Khảo sát xử lý nước ngầm bằng công nghệ plasma lạnh

Tóm tắt

Nghiên cứu được tiến hành nhằm khảo sát khả năng áp dụng công nghệ plasma lạnh để

xử lý nước ngầm bị ô nhiễm sắt, arsen và E. coli. Các thí nghiệm được tiến hành trên mô hình

cột plasma quy mô phòng thí nghiệm với nguồn nước ngầm được gây ô nhiễm nhân tạo. Kết

quả thí nghiệm cho thấy tải nạp và thời gian trữ nước sau xử lý ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý

của hệ thống. Cột plasma nên được thiết kế với lưu lượng tối thiểu 2 L/phút để cung cấp đủ

chiều dày lớp nước giúp tăng điện trường trong khe hở điện cực và làm tăng công suất và độ

ổn định của plasma. Hiệu suất xử lý sắt, arsen và E. Coli trong nước ngầm của hệ thống

plasma 2 L/phút rất cao, lần lượt đạt các giá trị 99%, 99,4%, 93,8%, và không khác biệt đáng

kể giữa các thời gian trữ nước 10 phút, 20 phút, 30 phút. Nước sau xử lý nên tiếp tục cho lưu ở

bồn chứa trong khoảng 20 phút để ozone và các gốc HO● tiếp tục phản ứng với các chất ô

nhiễm nhằm đạt hiệu quả xử lý cao và nước sau xử lý không còn dư lượng của ozone

pdf 10 trang phuongnguyen 3880
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát xử lý nước ngầm bằng công nghệ plasma lạnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát xử lý nước ngầm bằng công nghệ plasma lạnh

Khảo sát xử lý nước ngầm bằng công nghệ plasma lạnh
Lê Hoàng Việt Khảo sát xử lý nước ngầm.... 
 KHẢO SÁT XỬ LÝ NƯỚC NGẦM BẰNG CÔNG NGHỆ 
 PLASMA LẠNH 
 Lê Hoàng Việt(1), Nguyễn Võ Châu Ngân(1), Đặng Huỳnh Giao(1), Nguyễn Văn Dũng(1) 
 (1) Trường Đại học Cần Thơ 
 Ngày nhận 10/12/2016; Ngày gửi phản biện: 20/1/2017; Chấp nhận đăng: 6/4/2017 
 Email: nvcngan@ctu.edu.vn 
Tóm tắt 
 Nghiên cứu được tiến hành nhằm khảo sát khả năng áp dụng công nghệ plasma lạnh để 
xử lý nước ngầm bị ô nhiễm sắt, arsen và E. coli. Các thí nghiệm được tiến hành trên mô hình 
cột plasma quy mô phòng thí nghiệm với nguồn nước ngầm được gây ô nhiễm nhân tạo. Kết 
quả thí nghiệm cho thấy tải nạp và thời gian trữ nước sau xử lý ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý 
của hệ thống. Cột plasma nên được thiết kế với lưu lượng tối thiểu 2 L/phút để cung cấp đủ 
chiều dày lớp nước giúp tăng điện trường trong khe hở điện cực và làm tăng công suất và độ 
ổn định của plasma. Hiệu suất xử lý sắt, arsen và E. Coli trong nước ngầm của hệ thống 
plasma 2 L/phút rất cao, lần lượt đạt các giá trị 99%, 99,4%, 93,8%, và không khác biệt đáng 
kể giữa các thời gian trữ nước 10 phút, 20 phút, 30 phút. Nước sau xử lý nên tiếp tục cho lưu ở 
bồn chứa trong khoảng 20 phút để ozone và các gốc HO● tiếp tục phản ứng với các chất ô 
nhiễm nhằm đạt hiệu quả xử lý cao và nước sau xử lý không còn dư lượng của ozone. 
Từ khóa: arsen, công nghệ plasma, E. Coli, nước dưới đất, sắt 
Abstract 
 SURVEY AND TREATMENT GROUNDWATER BY PLASMA TECHNOLOGY 
 The study aim to evaluate the groundwater treatment efficiency on iron, arsenic, E. Coli 
applying plasma technology. The plasma system was design to operate in lab scale conditions 
with artificial groundwater. The results showed that the flow rate of plasma column and the 
storing time of treated water will be effects to the treatment efficiency of the system. The plasma 
column should design with the flow rate of 2 L/minutes to fulfill the water layer that increasing 
the electric field between the electrodes slot, and accumulate the electric power and plasma 
power. The treatment efficiencies of iron, arsenic and E. Coli at the 2 L/minutes plasma system 
very high with numbers of 99%, 99.4%, 93.8%, but there is not significant different between 
treatment with storing time of 10 minutes, 20 minutes, and 30 minutes. The water after treated 
should be store in at least 20 minutes so that ozone and HO● continue react to contaminant 
matters, the treatment efficiency will be better and limited residue from ozone. 
