Khảo sát vị trí đỉnh viền nướu và tỷ lệ chiều cao gai nướu ở nhóm răng trước hàm trên

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Giải phẫu nướu và hình dạng nướu đóng vai trò thiết yếu trong việc tạo nên một nụ cười

đẹp. Hiểu và tái tạo được những đặc điểm này là yếu tố tiên quyết khi can thiệp điều trị ở vùng răng trước

hàm trên. Mục tiêu nghiên cứu nhằm khảo sát vị trí đỉnh viền nướu và xác định tỷ lệ của chiều cao gai nướu

so với chiều cao thân răng ở nhóm răng trước hàm trên. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt

ngang trên 123 sinh viên ngành Răng Hàm Mặt. Hàm trên được lấy dấu bằng alginate và đổ mẫu với thạch

cao cứng. Sử dụng thước cặp điện tử để đo và xác định các thông số trên mẫu hàm: khoảng cách từ đỉnh viền

nướu đến trục giữa thân răng ở các răng trước hàm trên, khoảng cách từ đỉnh viền nướu răng cửa bên hàm

trên đến đường nướu, tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía gần và phía xa so với chiều cao thân răng của mỗi răng

thuộc nhóm răng trước hàm trên. Kết quả: Răng cửa giữa, răng cửa bên và răng nanh hàm trên đều có đỉnh

viền nướu lệch về phía xa so với trục giữa thân răng với khoảng cách lần lượt là 0,96 mm, 0,46 mm, 0,24 mm.

Đỉnh viền nướu răng cửa bên hàm trên nằm thấp hơn so với đường nướu và cách đường nướu 0,77 mm. Tỷ

lệ chiều cao gai nướu so với chiều cao thân răng ở phía gần và phía xa lần lượt là 43,37% và 44,42%. Kết luận:

Đỉnh viền nướu của các răng thuộc nhóm răng trước hàm trên đều lệch về phía xa so với trục giữa thân răng.

Đỉnh viền nướu răng cửa bên hàm trên nằm thấp hơn đường nướu. Tỷ lệ chiều cao gai nướu so với chiều cao

thân răng của nhóm răng trước hàm trên là 43,9%

pdf 6 trang phuongnguyen 12300
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát vị trí đỉnh viền nướu và tỷ lệ chiều cao gai nướu ở nhóm răng trước hàm trên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát vị trí đỉnh viền nướu và tỷ lệ chiều cao gai nướu ở nhóm răng trước hàm trên

