Khảo sát tương hợp chẩn đoán tế bào học - giải phẫu bệnh các bướu ác tính của tuyến nước bọt

Đặt vấn đề: Phân loại bướu tuyến nước bọt ác tính trên FNA khó khăn vì đặc điểm tế bào học chồng lấp,

nhiều loại mô học ít gặp, nhiều loại là grad thấp. Hệ thống báo cáo kết quả chẩn đoán tế bào học tuyến nước

bọt Milan phân tầng các tổn thương vào các nhóm có nguy cơ ác tính khác nhau, giúp định hướng xử trí tốt

hơn cho bác sĩ lâm sàng. Mục tiêu của khảo sát này là xác định tỉ lệ tương hợp chẩn đoán tế bào học - giải

phẫu bệnh các bướu ác tuyến nước bọt, phân loại lại các kết quả chẩn đoán tế bào học theo hệ thống Milan,

tìm yếu tố gây bất tương hợp chẩn đoán.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả loạt ca, gồm 70 trường hợp

carcinôm tuyến nước bọt được chẩn đoán tại Khoa Giải phẫu bệnh Bệnh viện Ung bướu TP. HCM từ 01/2017

đến 6/2018.

pdf 8 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tương hợp chẩn đoán tế bào học - giải phẫu bệnh các bướu ác tính của tuyến nước bọt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tương hợp chẩn đoán tế bào học - giải phẫu bệnh các bướu ác tính của tuyến nước bọt