1. Giới thiệu 
 Theo Tổng Cục Môi trường (2010), nước dưới đất tại một số vùng ở Việt Nam đang đối 
mặt với các vấn đề như xâm nhập mặn trên diện rộng, ô nhiễm vi sinh và ô nhiễm kim loại nặng 
nghiêm trọng do khai thác không có qui hoạch và không có biện pháp bảo vệ nguồn nước. Cũng 
 45 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 3(34)-2017 
theo Tổng Cục Môi trường (2014), nước dưới đất ở một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long 
 - +
(ĐBSCL) đã bị ô nhiễm NO3 , NH4 , kim loại nặng (Fe, As) và đặc biệt ô nhiễm vi sinh 
(Coliform, E. Coli). Trong khi đó khoảng 13,5% dân số Việt Nam (10 - 15 triệu người) đang sử 
dụng nước sinh hoạt từ giếng khoan. Nhiều giếng khoan ở Đồng Tháp và An Giang và một số 
vùng khác cũng đã phát hiện arsen trong nước (Nguyễn Việt Kỳ, 2009). Người bị nhiễm arsen có 
thể có những biểu hiện như thay đổi màu da, sự hình thành của các vết cứng trên da, ung thư da, 
ung thư phổi, ung thư thận và bàng quang cũng như có thể dẫn tới hoại tử. 
 Trên thế giới đã có một số nghiên cứu xử lý arsen trong nước ngầm đã và đang áp 
dụng. Các giải pháp xử lý có thể kể đến như đông tụ kết hợp lọc, khử bằng than hoạt tính, 
khử bằng vôi sống, hay dùng phương pháp thẩm thấu ngược. Trong điều kiện Việt Nam, một 
số giải pháp xử lý được nghiên cứu và triển khai như hệ thống lọc có giàn phun mưa với sản 
phẩm được bán trên thị trường là ArsenFREE (T.H., 2010). Theo Viện Khoa học và Công 
nghệ Việt Nam, việc sử dụng phương pháp ôxy hóa thông thường và ánh sáng mặt trời có thể 
loại trừ được các tạp chất, đặc biệt là arsen ra khỏi nước ngầm (Bùi Mạnh Hà, 2006). Các gia 
đình sử dụng nước giếng khoan nên xử lý bằng phương pháp sục khí, giàn mưa, bồn lắng, 
lọc vừa để khử sắt, vừa loại bỏ được arsen trong nước. Xử lý nước bằng plasma lạnh là một 
công nghệ tương đối mới, là phương pháp sử dụng hiện tượng điện phân nước ở hiệu điện thế 
cao tạo nên những gốc hóa học có tính ô-xy hóa mạnh, có thể ô-xy hóa các kim loại nặng 
chuyển chúng từ dạng khử sang dạng ô-xy hóa và kết tủa, sau đó các chất kết tủa được lắng 
và lọc để đưa ra khỏi nước. Các chất ô-xy hóa mạnh này và tia UV (tạo ra từ hồ quang điện) 
còn có thể tiêu diệt các vi sinh vật. Nghiên cứu được tiến hành nhằm khảo sát khả năng xử lý 
các thành phần ô nhiễm trong nước ngầm của thiết bị plasma lạnh qui mô phòng thí nghiệm, 
tìm ra các thông số vận hành cần thiết như tải nạp nước, thời gian trữ nước hợp lý phục vụ 
cho việc chế tạo thiết bị ứng dụng vào thực tế. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
 2.1. Chế tạo thiết bị 
 Mô hình hệ thống xử lý nước ngầm bằng plasma lạnh được thiết kế và chế tạo theo kiểu 
bể phản ứng có dòng chảy liên tục từ trên xuống tạo thành màng nước trên bề mặt của điện cực 
tạo plasma. Diện tích bề mặt của bản điện cực nơi nước chảy qua là 51,81 cm2. Nguyên tắc hoạt 
động của hệ thống: 
 - Đầu tiên nước cần xử lý được cho vào bình chứa 1, sau đó bơm vào buồng tạo plasma 
(sử dụng bơm có thể điều chỉnh lưu lượng), buồng plasma được cấp khí thêm bằng bơm cấp 
khí. Sau khi nước được xử lý bằng plasma sẽ chảy vào bình chứa 2, từ bình chứa 2 nước sẽ 
được bơm qua bộ lọc cotton 5 µm và cột lọc than hoạt tính. 
 - Điện áp đầu vào ảnh hưởng đến điện áp đầu ra của bộ nguồn từ đó ảnh hưởng đến quá 
trình tạo plasma của buồng plasma. Mức độ ảnh hưởng của điện áp đầu vào đến điện áp đầu ra 
của bộ nguồn được đo đạc và trình bày bằng Hình 3. 
 Khi bơm nước qua buồng plasma ở mức 1 L/phút do lưu lượng thấp nên lớp nước chảy 
trên bề mặt điện cực không ổn định. Khi lưu lượng nước tăng lên 2 L/phút, quan sát thấy lớp 
nước chảy ổn định hơn và plasma xuất hiện hầu như trên toàn bộ thể tích của khe hở điện cực. 
Điều này là do sự tăng chiều dày lớp nước nên làm giảm khe hở điện cực, do đó điện trường 
trong khe hở điện cực tăng đã làm tăng công suất và độ ổn định của plasma. 
 46 
Lê Hoàng Việt Khảo sát xử lý nước ngầm.... 