Khảo sát vị trí đỉnh viền nướu và tỷ lệ chiều cao gai nướu ở nhóm răng trước hàm trên
145
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
- Địa chỉ liên hệ: Trần Tấn Tài, email: taihangdr@gmail.com
- Ngày nhận bài: 15/10/2018; Ngày đồng ý đăng: 9/11/2018, Ngày xuất bản: 17/11/2018
KHẢO SÁT VỊ TRÍ ĐỈNH VIỀN NƯỚU VÀ TỶ LỆ CHIỀU CAO 
GAI NƯỚU Ở NHÓM RĂNG TRƯỚC HÀM TRÊN
Lê Nguyễn Thùy Dương, Trần Xuân Phương, Trần Tấn Tài
Khoa Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Giải phẫu nướu và hình dạng nướu đóng vai trò thiết yếu trong việc tạo nên một nụ cười 
đẹp. Hiểu và tái tạo được những đặc điểm này là yếu tố tiên quyết khi can thiệp điều trị ở vùng răng trước 
hàm trên. Mục tiêu nghiên cứu nhằm khảo sát vị trí đỉnh viền nướu và xác định tỷ lệ của chiều cao gai nướu 
so với chiều cao thân răng ở nhóm răng trước hàm trên. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang trên 123 sinh viên ngành Răng Hàm Mặt. Hàm trên được lấy dấu bằng alginate và đổ mẫu với thạch 
cao cứng. Sử dụng thước cặp điện tử để đo và xác định các thông số trên mẫu hàm: khoảng cách từ đỉnh viền 
nướu đến trục giữa thân răng ở các răng trước hàm trên, khoảng cách từ đỉnh viền nướu răng cửa bên hàm 
trên đến đường nướu, tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía gần và phía xa so với chiều cao thân răng của mỗi răng 
thuộc nhóm răng trước hàm trên. Kết quả: Răng cửa giữa, răng cửa bên và răng nanh hàm trên đều có đỉnh 
viền nướu lệch về phía xa so với trục giữa thân răng với khoảng cách lần lượt là 0,96 mm, 0,46 mm, 0,24 mm. 
Đỉnh viền nướu răng cửa bên hàm trên nằm thấp hơn so với đường nướu và cách đường nướu 0,77 mm. Tỷ 
lệ chiều cao gai nướu so với chiều cao thân răng ở phía gần và phía xa lần lượt là 43,37% và 44,42%. Kết luận: 
Đỉnh viền nướu của các răng thuộc nhóm răng trước hàm trên đều lệch về phía xa so với trục giữa thân răng. 
Đỉnh viền nướu răng cửa bên hàm trên nằm thấp hơn đường nướu. Tỷ lệ chiều cao gai nướu so với chiều cao 
thân răng của nhóm răng trước hàm trên là 43,9%. 
Từ khóa: Đỉnh viền nướu, trục giữa thân răng, chiều cao gai nướu, tỷ lệ chiều cao gai nướu.
Abstract
SURVEY OF THE GINGIVAL ZENITH POSITION AND PAPILLA 
PROPORTION IN THE MAXILLARY ANTERIOR DENTITION
Le Nguyen Thuy Duong, Tran Xuan Phuong, Tran Tan Tai
Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Gingival morphology and contour play an essential role in creating a beautiful smile. 
Understanding and establishing these characteristics are prerequisites during treatment planning for 
maxillary anterior dentition. The aim of study was to evalute the position of gingival zeniths and to quantify 
papilla proportion in relation to clinical crown length in maxillary anterior region. Methods: Descriptive 
cross-sectional study was conducted on 123 students from faculty of Odonto-Stomatology. For each student, 
maxillary alginate impression was taken and a diagnostic cast was poured with dental stone. The gingival 
zenith postions (GZP) of six anterior teeth were marked on dental casts. Using a digital vernier caliper to 
measure these parameters: the distance from GZP to vertical bisected midline of these teeth, the distance 
from GZP of maxillary lateral incisor to the gingival line, mesial and distal papilla proportion of each maxillary 
anterior tooth. Results: Central incisors, lateral incisors and canines showed distal displacement from VBM 
