụ nữ cân đối về tỷ lệ P:L:G so với lượng 
khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng năm 2016.⁸ 
Theo Bảng 2, năng lượng và một số chất dinh 
dưỡng trong chế độ ăn uống như chất xơ, sắt 
chưa đạt được khuyến nghị. Sắt và chất xơ rất 
cần thiết thể hiện nhiều vai trò quan trọng đối 
với cơ thể. Thiếu sắt có thể ảnh hưởng đến 
sự phát triển cơ thể, sức khỏe và gây ra nhiều 
bệnh cụ thể như thiếu máu đặc biệt ảnh hưởng 
rõ rệt đối với phụ nữ khi mang thai. Lượng chất 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 43
xơ thấp trong giai đoạn đầu đời có thể gây ra 
tác dụng phụ lâu dài, bao gồm rối loạn hấp thu 
ở giai đoạn đầu đời và béo phì ở tuổi trung niên. 
Theo một đánh giá có hệ thống về việc tiêu thụ 
rau quả trên thế giới, phụ nữ ở hầu hết các quốc 
gia đã không đạt được lượng chất xơ khuyến 
nghị. Lượng protein và lipid tiêu thụ cao hơn 
nhiều so với nhu cầu khuyến nghị tương ứng 
là 95,4 g/ngày/phụ nữ so với 58,3 g/ngày/phụ 
nữ. Trong tổng mức tiêu thụ protein, tỉ lệ protein 
động vật chiếm khá cao, chiếm 57,9% tổng 
lượng protein. Tỷ lệ Ca/P (0,51) theo khuyến 
nghị (khuyến nghị 0,8 đến 1,2) cho thấy khẩu 
phần ăn của phụ nữ trong nghiên cứu này giàu 
tính axit. Lượng rau thấp và lượng protein động 
vật quá cao làm cho chế độ ăn có tính axit. 
Cân bằng axit-bazơ duy trì sự ổn định của môi 
trường bên trong cơ thể, cho phép hoạt động 
trao đổi chất bình thường. Thông thường, thực 
phẩm có nguồn gốc thực vật (trừ ngũ cốc), như 
rau lá xanh, trái cây là thực phẩm có tính kiềm, 
thực phẩm động vật (trừ sữa) là thực phẩm có 
tính axit. Cơ thể có thể duy trì cân bằng axit-
bazơ ở một mức độ nhất định vì vậy chế độ 
ăn uống nên được cân bằng. So với chế độ ăn 
uống của phụ nữ Malaysia năm 2013 với tỉ lệ 
Protein: Lipid: Glucid là 14,7: 32,6: 52,7 thì tỉ lệ 
các chất sinh năng lượng trong khẩu phần của 
phụ nữ trong độ tuổi sinh sản trong nghiên cứu 
này đã cân đối hơn.
V. KẾT LUẬN
Tổng năng lượng trung bình ăn vào của đối 
tượng là 2359,9 kcal/ngày, cao hơn nhu cầu 
khuyến nghị của Viện dinh dưỡng năm 2016. 
Protein ăn vào là 95,4g cao hơn so với nhu cầu 
khuyến nghị của Viện dinh dưỡng năm 2016 
là 35,4g. Lipid ăn vào là 58,3g, cao hơn so với 
mức nhu cầu khuyến nghị của Viện dinh dưỡng 
năm 2016. Tỉ lệ giữa Protein : Lipid : Glucid đạt 
nhu cầu khuyến nghị. Tỷ lệ protein động vật so 
với protein tổng số và tỷ lệ lipid thực vật so với 
lipid tổng số đều lần lượt cao hơn khuyến nghị 
của Viện dinh dưỡng năm 2016. Tuy nhiên, tỷ lệ 
canxi và photpho, chất xơ, sắt thấp hơn nhu cầu 
khuyến nghị của Viện dinh dưỡng năm 2016. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hop L, Khan N. Malnutrition and poverty 
alleviation in Vietnam during the last period 
1985−2000. Asia Pacific Journal of Clinical 
Nutrition. 2002; 11: S331–S334.
2. Tóm tắt khảo sát dinh dưỡng tổng 
quát 2009-2010. 
nutnut-database/summary-of-main-findings-
of-general-nutnut-survey-2009-2010.html,truy 
cập: 01/03/2020.
3. Le T, Le B.M, Nguyen C.K. Trends in food 
production and food consumption in Vietnam 
during the period 1980-2000. Malays J Nutr. 
2003; 9(1): 1–5.
4. Mishra V, Ray R. Dietary Diversity, 
Food Security and Undernourishment: The 
Vietnamese Evidence. Asian Economic Journal. 
2009; 23(2): 225–247.
5. Hoang L.V. Analysis of Calorie and 
Micronutrient Consumption in Vietnam, 
Development and Policies Research Center 
(DEPOCEN), Vietnam. 2009
6. Arimond M, Wiesmann D, Becquey E. 
Simple food group diversity indicators predict 
micronutrient adequacy of women’s diets in 5 
diverse, resource-poor settings. J Nutr. 2010; 
140(11): 2059S–69S.
7. Ramakrishnan U, Grant F, Goldenberg 
T. Effect of women’s nutrition before and 
during early pregnancy on maternal and infant 
outcomes: a systematic review. Paediatr Perinat 
Epidemiol. 2012; 26 Suppl 1: 285–301.
8. Viện Dinh dưỡng quốc gia. Nhu cầu dinh 
dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam 2016.
9. Nguyen P.H, Strizich G, Lowe A. Food 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 202044
consumption patterns and associated factors 
among Vietnamese women of reproductive 
age. Nutr J. 2013; 12: 126.
10. Pon L.W, Noor-Aini M.Y, Ong F.B. Diet, 
nutritional knowledge and health status of urban 
middle-aged Malaysian women. Asia Pac J Clin 
Nutr. 2006; 15(3): 388–399.
11. Thang N.M, Popkin B.M. Patterns 
of food consumption in Vietnam: effects 
on socioeconomic groups during an era of 
economic growth. Eur J Clin Nutr. 2004; 58(1): 
145–153.
Summary
FOOD CONSUMPTION PATTERNS AMONG WOMEN OF 
REPRODUCTIVE AGE IN CO LOA- DONG ANH- HANOI, 2018
A descriptive cross-sectional study, diet survey on 196 women of reproductive age was conducted 
in Co Loa commune, Dong Anh, Hanoi. Study subjects were interviewed directly by using a 24 
hour diet recording method. The total energy intake of the subject was 2359.9 kcal/day, higher 
than the recommended requirement of the National Institute of Nutrition in 2016. Protein intake 
was 95.4 g higher than the recommended need of the Nutrition Institute in 2016 which is 35.4g. 
Lipid intake is 58.3 g, which is higher than the recommended level of the National Institute of 
Nutrition in 2016. The ratio of Protein: Lipid: Glucid meets the recommended demand. The ratio 
of animal protein to total protein and the ratio of vegetable lipid to total lipid are respectively higher 
than the recommendations of the National Institute of Nutrition in 2016. The ratio of calcium and 
phosphorus, fiber, iron are lower than the recommended requirement of Nutrition Institute 2016.
Key words: Food consumption, Women of reproductive age, Dong Anh, Hanoi

File đính kèm:

  • pdfkhau_phan_thuc_te_cua_phu_nu_trong_do_tuoi_sinh_san_tai_xa_c.pdf