 10 
 9 
 8 
 11 
 7 
 6 
 1 2 
 5 
 4 
 3 
 Hình 1 Sơ đồ hệ thống xử lý nước ngầm bằng plasma lạnh Hình 2 Cấu tạo buồng plasma 
 (1) bình chứa nước cần xử lý, (2) bình chứa nước sau xử lý, (3) van 
nước, (4) máy bơm nước, (5) bơm cấp khí cho buồng plasma, (6) máy 
 biến áp, (7) lưu lượng kế, (8) tủ điện, (9) nguồn cao áp, (10) buồng 
 tạo plasma, (11) bộ lọc 
 25
 20
 15
 10
 Điện áp đầu ra ra đầu áp (kV) Điện
 5
 0
 0 50 100 150 200 250
 Điện áp đầu vào (V) 
 Hình 3. Ảnh hưởng của điện áp đầu vào đến điện áp đầu ra của bộ nguồn 
 47 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 3(34)-2017 
 Bảng 1. Tải nạp nước cho hệ thống plasma theo lưu lượng 
 Lưu lượng Diện tích điện cực Tải nạp nước 
 3 2
 (m /phút) (m ) m3×m-2×phút-1 m3×m-2×giờ-1 m3×m-2×ngày-1 
 0,001 0,005181 0,19 11,58 277,94 
 0,002 0,005181 0,39 23,16 555,88 
 2.2. Bố trí thí nghiệm 
 Sơ đồ bố trí các thí nghiệm trong nghiên cứu này được trình bày trong Hình 4. Các thí 
nghiệm nhằm tìm ra mốc lưu lượng và thời gian lưu nước trong bình chứa nước đầu ra phù hợp 
để vận hành hệ thống. 
 Mô hình bể xử lý được vận hành theo kiểu bể phản ứng liên tục với chế độ dòng chảy từ 
trên xuống tạo thành màng nước xung quanh hệ điện cực tạo plasma. Nước ô nhiễm nhân tạo 
được sử dụng để tiến hành thí nghiệm này. Nước sau khi qua cột plasma được lưu lại trong bình 
chứa một thời gian để các phản ứng tiếp tục xảy ra; sau đó nước được bơm qua cột lọc cotton 
để lấy mẫu phân tích. 
 Thí nghiệm 1: xác định lưu lượng nước xử lý phù 
 hợp với hệ thống 
 - Tiến hành trên nước ô nhiễm nhân tạo Lưu lượng vận hành 
 - Thay đổi lưu lượng bơm nước với 2 cấp độ: 1 hệ thống 
 L/phút 2 L/phút 
 - Các thông số phân tích: pH, độ đục, EC, As, Fe, ni-
 trát, E. Coli 
 Thí nghiệm 2: xác định thời gian lưu nước trong 
 bình chứa sau xử lý 
 - Tiến hành trên nước ô nhiễm nhân tạo 
 Thời gian lưu nước 
 - Thay đổi thời gian lưu nước ở 3 cấp độ: 10 phút, 20 
 của hệ thống 
 phút, 30 phút 
 - Các thông số phân tích: pH, độ đục, EC, As, Fe, ni-
 trát, ozone, E. Coli 
 Lưu lượng và thời gian lưu nước phù 
 hợp để vận hành hệ thống 
 Hình 4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm định hướng 
 2.3. Vận hành mô hình và phân tích mẫu 
 Trong thí nghiệm này mẫu nước giếng được thu thập và pha trộn thêm với hóa chất 
để gây ô nhiễm nhân tạo cho nguồn nước thí nghiệm. Các hóa chất được mua tại các cửa 
hàng hóa chất gồm có: (1) Phèn sắt FeSO4.7H2O, xuất xứ Trung Quốc, độ tinh khiết 99%; 
(2) Phèn sắt FeCl3.6H2O, xuất xứ Trung Quốc, độ tinh khiết 99%; (3) Acide asenic 
(H3AsO4), xuất xứ Trung Quốc. Trước và sau khi vận hành hệ thống xử lý plasma, mẫu nước 
được thu thập và phân tích tại Phòng thí nghiệm (PTN) của Khoa Môi trường và Tài nguyên 
Thiên nhiên (đối với thông số pH, EC, độ đục, Fe, ozone, ni-trát), tại Trung tâm Kỹ thuật Tiêu 
 48 
Lê Hoàng Việt Khảo sát xử lý nước ngầm.... 
chuẩn Đo lường Chất lượng Cần Thơ - CATECH (thông số E. Coli) và tại Trung tâm Dịch vụ 
Phân tích thí nghiệm TP. HCM - CASE (thông số As). 