with a mean average of 0.96 mm, 0.46 mm and 0.26 mm respectively. The GZs of maxillary lateral incisors 
were more coronal to the gingival lines by approximately 0.77 mm. Mean mesial and distal papilla proportion 
for maxillary anterior dentition were 43.37% and 44.42% respectively. Conclusions: All maxillary anterior 
teeth showed distal displacement of GZPs from the VBM. The GZPs of maxillary lateral incisors were more 
coronal to the gingival lines. Papilla proportions were approximately 43,9% for all tooth groups.
Keywords: Gingival zenith, vertical bisected midline, papilla height, papilla proportion.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước bất kỳ điều trị nha chu hoặc phục hình nào, 
việc phân tích nụ cười là điều cần thiết và nên được 
thực hiện trước tiên. Những yếu tố ảnh hưởng đến 
thẩm mỹ của nụ cười bao gồm cấu trúc môi, răng và 
mô nướu [5]. Nghiên cứu của Lierbart (2004) được 
146
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
tiến hành trên 576 bệnh nhân cho kết quả có 43,57% 
bệnh nhân bị lộ nướu khi cười [8]. Để dự đoán kết 
quả thẩm mỹ tối ưu có thể đạt được trong việc tái 
tạo mô nướu ở những bệnh nhân này (phẫu thuật 
kéo dài thân răng, cắm ghép implant và chỉnh nha), 
nhất thiết phải quan tâm đến thẩm mỹ nướu trước 
khi tiến hành điều trị. Tiêu chuẩn của mô nướu lý 
tưởng bao gồm bờ nướu sắc cạnh, áp sát vào răng 
và vùng kẽ răng, gai nướu có dạng hình nón. Bất 
kỳ sự biến đổi nào của gai nướu cũng có thể gây ra 
vùng “tam giác đen” không mong muốn, cũng như 
sự bất đối xứng về nướu răng [3]. Vì vậy, hiểu được 
những đặc tính chung của mô nướu sẽ giúp nhà lâm 
sàng đạt được kết quả thẩm mỹ tốt hơn trong chẩn 
đoán và điều trị. Những đặc điểm về giải phẫu nướu 
như vị trí đỉnh viền nướu của nhóm răng trước hàm 
trên (rTHT) và mối tương quan của đỉnh viền nướu 
răng cửa bên hàm trên đối với đường nướu (đường 
thẳng nối liền đỉnh viền nướu của răng cửa giữa và 
răng nanh kế cận) có ảnh hưởng rất lớn đến thẩm 
mỹ nụ cười. Theo nghiên cứu của Chu (2009), đỉnh 
viền nướu của răng cửa giữa hàm trên nằm về phía 
xa và cách trục giữa thân răng 1 mm; ở răng cửa 
bên hàm trên, vị trí của đỉnh viền nướu cũng nằm về 
phía xa so với trục giữa thân răng và cách trục này 
0,4 mm; đối với răng nanh hàm trên, có đến 97,5% 
đỉnh viền nướu nằm ngay trên trục giữa thân răng 
[3]. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng đã ghi nhận đỉnh 
viền nướu của răng cửa bên hàm trên nằm thấp hơn 
so với đường nướu và cách đường nướu 1 mm.
Bên cạnh đó, chiều cao gai nướu ở nhóm răng 
trước hàm trên cũng đóng vai trò quan trọng trong 
thẩm mỹ nướu. Một số nghiên cứu đã được thực 
hiện để xác định tỷ lệ của chiều cao gai nướu so với 
chiều cao thân răng của nhóm răng trước hàm trên. 
Tỷ lệ này dao động từ 40% đến 50% tùy vào mỗi răng 
[1], [4], [12]. Ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào 
được thực hiện để xác định những thông số này. 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Khảo sát vị trí đỉnh 
viền nướu và tỷ lệ chiều cao gai nướu ở nhóm răng 
trước hàm trên” với mục tiêu: 
- Khảo sát tương quan của đỉnh viền nướu so với 
trục giữa thân răng ở nhóm răng trước hàm trên.
- Khảo sát tương quan của đỉnh viền nướu ở răng 
cửa bên hàm trên so với đường nướu.
- Xác định tỷ lệ của chiều cao gai nướu so với 
chiều cao thân răng ở nhóm răng trước hàm trên.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 123 sinh viên 