 Bảng 2 Phương pháp phân tích các thông số ô nhiễm 
 Thông số Phương pháp phân tích 
 pH TCVN 6492:1999 
 Độ đục TCVN 6184:1996 
 Fe TCVN 6177:1996 
 As TCVN 6626:2000 
 Ni-trát TCVN 6180:1996 
 E.Coli TCVN 6187-1:1996 
3. Kết quả và thảo luận 
 3.1. Thí nghiệm xác định lưu lượng nước xử lý phù hợp với hệ thống 
 Thí nghiệm được tiến hành với cùng mẫu nước được tuần tự cho nhiễm các chất ô nhiễm 
khác nhau, sau đó tuần tự tiến hành xử lý ở các cấp lưu lượng từ 1 L/phút và 2 L/phút. Nước 
sau xử lý được trữ tại bình chứa nước đầu ra trong 10 phút, sau đó bơm qua các cột lọc và đem 
đi phân tích. Lý do trữ nước lại trong bình chứa là do sau khi qua buồng plasma, nước còn chứa 
nhiều ozone hòa tan và cần phải có thêm thời gian để các phản ứng ô-xy hóa sắt tạo kết tủa 
hoàn toàn. 
 Bảng 3. Nồng độ các thông số ô nhiễm theo lưu lượng bơm qua buồng plasma 
 Chỉ tiêu Đơn vị Trước khi xử Sau xử lý QCVN 
 lý 1 L/phút 2 L/phút 01:2009/BYT* 
pH - 6,5 6,5 6,5 6,5 - 8,5 
EC µs/cm 810 820 820 - 
Độ đục NTU 14,1 2,82 3,03 2 
Ni-trát mg/L 8,8 6,8 12,17 50 
Fe mg/L 3,91 0,10 0,06 0,3 
Arsen mg/L 0,03 0,01 0,02 0,01 
E. Coli MPN/100 mL 900 < 3 < 3 0 
* QCVN 01:2009/BYT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống 
 Thông số pH: pH đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thành ozone từ đó ảnh hưởng 
đến hiệu quả xử lý nước. Nồng độ của ozone sẽ giảm từ 10 - 12% khi pH tăng từ 7,0 lên 10,5 
do ozone bị phân hủy nhanh trong môi trường kiềm (von Gunten, 2003). Trong thí nghiệm này 
pH đầu vào là 6,5, không đổi ở 2 mức lưu lượng và không ảnh hưởng đến nồng độ ozone. 
 Thông số EC: Độ dẫn điện của nước (EC) đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo 
thành hồ quang điện và tạo các hoạt chất. Trong nước khử ion hiện tượng phóng điện tương đối 
yếu. Nồng độ của ion tạo độ dẫn điện trong khoảng 10 - 80 µs/cm sẽ làm tăng hiện tượng phóng 
điện, tăng cường độ dòng điện, tăng chiều dài hồ quang và tăng sản xuất các gốc hoạt tính cao. 
Tuy nhiên khi tăng độ dẫn điện của nước lên hơn giá trị tối ưu 10 - 80 µs/cm sẽ làm giảm tốc 
độ sản xuất các gốc hoạt tính cao (Malik et al., 2001). Giá trị EC của nước đưa vào thí nghiệm 
là 810 µs/cm cao hơn nhiều so với mức tối ưu có thể làm giảm hiệu quả tạo các gốc hoạt tính 
của plasma, tuy nhiên nồng độ sắt vẫn giảm rất nhiều, cho thấy khả năng loại sắt của phương 
pháp plasma lạnh rất cao. Một ghi nhận khác là tuy quá trình plasma tạo các kết tủa và sau đó 
 49 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 3(34)-2017 
các kết tủa này bị loại bỏ bằng cột lọc nhưng EC của nước không giảm, điều này là do các gốc 
hoạt tính cao ô-xy hóa các hạt keo hay chất rắn lơ lửng trong nước biến chúng thành các chất 
đơn giản, hòa tan và quá trình điện phân tạo ra các ion, do đó độ dẫn điện gần như không giảm. 
 Thông số độ đục: Độ đục của nước sau xử lý giảm thấp ở cả 2 ngưỡng lưu lượng và đạt 
giá trị cho phép của QCVN 2:2009/BYT (5 NTU) đối với nước sử dụng trong sinh hoạt. Độ đục 
của nước giảm là do trong quá trình hình thành kết tủa Fe(OH)3, các hạt keo và chất rắn lơ lửng 
sẽ bị kết dính vào sản phẩm này và lắng xuống ở thùng chứa 2, sau đó bị giữ lại trong cột lọc 
cotton khi bơm nước ra ngoài. Hiệu suất loại bỏ độ đục ở mức lưu lượng 2 L/phút đạt 78,51% 
thấp hơn hiệu suất ở lưu lượng 1 L/phút đạt 80%, điều này có thể là do thí nghiệm 2 L/phút tiến 
hành sau, lúc đó cột lọc đã bị các chất ô nhiễm bám vào làm giảm hiệu quả lọc. 
 Hiệu quả loại bỏ nitrát: Quá trình xử lý nước bằng plasma tạo ra một phụ phẩm ảnh 
 -
hưởng đến chất lượng nước đó là N-NO3 . Khi không khí chứa hỗn hợp O2 và N2 đi qua khu 
vực phóng điện sẽ tạo thành các ô-xýt ni-tơ bao gồm NO, NO2, N2O3, and N2O5 (Fridman, 
2008). 