Răng Hàm Mặt tại trường Đại học Y Dược Huế, năm 
học 2017-2018. Những sinh viên này có độ tuổi từ 
18-25 tuổi (tuổi trung bình 21,8) có mô nha chu 
khỏe mạnh và tình trạng sức khỏe toàn thân tốt. 
- Tiêu chuẩn chọn mẫu: Sinh viên có sáu răng 
trước hàm trên sắp xếp đều đặn trên cung hàm, rìa 
cắn các răng còn nguyên vẹn; không có tiền sử chỉnh 
nha, chấn thương hàm mặt hoặc phẫu thuật nướu; 
đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ: vùng răng trước có miếng 
trám/mão răng; có tình trạng chen chúc hoặc thưa 
kẽ; bị mòn rìa cắn, nướu quá sản, tụt nướu, hoặc 
thân răng mọc lên không đầy đủ.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại phòng Tiền lâm sàng 
khoa Răng Hàm Mặt, trường Đại học Y Dược Huế từ 
tháng 01/2018 đến 6/2018.
2.3. Các phương tiện nghiên cứu
Bao gồm: Bộ dụng cụ khám, cây thăm dò nha 
chu, khay lấy dấu hàm trên, chất lấy dấu mẫu hàm 
(Jeltrate, Dentsply Caulk, Mỹ), thạch cao cứng 
(New Plastone II, GC, Nhật Bản), thước cặp điện tử 
(Mitutoyo 500-181-30, Nhật Bản).
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.5. Các bước tiến hành nghiên cứu
Dấu hàm trên của đối tượng nghiên cứu được 
lấy bằng alginate và được đổ mẫu ngay lập tức bằng 
thạch cao cứng. Các thông số trên mẫu thạch cao ở 
vùng răng trước hàm trên được đo bằng thước cặp 
điện tử.
Các thông số nghiên cứu:
2.5.1 Khoảng cách từ đỉnh viền nướu đến trục 
giữa thân răng
- Trục giữa thân răng (VBM: Vertical bisected 
midline): Được xác định bằng cách đo chiều rộng 
thân răng dựa vào hai điểm tham chiếu là điểm giới 
hạn về phía cắn (ICAP, tương ứng với điểm gặp nhau 
của hai răng về phía cắn) và điểm giới hạn về phía 
chóp (ACAP, tương ứng với điểm gặp nhau của hai 
răng về phía chóp); xác định trung điểm của chiều 
rộng thân răng tương ứng với hai điểm tham chiếu; 
đường thẳng đi qua hai trung điểm này chính là trục 
giữa thân răng.
- Đỉnh viền nướu (GZP: Gingival zenith position): 
Điểm cao nhất nằm về phía chóp của đường viền 
nướu rời mặt ngoài thân răng. Đỉnh viền nướu được 
xác định bằng cách vẽ đường tiếp tuyến của đường 
viền nướu vuông góc với trục giữa thân răng; tiếp 
điểm của đường tiếp tuyến này với đường viền 
nướu chính là đỉnh viền nướu.
- Khoảng cách từ đỉnh viền nướu đến trục giữa 
thân răng được đo bằng thước cặp điện tử: có giá trị 
dương (+) nếu đỉnh viền nướu nằm về phía xa so với 
trục giữa thân răng; có giá trị âm (-) nếu đỉnh viền 
147
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
nướu nằm về phía gần so với trục giữa thân răng 
(Hình 2.1 A, B) [3].
2.5.2. Khoảng cách từ đỉnh viền nướu răng cửa 
bên đến đường nướu
- Đường nướu: Là đường thẳng nối liền hai đỉnh 
viền nướu của răng cửa giữa và răng nanh ở cùng 
một phần hàm. 
- Khoảng cách từ đỉnh viền nướu của răng cửa 
bên hàm trên đến đường nướu (GZL: Gingival zenith 
level) được đo bằng thước cặp điện tử: có giá trị 
dương (+) nếu đỉnh viền nướu răng cửa bên nằm 
thấp hơn so với đường nướu; có giá trị âm (-) nếu 
đỉnh viền nướu răng cửa bên nằm cao hơn so với 
đường nướu (Hình 2.1 C) [3].
2.5.3. Tỷ lệ chiều cao gai nướu so với chiều cao 
thân răng
- Chiều cao thân răng (CL: Crown length): được 
đo từ đỉnh viền nướu đến điểm thấp nhất về phía 
cắn của thân răng.
- Chiều cao gai nướu (PH: Papilla height): được 
đo từ mức đỉnh viền nướu đến đỉnh của gai nướu. 
Chiều cao gai nướu được đo ở cả phía gần (MPH: 
Mesial papilla height) và phía xa (DPH: Distal papilla 