 NO + O3 → NO2 + O2 (1) 
 NO2 + O3 → NO3 + O2 (2) 
 NO3 + NO2 → N2O (3) 
 Trong hệ thống plasma lạnh với nồng độ ozone trong nước đầu ra cao, nó sẽ ô-xy hóa NO 
chủ yếu thành N2O5 sau đó tạo thành a-xít ni-tríc trong nước theo phản ứng sau: 
 N2O5 + N2O → 2HNO3 (4) 
 Nghiên cứu của Kornev et al. (2013) cho thấy hệ thống plasma lạnh (loại phóng thích hồ 
quang) chỉ tạo thành ni-trát. Trong thí nghiệm này nồng độ ni-trát trong nước sau xử lý còn 
thấp và đạt ngưỡng cho phép của tiêu chuẩn nước sử dụng cho ăn uống (50 mg/L). 
 Hiệu quả loại bỏ sắt: Trong thí nghiệm này nước ngầm được cho nhiễm sắt bằng 
FeSO4.7H2O với nồng độ sắt tổng đạt 3,91 mg/L - tương đương giá trị 4 mg/L là mức ô nhiễm 
trung bình tham khảo tại một số giếng khoan ở ĐBSCL (Lê Hoàng Việt et al., 2013). Hiệu suất 
loại bỏ Fe2+ của hệ thống plasma lạnh rất cao đạt trên 97%, tất cả nồng độ Fe sau xử lý ở cả 2 
cấp lưu lượng đều nằm dưới ngưỡng quy định bởi tiêu chuẩn nước ăn uống QCVN 
01:2009/BYT (0,3 mg/L). Hiệu suất xử lý sắt ở lưu lượng 1 L/phút đạt 97,57%, và ở lưu lượng 
2 L/phút đạt 98,59%. Nồng độ Fe2+ trong nước xử lý giảm là do buồng plasma tạo ra ozone, 
ozone sẽ ô-xy hóa Fe2+ thành Fe3+ kết tủa theo phương trình phản ứng dưới đây: 
 2+ +
 O3 + 5H2O + 2Fe 2Fe(OH)3 (dạng rắn) + O2 + 4H (5) 
 Cũng cần nói thêm là quá trình tạo plasma cũng tạo nên H2O2, do đó có thể tạo thành các 
phản ứng hình thành Fe2+ từ Fe3+ làm giảm hiệu quả loại bỏ sắt (Cheng et al., 2007). 
 2+ − 3+
 Fe + H2O2 → •OH + OH + Fe (6) 
 Fe2+ + •OH → Fe3+ + OH− (7) 
 3+ 2+ +
 Fe + H2O2 → Fe + HO2 + H (8) 
 HO2 + H2O2→ O2 + H2O + OH (9) 
 Hiệu quả loại bỏ arsen: Trong thí nghiệm này nước ngầm được cho nhiễm arsen với 
nồng độ ban đầu là 0,032 mg/L vượt gấp 3 lần so với QCVN 02:2009/BYT (0,01 mg/L). Kết 
 50 
Lê Hoàng Việt Khảo sát xử lý nước ngầm.... 
quả phân tích mẫu cho thấy nồng độ của arsen sau xử lý ở cả 2 ngưỡng lưu lượng thí nghiệm 
đều giảm, nhưng chỉ thí nghiệm ở lưu lượng 1 L/phút cho nước sau xử lý đạt tiêu chuẩn. Nồng 
độ arsen giảm chủ yếu là do hiệu quả của quá trình ô-xy hóa As3+ dạng hòa tan thành As5+ dạng 
kết tủa bởi ozone theo phương trình được đề nghị bởi Johnston & Heijnen (xxx) với mẫu nước 
thí nghiệm có giá trị pH ~ 6,5. 
 - +
 O3 + H3AsO3 → H2AsO4 + O2 + H (10) 
 Hiệu quả loại bỏ vi sinh vật: Trong thí nghiệm này nước ngầm được cho nhiễm E. Coli 
bằng nước thải sinh hoạt, sau khi cho nhiễm mật độ E. Coli ban đầu phân tích được là 900 
MPN/100 mL. Sau khi xử lý qua hệ thống plasma lạnh, nước sau xử lý ở cả 2 ngưỡng lưu 
lượng thí nghiệm đều không phát hiện E. Coli. Về mặt khử trùng, theo Malik et al. (2001) hiện 
tượng phóng điện tạo ra điện trường, sóng xung kích (shock wave), tia UV, O3, H2O2 và gốc 
HO˚ đều có khả năng tiêu diệt các vi sinh vật. Sự xuất hiện đồng thời các yếu tố này làm tăng 
hiệu quả khử trùng. Theo Locke et al. (2006) hiệu quả khử trùng nước của các yếu tố này đã 
được nghiên cứu, O3 và UV có khả năng khử trùng trực tiếp, sóng xung kích làm hư màng của 
tế bào, gốc HO˚ làm tổn hại tế bào bởi quá trình ô-xy hóa. 
 3.2. Thí nghiệm xác định thời gian lưu nước trong bình chứa sau xử lý 
 Trong thí nghiệm 1, nước sau khi xử lý được trữ lại trong 10 phút rồi mới phân tích để 
đánh giá hiệu quả xử lý. Việc trữ nước trong 10 phút có thể chưa phát huy tối đa khả năng 
chuyển hóa ozone trong nước. Do đó ở thí nghiệm này chúng tôi muốn tìm hiểu chuyển hóa 
ozone trong nước sau xử lý ở các thời gian trữ nước khác nhau. Các mốc thời gian được chọn 
để làm thí nghiệm gồm 10 phút, 20 phút và 30 phút. 