height) (Hình 2.2) [4].
- Tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía gần so với chiều cao thân răng (MPP) được tính bằng công thức: 
Chiều cao gai nướu ở phía gần
MPP = x 100 %
Chiều cao thân răng
- Tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía xa so với chiều cao thân răng (DPP) được tính bằng công thức:
Chiều cao gai nướu ở phía xa
DPP = x 100 %
Chiều cao thân răng
 A B C 
Hình 2.1. A, B: Đo khoảng cách từ đỉnh viền nướu (GZP) đến trục giữa thân răng (VBM); 
C: Khoảng cách từ đỉnh viền nướu răng cửa bên đến đường nướu (GZL)[3]
Hình 2.2. Đo chiều cao gai nướu ở phía gần và phía xa mỗi răng [4]
2.6. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.
3. KẾT QUẢ
3.1. Tương quan của đỉnh viền nướu so với trục giữa thân răng ở nhóm răng trước hàm trên
- Có 98,4% răng cửa giữa có đỉnh viền nướu lệch về phía xa so với trục giữa thân răng. Đối với nhóm răng 
cửa bên, tỷ lệ này giảm còn 78,9%; và chỉ còn 53,3% đối với răng nanh. 
148
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
- Không có răng nào thuộc nhóm rTHT có đỉnh viền nướu lệch về phía gần so với trục giữa thân răng.
Bảng 3.1. Khoảng cách từ đỉnh viền nướu đến trục giữa thân răng ở nhóm rTHT
Răng Số răng TB ± ĐLC (mm) GTNN (mm) GTLN (mm)
Răng cửa giữa 246 0,96 ± 0,35 0 1,85
Răng cửa bên 246 0,46 ± 0,28 0 1,34
Răng nanh 246 0,24 ± 0,25 0 0,74
 Nhận xét:
Khoảng cách trung bình từ đỉnh viền nướu đến trục giữa thân răng của răng cửa giữa, răng cửa bên và 
răng nanh hàm trên lần lượt là 0,96± 0,35, 0,46 ± 0,28 mm và 0,24 ± 0,25 mm. 
3.2. Tương quan của đỉnh viền nướu ở răng cửa bên hàm trên so với đường nướu 
 Bảng 3.2. Khoảng cách từ đỉnh viền nướu răng cửa bên hàm trên đến đường nướu
Răng Số răng TB ± ĐLC (mm) GTNN (mm) GTLN (mm)
R12 123 0,77 ± 0,50 0 2,30
R22 123 0,77 ± 0,44 0 1,85
Chung 246 0,77 ± 0,47 0 2,30
Nhận xét:
Tất cả các răng cửa bên hàm trên của mẫu nghiên cứu đều có đỉnh viền nướu nằm ngay trên đường nướu 
(chiếm tỷ lệ 17,5%) hoặc nằm thấp hơn so với đường nướu (nằm về phía cắn) (chiếm tỷ lệ 82,5%). Không có 
răng cửa bên hàm trên nào có đỉnh viền nướu nằm cao hơn so với đường nướu.
Khoảng cách trung bình từ đỉnh viền nướu răng cửa bên hàm trên đến đường nướu là 0,77 ± 0,47 mm. 
Khoảng cách này dao động trong khoảng từ 0 mm đến 2,3 mm. 
3.3. Tỷ lệ chiều cao gai nướu so với chiều cao thân răng ở nhóm răng trước hàm trên
Bảng 3.3. Tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía gần và phía xa so với chiều cao thân răng của từng loại răng 
thuộc nhóm răng trước hàm trên.
Răng Số răng Nhóm TB ± ĐLC (%) GTNN (%) GTLN (%)
Cửa giữa 246
MPP 42,88 ± 6,14 31,21 58,55
DPP 41,76 ± 5,47 28,87 56,41
Cửa bên 246
MPP 42,59 ± 6,33 28,77 60,53
DPP 42,42 ± 6,09 24,15 57,97
Nanh 246
MPP 44,64 ± 5,85 26,99 60,50
DPP 49,06 ± 6,48 32,91 67,69
Bảng 3.4. Tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía gần và phía xa so với chiều cao thân răng
 của nhóm răng trước hàm trên
Tỷ lệ chiều cao 
gai nướu
Số răng
TB ± ĐLC 
(%)
GTNN 
(%)
GTLN 
(%)
MPP 738 43,37 ± 6,17 26,99 60,53
DPP 738 44,42 ± 6,87 24,15 67,69
Tỷ lệ chung 738 43,90 ± 6,55 24,15 67,69
Giá trị p 0,002
* Kiểm định Independent Samples T Test.
Nhận xét:
Tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía gần và phía xa 
so với chiều cao thân răng lâm sàng của răng cửa 
giữa hàm trên lần lượt là 42,88% ± 6,14% và 41,76% 
± 5,47%. Các giá trị này ở răng cửa bên hàm trên là 
42,59% ± 6,33% và 42,42% ± 6,09%, và ở răng nanh 
hàm trên là 44,64% ± 5,85% và 49,06% ± 6,48%.
Tỷ lệ chiều cao gai nướu phía gần và phía xa so 
với chiều cao thân răng lâm sàng của nhóm rTHTcó 
giá trị trung bình lần lượt là 43,37% ± 6,17%, 44,42% 
± 6,87%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so 
sánh tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía gần và phía xa 
149
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
đối với nhóm rTHT (p<0,05). Tỷ lệ chiều cao gai nướu 
chung cho nhóm rTHT là 43,90% ± 6,55%.
4. BÀN LUẬN
4.1. Tương quan của đỉnh viền nướu so với trục 
giữa thân răng ở nhóm rTHT
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tất cả đỉnh viền 
nướu của nhóm rTHT đều lệch về phía xa hoặc nằm 
ngay trên trục giữa thân răng, không có răng nào 
có đỉnh viền nướu lệch về phía gần. Tỷ lệ đỉnh viền 
nướu lệch về phía xa so với trục giữa thân răng 
ởrăng cửa giữa, răng cửa bên và răng nanh lần lượt 
là 98,4%, 78,9% và 53,3%. Có thể nhận thấy, tỷ lệ 
lệch xa của đỉnh viền nướu so với trục giữa thân 
răng giảm dần từ răng cửa giữa đến răng cửa bên, 
và thấp nhất ở nhóm răng nanh. Xu hướng giảm 
dần này cũng tương đồng với hầu hết các nghiên 
cứu đã được thực hiện, như trong nghiên cứu của 
Chu (100%, 65%, 2,5%) [3] và Zagar (90%, 85%, 60%) 
[15]. Đặc biệt, nghiên cứu Rajaraman cho kết quả tỷ 
lệ lệch xa của đỉnh viền nướu so với trục giữa thân 
răng ở răng cửa giữa và răng cửa bên lên đến 100%, 
trong khi tỷ lệ này ở nhóm răng nanh là 30% [13].
Thông qua xác định các giá trị trung bình, nghiên 
cứu của chúng tôi cho kết quả đỉnh viền nướu của 
các răng thuộc nhóm rTHT đều lệch về phía xa so 
với trục giữa thân răng, và khoảng cách từ đỉnh viền 
nướu đến trục giữa thân răng ở răng cửa giữa, răng 
cửa bên và răng nanh lần lượt là 0,96 mm, 0,46 mm 
và 0,24 mm. Vị trí đỉnh viền nướu lệch về phía xa 
và khoảng cách từ đỉnh viền nướu so với trục giữa 
thân răng giảm dần từ răng cửa giữa đến răng nanh 
cũng được ghi nhận trong nghiên cứu của Bharathi 
[1], Zagar [15], Mattos [10], Maradi [9], Rathod [14], 
Choi [2] và Rajaraman [13]. Bên cạnh những kết quả 
tương đồng dành cho răng cửa giữa và răng cửa 
bên, nghiên cứu của Chu [3] đã ghi nhận đỉnh viền 
nướu của răng nanh nằm ngay trên trục giữa thân 
răng.
Nhìn chung, đỉnh viền nướu của nhóm rTHT 
có xu hướng lệch về phía xa so với trục giữa thân 
răng, với khoảng cách từ đỉnh viền nướu đến trục 
giữa thân răng giảm dần từ răng cửa giữa đến răng 
cửa bên và nhỏ nhất ở răng nanh, dao động trong 
khoảng 0 – 1 mm.
4.2. Tương quan của đỉnh viền nướu ở răng cửa 
bên hàm trên so với đường nướu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đỉnh viền nướu 
của răng cửa bên nằm ngay trên đường nướu 
(17,5%) hoặc nằm thấp hơn (về phía cắn hơn) so với 
đường nướu (82,5%), không có răng cửa bên nào 
có đỉnh viền nướu nằm cao hơn (về phía chóp hơn) 
so với đường nướu. Kết quả trên có sự tương đồng 
với nhiều nghiên cứu khác đã được thực hiện, như 
nghiên cứu của Chu [3], Mattos [10], Maradi [9], 
Rathod [14] và Rajaraman [13]. Các nghiên cứu này 
cũng đã cho kết quả tất cả đỉnh viền nướu của răng 
cửa bên hàm trên đều nằm ngay trên đường nướu 
hoặc nằm thấp hơn so với đường nướu. Trong đó, 
tỷ lệ răng cửa bên có đỉnh viền nướu nằm thấp hơn 
so với đường nướu chiếm ưu thế vượt trội. Một số 
nghiên cứu khác cũng đã ghi nhận thêm các trường 
hợp răng cửa bên hàm trên có đỉnh viền nướu nằm 