 Hiệu quả loại bỏ các chỉ tiêu ô nhiễm ở lưu lượng 1 L/phút: Thí nghiệm được tiến hành 
với cùng mẫu nước được tuần tự cho nhiễm các chất ô nhiễm khác nhau, sau đó tiến hành xử lý 
ở cùng một lưu lượng là 1 L/phút. Với giả thuyết ban đầu là nước sau khi qua buồng plasma 
vẫn còn chứa ozone và các gốc tự do, do đó trong bình chứa vẫn còn xảy ra các phản ứng. 
Nước sau xử lý được lưu trong bình chứa nước đầu ra ở các thời gian khác nhau, sau đó bơm 
qua các cột lọc và đem phân tích. 
 Bảng 4. Nồng độ các chỉ tiêu theo dõi của nước xử lý ở lưu lượng 1 L/phút 
 Chỉ tiêu Đơn vị Trước Sau xử lý và trữ trong bình chứa QCVN 
 xử lý 10 phút 20 phút 30 phút 01:2009/BYT* 
pH - 6,4 6,9 6,9 7,0 6,5 - 8,5 
EC µs/cm 1230 1220 1210 1200 - 
Độ đục NTU 15,30 0,99 1,16 1,95 2 
Ni-trát mg/L 2,4 7,7 9,9 8,2 50 
Fe mg/L 3,720 0,045 0,026 0,029 0,3 
Arsen mg/L 0,1 0,01 0,006 0,006 0,01 
Ozone mg/L 0,14 0,13 0,06 0 - 
E. Coli MPN/100 mL 15000 93 230 < 3 0 
* QCVN 01:2009/BYT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống 
 Giá trị pH: kết quả đo đạc cho thấy giá trị pH trong nước sau xử lý có xu hướng tăng theo 
thời gian lưu trong bình. Trước khi xử lý, pH nước là 6,4, sau khi xử lý và lưu trong bình chứa đến 
20 phút, pH tăng đến 6,9. Nếu lưu nước đến 30 phút thì giá trị pH cũng chỉ tăng thêm đến 7,0. 
 51 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 3(34)-2017 
 Độ dẫn điện: giá trị EC của nước giảm rất ít sau khi xử lý và theo thời gian trữ nước 
trong bình chứa. Độ dẫn điện của nước sau khi xử lý giữ ổn định là do các gốc hoạt tính cao ô-
xy hóa các hạt keo hay chất rắn lơ lửng trong nước biến chúng thành các chất đơn giản, hòa tan 
và quá trình điện phân tạo ra các ion. 
 Độ đục: độ đục trong nước sau khi xử lý bằng plasma lạnh và trữ 10 phút giảm từ 15,30 
NTU xuống còn 0,99 NTU (đạt hiệu suất 93,53%). Tuy nhiên theo thời gian trữ nước đã xử lý 
trong bình chứa thì độ đục lại tăng lên theo thời gian, đạt mức 1,16 NTU ở 20 phút và 1,95 
NTU ở 30 phút trữ nước sau khi xử lý. Điều này có thể do cột lọc bị các chất ô nhiễm bám vào 
làm giảm hiệu quả xử lý. 
 Xử lý nitrát: giá trị nitrát của mẫu nước sau xử lý tăng so với trước khi thí nghiệm, đồng 
thời biến thiên không theo quy luật theo thời gian trữ nước trong bình chứa. Mức chênh lệch về 
nồng độ của các mẫu nước ở các thời gian trữ nước khác nhau không cao, do đó có thể sự biến 
động này gây ra bởi sai số cho phép của thiết bị đo cũng như sự hoạt động không ổn định của 
hệ thống plasma ở lưu lượng nạp nước thấp 1 L/phút. 
 Xử lý sắt: hiệu suất xử lý sắt của hệ thống plasma lạnh rất cao đạt từ 98,8% khi trữ nước 10 
phút, và đạt 99,3% khi trữ nước 20 phút. Mức chênh lệch hàm lượng sắt giữa thời gian trữ nước 
20 phút và 30 phút là rất nhỏ, có thể ghi nhận hiệu quả loại bỏ sắt của hệ thống plasma lạnh 
không phụ thuộc nhiều vào sự thay đổi của thời gian lưu nước trong bình chứa từ 10 - 30 phút. 
 Xử lý arsen: hiệu suất xử lý arsen của hệ thống plasma lạnh rất cao từ 90 - 94%, hiệu suất 
thấp nhất là 90% đạt được sau khi nước đã lưu trong bình chứa 10 phút, tăng lên 94% sau 20 
phút và giữ nguyên giá trị 94% ở thời gian lưu 30 phút. Tương tự với xử lý sắt, hiệu quả loại bỏ 
arsen của hệ thống plasma lạnh không phụ thuộc nhiều vào sự thay đổi của thời gian lưu nước 
trong bình chứa từ 10 - 30 phút. 
 Giá trị ozone: nồng độ ozone của nước trước khi xử lý là 0,14 mg/L, sau khi qua cột 
plasma và lưu trong bình 10 phút còn 0,13 mg/L (giảm 7,1%). Giá trị này tiếp tục giảm dần đạt 
mức 0,06 mg/L sau khi lưu 20 phút trong bình (giảm 57,1%), và giảm cho đến mức không phát 
hiện sau khi lưu lại bình chứa 30 phút. Điều này là do ozone tiếp tục phản ứng với các chất ô 
nhiễm trong nước ngầm và tự phân hủy. 
 Xử lý vi sinh: hệ thống plasma có hiệu quả cao trong xử lý các chỉ tiêu ô nhiễm vi sinh vật, 
hiệu suất xử lý đạt 99,4% ở thời gian trữ nước 10 phút. Khi trữ nước 20 phút, mật độ E. Coli có 
tăng nhưng có thể do sai số của quá trình phân tích; đến 30 phút mật độ E. Coli đã hoàn toàn biến 
mất. Điều này phù hợp với lý thuyết của quá trình khử trùng là hiệu quả khử trùng phụ thuộc vào 
liều lượng của chất khử trùng và thời gian tiếp xúc cùa vi sinh vật với chất khử trùng. 
 Hiệu quả loại bỏ các chỉ tiêu ô nhiễm ở lưu lượng 2 L/phút 
 Thí nghiệm này tiến hành tương tự thí nghiệm trong phần 3.2.1 chỉ khác là lưu lượng vận 
hành cột plasma 2 L/phút. Kết quả thí nghiệm được trình bày trong bảng 5. 
 Bảng 5 Nồng độ các chỉ tiêu theo dõi của nước xử lý ở lưu lượng 2 L/phút 
 Chỉ tiêu Đơn vị Trước khi Sau xử lý và trữ trong bình chứa QCVN 
 xử lý 10 phút 20 phút 30 phút 01:2009/BYT* 
pH - 6,5 6,3 7,0 7,2 6,5 - 8,5 
EC µs/cm 1320 1320 1240 1240 - 
 52 
Lê Hoàng Việt Khảo sát xử lý nước ngầm.... 
Độ đục NTU 39,23 1,75 2,19 2,37 2 
Ni-trát mg/L 3,2 4,5 4,5 5,2 50 
Fe mg/L 4,16 0,042 0,032 0,029 0,3 
Arsen mg/L 0,31 0,002 0,002 0,002 0,01 
Ozone mg/L - 0,12 0,07 0 - 
E. Coli MPN/100mL 2400 150 < 3 < 3 0 
* QCVN 01:2009/BYT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống 
 Giá trị pH: pH của nước sau xử lý và trữ trong 10 phút giảm chút ít nhưng sau đó tăng 
liên tục ở đến mức trữ nước 30 phút. Các giá trị này không ảnh hưởng đến nồng độ ozone của 
nước xử lý. 
 Độ dẫn điện: giá trị EC của nước trước và sau khi xử lý trong một khoảng thời gian ngắn 
(10 phút) không khác biệt. Chỉ khi trữ nước đã xử lý trong bình chứa đến 20 phút, độ dẫn điện 
có chiều hướng giảm đi, giá trị EC còn 1240 µs/cm, giảm 6,06% so với nước trước khi xử lý. 
Giá trị EC này được giữ cho đến cuối thời gian thí nghiệm, ở 30 phút trữ nước trong bình chứa. 
 Độ đục: tương tự thí nghiệm trước đó, độ đục của nước sau xử lý và trữ trong 10 phút 
giảm mạnh đạt hiệu suất xử lý 95,5%. Tuy nhiên sau đó giá trị độ đục lại tiếp tục gia tăng ở thời 
điểm trữ nước 20 phút và 30 phút. 
 Xử lý nitrát: nitrát trong nước sau xử lý tăng là do lượng phụ phẩm tạo ra trong quá trình 
xử lý nước bằng plasma (Fridman, 2008). Tuy nhiên giá trị nitrát ghi nhận vẫn nằm trong 
ngưỡng quy định cho phép của tiêu chuẩn nước sử dụng cho ăn uống. 
 Xử lý sắt: hiệu suất xử lý sắt của cột plasma lạnh rất cao 99 - 99,3%, nồng độ sắt giảm 
theo thời gian lưu nước và có khuynh hướng rõ ràng, tuy nhiên mức giảm không đáng kể, như 
vậy có thể ghi nhận hiệu quả loại bỏ sắt của phương pháp plasma lạnh không phụ thuộc nhiều 
vào sự thay đổi của thời gian lưu nước trong bình từ 10 - 30 phút. 
 Xử lý arsen: hiệu suất xử lý arsen của cột plasma lạnh rất cao ~ 99,4%. Hiệu suất này 
không đổi đối với tất cả các thí nghiệm trữ nước trong bình chứa từ 10 đến 30 phút. 