cao hơn so với đường nướu, như trong nghiên cứu 
của Choi [2] và Indurkar [7]. Tuy nhiên, tỷ lệ răng cửa 
bên có đỉnh viền nướu nằm cao hơn so với đường 
nướu trong các nghiên cứu này rất thấp và có giá trị 
lần lượt là 2% (Choi [2])và 7% (Indurkar [7]). 
Sau khi đánh giá toàn bộ vị trí đỉnh viền nướu ở 
răng cửa bên hàm trên so với đường nướu, nghiên 
cứu của chúng tôi cho kết quả: đỉnh viền nướu của 
răng cửa bên nằm thấp hơn so với đường nướu và 
cách đường nướu 0,77 mm. Giá trị nhỏ nhất ghi 
nhận được của khoảng cách từ đỉnh viền nướu răng 
cửa bên đến đường nướu là 0 mm và giá trị lớn nhất 
là 2,3 mm. Một số nghiên cứu có kết quả về khoảng 
cách từ đỉnh viền nướu răng cửa bên đến đường 
nướu lớn hơn so với nghiên cứu của chúng tôi (0,77 
mm), như nghiên cứu của Rathod (1,024 mm) [14], 
Chu (1 mm) [3], Indurkar (1 mm) [7] và Maradi (0,91 
mm) [9]. Mặc khác, giá trị về khoảng cách này trong 
nghiên cứu của chúng tôi lại lớn hơn hoặc có sự 
chênh lệch rất nhỏ với các nghiên cứu của Mattos 
(0,75 mm) [10], Choi (0,73 mm) [2]. 
Nhìn chung, tuy mỗi nghiên cứu cho kết quả 
khác nhau về khoảng cách từ đỉnh viền nướu răng 
cửa bên hàm trên đến đường nướu, nhưng các giá 
trị này đều nằm trong khoảng từ 0,5 đến 1 mm, phù 
hợp với yêu cầu về thẩm mỹ nướu của nhóm răng 
trước hàm trên [6], [11]. 
4.3. Tỷ lệ của chiều cao gai nướu so với chiều 
cao thân răng ở nhóm rTHT
Khi so sánh về tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía 
gần và phía xa so với chiều cao thân răng lâm sàng 
của nhóm rTHT, có thể nhận thấy rằng, ở nghiên 
cứu của chúng tôi, tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía 
xa (44,42%) lớn hơn so với tỷ lệ chiều cao gai nướu 
ở phía gần (43,37%), với độ chênh lệch là 1,05%. 
Tương tự, các nghiên cứu của Chu và Patil cũng đưa 
ra kết quả tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía xa lớn 
hơn so với tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía gần, với 
khoảng chênh lệch từ 0,88% (Patil [12]) đến 1% (Chu 
[4]). Tuy nhiên, nghiên cứu của Bharathi lại cho kết 
quả ngược lại: tỷ lệ chiều cao gai nướu phía gần lớn 
hơn so với tỷ lệ chiều cao gai nướu phía xa với độ 
chênh lệch là 0,4% [1].
150
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Khi xét về tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía gần và 
phía xa so với chiều cao thân răng lâm sàng của từng 
nhóm răng cửa giữa, răng cửa bên và răng nanh hàm 
trên, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: răng nanh 
hàm trên có tỷ lệ chiều cao gai nướu ở phía gần và 
phía xa cao hơn hẳn so với răng cửa giữa và răng 
cửa bên hàm trên. Nhận định này cũng phù hợp khi 
đối chiếu với các nghiên cứu của Chu [4], Patil [12], 
Bharathi [1]. Tỷ lệ chiều cao gai nướu chung cho 
nhóm rTHT là 43,9%. 
Sự khác biệt trong kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi về vị trí đỉnh viền nướu và chiều cao gai nướu ở 
nhóm rTHT so với những nghiên cứu khác trên thế 
giới có thể do sự khác biệt về đặc điểm nhân chủng 
học của mẫu nghiên cứu như kích thước răng, hình 
dáng răng, giải phẫu răng hoặc hình dáng khuôn 
mặt. 
Ngoài ra, một hạn chế trong nghiên cứu của 
chúng tôi là cỡ mẫu nghiên cứu còn nhỏ, tập trung 
ở đối tượng sinh viên, nên kết quả chưa mang tính 
chất đại diện cho nhóm dân cư rộng lớn.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
- Đỉnh viền nướu của các răng thuộc nhóm rTHT 
đều lệch về phía xa so với trục giữa thân răng với 
khoảng cách lần lượt là 0,96 mm, 0,46 mm và 0,26 
mm.
- Đỉnh viền nướu răng cửa bên hàm trên nằm 
thấp hơn so với đường nướu và cách đường nướu 
0,77 mm.
- Tỷ lệ chiều cao gai nướu so với chiều cao thân 
răng của nhóm rTHT là 43,9%.
5.2. Kiến nghị
- Trong thực hành nha khoa, bác sĩ lâm sàng có 
thể sử dụng những số liệu trong nghiên cứu của 
chúng tôi kết hợp với những thông số thẩm mỹ 
khách quan và chủ quan nhằm phục vụ cho quá 
trình chẩn đoán, đưa ra kế hoạch điều trị và tái lập 
lại nụ cười tự nhiên.
- Cần có nhiều nghiên cứu với mẫu lớn hơn và ở 
nhiều vùng địa lý khác nhau để có thể đưa ra một 
thông số tham khảo chung cho người Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bharathi S R, Priyanka K C, PSG P, Devapriya A, et 
al (2017), “Quantitative evaluation of the Gingival Zenith 
position and Papilla proportions in the maxillary anterior 
dentition”, International Journal of Pharma and Bio 
Sciences, 8 (4), pp. 495-501.
2. Choi J, Seong D, Song K, Park J, et al (2011), “The 
apico-coronal and mesio-distal positions of the gingival 
zenith in the maxillary anterior dentition”, Journal of Dental 
Rehabilitation and Applied Science, 27 (1), pp. 41-50.
3. Chu S J, Tan J H, Stappert C F, Tarnow D P (2009), 
“Gingival zenith positions and levels of the maxillary 
anterior dentition”, J Esthet Restor Dent, 21 (2), pp. 113-
120.
4. Chu S J, Tarnow D P, Tan J H, Stappert C F (2009), 
“Papilla proportions in the maxillary anterior dentition”, 
Int J Periodontics Restorative Dent, 29 (4), pp. 385-393.
5. Garber D A, Salama M A (1996), “The aesthetic 
smile: diagnosis and treatment”, Periodontol 2000, 11, pp. 
18-28.
6. Goodlin R (2003), “Gingival aesthetic: a critical 
factor in smile design”, Oral Health and Dental Practice, 
93 (4), pp. 10-27.
7. Indurkar M S, Abinesh M (2017), “A clinical study of 
assessment of gingival elements in smile designing”, IntJ 
of Adv Res,, 5 (10), pp. 975-979.
8. Liebart M F, Fouque-Deruelle C (2004), “Smile line 
and periodontium visibility”, Perio, 1 (1), pp. 17-25.
9. Maradi A, Jamesha F I, Atulka M, Sajjanar A (2017), 
“Assessment of gingival zenith levels in the healthy 
gingiva of maxillary anteriors for esthetic considerations”, 
J Clin Dent Sci, 2 (3), pp. 1-5.
10. Mattos C M, Santana R B (2008), “A quantitative 
evaluation of the spatial displacement of the gingival 
zenith in the maxillary anterior dentition”, J Periodontol, 
79 (10), pp. 1880-1885.
11. Parmar A (2002), “Treating smile disease”, R & AP, 
4 (10), pp. 58-62.
12. Patil V, Desai M (2013), “Assessment of gingival 
contours for esthetic diagnosis and treatment: A clinical 
study”, Indian Journal of Dental Research, 24 (3), pp. 394-
395.
13. Rajaraman V, Abraham A, Dhanraj M, Jain A R 
(2018), “Symmetry of gingival zenith: Defining esthetic 
outcome”, Drug Invention Today, 10 (5), pp. 800-804.
14. Rathod V J, Singh J, Nilesh J V, Thorat V A, et al 
(2017), “Quantitative evaluation of deviation of gingival 
zenith position in maxillary anterior dentition”, Int J Recent 
Sci Res, 8 (4), pp. 16741-16744.
15. Zagar M, Knezovic Zlataric D, Carek V (2010), “A 
quantitative evaluation of the distal displacement of 
the gingival zenith in the maxillary anterior teeth”, Coll 
Antropol, 34 (1), pp. 225-228.

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_vi_tri_dinh_vien_nuou_va_ty_le_chieu_cao_gai_nuou_o.pdf