 Xử lý ozone: nồng độ ozone của nước sau khi xử lý bằng cột plasma và trữ trong bình 
chứa 10 phút là 0,12 mg/L, giá trị này giảm dần cho đến mức không còn phát hiện sau khi được 
lưu lại bình chứa 30 phút. Điều này khẳng định một lần nữa sự cần thiết của việc trữ nước trong 
bình chứa sau khi qua cột plasma khoảng 30 phút để cho các phản ứng tiếp tục xảy ra và phân 
hủy hoàn toàn ozone. 
 Xử lý vi sinh: ở lưu lượng 2 L/phút, thời gian lưu nước trong bình chứa nước sau xử lý 
ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả xử lý các chỉ tiêu ô nhiễm vi sinh vật. Hiệu suất xử lý E. Coli 
đạt 93,8% sau khi trữ nước thêm trong 10 phút, và sau khi trữ nước trong 20 phút hiệu suất xử 
lý đã đạt ~ 100%. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết của quá trình khử trùng là hiệu quả 
khử trùng phụ thuộc vào liều lượng cùa chất khử trùng và thời gian tiếp xúc của vi sinh vật với 
chất khử trùng (Malik et al., 2001; Locke et al., 2006). 
4. Kết luận 
 Có thể sử dụng hệ thống plasma lạnh chế tạo trong nghiên cứu để xử lý nước ngầm bị ô 
nhiễm bởi các tác nhân lý - hóa - sinh. Các thông số ô nhiễm đã được thí nghiệm và xử lý hiệu 
quả cao gồm có sắt, arsen, E. Coli. Liều lượng xử lý của hệ thống plasma nên chọn thiết kế ở 2 
 53 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 3(34)-2017 
L/phút để đảm bảo lượng nước cung cấp ổn định và plasma xuất hiện đầy đủ làm gia tăng hiệu 
suất xử lý các chất ô nhiễm. Nước sau xử lý nên tiếp tục cho trữ lại ở bồn chứa trong khoảng 20 
phút để ozone và các gốc HO● tiếp tục phản ứng với các chất ô nhiễm cần loại bỏ nhằm đạt 
hiệu quả xử lý cao và nước sau xử lý không còn dư lượng của ozone. 
 Nghiên cứu thiết kế các cột plasma có công suất xử lý lớn đáp ứng nhu cầu xử lý nước 
cấp cho một cộng đồng nhỏ và đánh giá hiệu quả kinh tế của việc ứng dụng plasma lạnh để xử 
lý nước. Với khả năng tạo ozone, gốc HO● tự do có tính ô-xy hóa mạnh cùng với việc tạo ra 
song xung kích và tia UV hệ thống plasma lạnh còn có thể xử lý các độc tố trong nước, do đó 
nên tiến hành thêm các nghiên cứu trên các chất này. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bùi Mạnh Hà (2006), Ngộ độc do nước bị nhiễm thạch tín. Truy cập tại trang web http:// 
 thanhnien.vn/suc-khoe/ngo-doc-do-nuoc-bi-nhiem-thach-tin-185486.html, ngày 21/6/2016. 
[2] Cheng H. H., Shiao-Shing Chen, Yu-Chi Wu, Din-Lit Ho (2007), Non-thermal plasma 
 technology for degradation of organic compounds in wastewater control: A critical review, J. 
 Environ. Eng. Manage., 17(6) 427–433. 
[3] Fridman A. (2008), Plasma Chemistry, Cambridge University Press: New York. p. 355. 
[4] Johnston R., Heijnen H., xxx, Safe water technology for arsenic removal, truy cập tại trang web 
  ngày 21/6/2016. 
[5] Kornev I., Osokin G., Galanov A., Yavorovskiy N., Preis S. (2013), Formation of nitrite- and 
 nitrate-Ions in aqueous solutions treated with pulsed electric discharges, The Journal of the 
 International Ozone Association, 35(1) 22–30. 
[6] Lê Hoàng Việt, Nguyễn Hữu Chiếm, Huỳnh Long Toản, Phan Thanh Thuận (2013), Xử lý nước 
 dưới đất ô nhiễm arsenic qui mô hộ gia đình, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ 25a: 
 36–43. 
[7] Locke B. R., Sato M., Sunka P., Hoffmann M. R., Chang J.-S. (2006), Electrohydraulic 
 discharge and nonthermal plasma for water treatment, Ind. Eng. Chem. Res. 45: 882–905. 
[8] Malik M. A., Ghaffar A., Malik S. A. (2001), Water purification by electrical discharges. 
 Plasma Sources Sci. Technol. 10(1) 
[9] Nguyễn Việt Kỳ (2009), Tình hình ô nhiễm arsen ở đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Phát 
 triển Khoa học công nghệ, số 12(5): 101–112. 
[10] Tổng Cục Môi trường (2014), Báo cáo Môi trường Quốc gia 2014: Môi trường Nông thôn. 
 Tổng Cục Môi trường. 
[11] Tổng Cục Môi trường (2010), Báo cáo Môi trường Quốc gia 2010: Tổng quan Môi trường Việt 
 Nam, Tổng Cục Môi trường. 
[12] von Gunten U. (2003), Ozonation of drinking water - Part I, Oxidation kinetics and product 
 formation, Water Res, số 37(7): 1443–1467. 
 54 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_xu_ly_nuoc_ngam_bang_cong_nghe_plasma_lanh.pdf