Khảo sát tương hợp chẩn đoán tế bào học - giải phẫu bệnh các bướu ác tính của tuyến nước bọt
GIẢI PHẪU BỆNH 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
236 
KHẢO SÁT TƯƠNG HỢP CHẨN ĐOÁN TẾ BÀO HỌC – 
GIẢI PHẪU BỆNH CÁC BƯỚU ÁC TÍNH CỦA TUYẾN NƯỚC BỌT 
PHẠM MINH TÂM1, NGUYỄN PHAN HOÀNG ĐĔNG2, LƯ BẠCH KIM1, 
ÂU NGUYỆT DIỆU3, NGUYỄN VĔN THÀNH4 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phân loại bướu tuyến nước bọt ác tính trên FNA khó khĕn vì đặc điểm tế bào học chồng lấp, 
nhiều loại mô học ít gặp, nhiều loại là grad thấp. Hệ thống báo cáo kết quả chẩn đoán tế bào học tuyến nước 
bọt Milan phân tầng các tổn thương vào các nhóm có nguy cơ ác tính khác nhau, giúp định hướng xử trí tốt 
hơn cho bác sĩ lâm sàng. Mục tiêu của khảo sát này là xác định tỉ lệ tương hợp chẩn đoán tế bào học - giải 
phẫu bệnh các bướu ác tuyến nước bọt, phân loại lại các kết quả chẩn đoán tế bào học theo hệ thống Milan, 
tìm yếu tố gây bất tương hợp chẩn đoán. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả loạt ca, gồm 70 trường hợp 
carcinôm tuyến nước bọt được chẩn đoán tại Khoa Giải phẫu bệnh Bệnh viện Ung bướu TP. HCM từ 01/2017 
đến 6/2018. 
Kết quả: Tương hợp chẩn đoán tế bào học - giải phẫu bệnh các carcinôm tuyến nước bọt nói chung là 
28,6%; đối với từng loại mô học carcinôm nhầy bì, carcinôm bọc dạng tuyến và carcinôm tế bào túi tuyến lần 
lượt là 42,4%, 35,7% và 8,3%; các loại ít gặp tương hợp 0%. Có 50 trường hợp (TH) không tương hợp được 
phân nhóm lại theo hệ thống Milan. Gồm 2 TH nhóm I, 7 TH nhóm III do phết có quá ít chất liệu để có thể chẩn 
đoán; 1 TH nhóm II, 2 TH nhóm IVA do phết chỉ có các đặc điểm hướng tới chẩn đoán viêm hoặc bướu lành; 
20 TH nhóm IVB do tính chất chồng lấp và không đầy đủ đặc điểm tế bào học để chẩn đoán loại mô học; 
16 TH nhóm V do người đọc thiếu kinh nghiệm chẩn đoán. 
Kết luận: Tương hợp chẩn đoán tế bào học - giải phẫu bệnh trong phân loại các carcinôm tuyến nước bọt 
còn thấp. Nguyên nhân do phết không đủ đặc điểm để chẩn đoán xác định, do bác sĩ tế bào học thiếu kinh 
nghiệm chẩn đoán. Sử dụng hệ thống Milan trong báo cáo kết quả tế bào học giúp bác sĩ lâm sàng định hướng 
xử trí tốt hơn, đặc biệt trong những trường hợp tế bào học chưa thể cho chẩn đoán xác định loại mô học. 
ABSTRACT 
Analysis of cytohistopathologic concordance of salivary glands carcinoma 
Introduction: Classifying malignant salivary gland lesions on fine-needle aspiration (FNA) is a challenge since 
cytologic features overlap, several types of neoplasm are rarely present and many types are low-grade 
malignant tumors. The Milan System for Reporting Salivary Gland Cytopathology (MSRSGC) classifies the 
neoplasm into specific groups with different risks of malignancy, that help clinicians orienting better. The study 
is aimed at determining the diagnostic rate of cyto-histopathologic correlation of malignant salivary gland 
tumors, reclassifying them by the Milan system, finding factors causing incorrect diagnosis. 
Subjects and Methods: A retrospective study, case series. There were 70 cases of salivary gland 
carcinomas cytologically and histologically diagnosed at HCM city Oncology Hospital from January 2017 
to June 2018. 
Results: The cyto-histo pathological concordance rate of salivary gland carcinomas was 28,6%, of the 
1
 BS. Khoa Giải phẫu bệnh - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
2
 Bộ môn Giải phẫu bệnh Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
3
 TS. BS. Phó Trưởng Khoa Giải phẫu bệnh - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
 - Bộ môn GPB Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
4
 ThS.BS Trưởng Khoa Giải phẫu bệnh - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
GIẢI PHẪU BỆNH 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
237 
histological subtypes of mucoepidermoid carcinoma, adenoid cystic carcinoma, acinic cell carcinoma were 
42,4%, 35,7% and 8,3% respectively. The uncommon and rare categories are unable to diagnose based on 
cytology (0% concordance). 50 cases with no cyto-histo correlation are reclassified according to the Milan 
groups, including 2 cases placed in group I, 7 cases in group 3, because of lack of cellular features for 
diagnosis; 1 case in group II and 2 cases in group IVA because of the presence of inflammatory or benign 
features; 20 cases in group IVB due to the overlapping and insufficient cytological features, 16 cases in group 5 
with the previous diagnosis of suspicious for malignancy but histological types are indeterminate or cases with 
adequate characteristics for diagnosis but the interpreter lacks experience. 
Conclusions: Cyto-histo pathological correlation of salivary gland carcinomas is still low. The causes 
include samples insufficient for specific diagnosis or pathologists lacking experience, especially with rare 
neoplasms. Using the Milan System helps to stratify results into risk categorizes, provide physicians with 
appropriate clinical management to salivary gland lesions. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chọc hút bằng kim nhỏ (Fine needle aspiration 
– FNA) đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới như 
là một phương tiện chẩn đoán đầu tay đối với các 
tổn thương ở tuyến nước bọt (TNB). FNA phân biệt 
tổn thương bướu và không bướu với độ nhạy cảm 
79-100%, độ đặc hiệu 71-100%; độ chính xác khi 
chẩn đoán phân biệt giữa bướu lành và bướu ác là 
81-100%. Tuy nhiên, FNA TNB là một lĩnh vực đầy 
thách thức, bởi vì có trên 35 loại bướu TNB khác 
nhau, nhiều loại khá hiếm gặp, các bướu lại có 
chung một số đặc điểm về tế bào và cấu trúc, bướu 
ác thường là grad thấp nên tính chất ác tính có khi 
không rõ rệt. Độ chính xác của FNA tuyến nước bọt, 
do đó, có khác biệt nhau giữa các nghiên cứu. Nĕm 
2015, Hệ thống Milan báo cáo kết quả tế bào học 
tuyến nước bọt (The Milan System for Reporting 
Salivary Gland Cytopathology-MSRSGC) ra đời. Hệ 
thống phân tầng nguy cơ ác tính của phết tế bào học 
(TBH), hướng dẫn tốt hơn cho nhà lâm sàng trong 
chọn lựa xử trí. 
Tại Bệnh viện Ung bướu TP. Hồ Chí Minh, FNA 
TNB vẫn chưa đạt được độ chính xác cao. Các kết 
quả chẩn đoán tế bào học không được tiêu chuẩn 
hóa, đôi khi không cung cấp được cho nhà lâm sàng 
những thông tin hữu ích. 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu Khảo sát sự 
tương hợp chẩn đoán tế bào học - giải phẫu bệnh 
các bướu ác tuyến nước bọt với mục đích tìm ra các 
yếu tố đã dẫn đến độ chính xác thấp nhằm cải thiện 
chất lượng chẩn đoán. Nghiên cứu nhằm các mục 
tiêu sau: 
1. Xác định tỉ lệ tương hợp chẩn đoán TBH–giải 
phẫu bệnh các bướu ác tính TNB. 
2. Xếp loại lại các chẩn đoán tế bào học theo 
Hệ thống Milan đối với những trường hợp không 
tương hợp để tìm ra yếu tố dẫn đến chẩn đoán sai; 
phân tầng lại nguy cơ ác tính. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Các trường hợp (TH) bướu ác tính biểu mô 
tuyến nước bọt (các carcinôm TNB) được chẩn đoán 
xác định bằng giải phẫu bệnh (GPB), đã được làm 
xét nghiệm FNA chẩn đoán trước mổ tại Bệnh viện 
Ung bướu TP. Hồ Chí Minh từ 01/01/2017 đến 
30/6/2018. 
Phương pháp nghiên cứu: mô tả loạt ca 
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện 
Tiêu chuẩn loại trừ: Các TH bướu ác tính tuyến 
nước bọt không còn đủ tiêu bản GPB và/hoặc tiêu 
bản TBH. 
Chúng tôi thu thập được 70 TH. 
Phương pháp tiến hành 
Đối chiếu kết quả GPB và TBH, xác định tỉ lệ 
tương hợp chẩn đoán chung, tương hợp chẩn đoán 
theo loại mô học. 
Chia mẫu nghiên cứu thành 2 nhóm: 
+ Nhóm tương hợp chẩn đoán: khảo sát đặc 
điểm TBH theo từng loại mô học 
+ Nhóm không tương hợp chẩn đoán: khảo sát 
đặc điểm TBH, phân loại lại kết quả theo Hệ thống 
Milan, tìm yếu tố dẫn đến chẩn đoán sai 
Hệ thống Milan báo cáo kết quả tế bào học 
tuyến nước bọt 
Nhóm chẩn đoán Nguy cơ 
ác tính 
Thái độ xử trí 
I. Không chẩn đoán 25% 
Đối chiếu lâm 
sàng và hình ảnh 
học/làm lại FNA 
II. Không phải bướu 10% 
Theo dõi lâm 
sàng và đối 
chiếu hình ảnh 
học 
GIẢI PHẪU BỆNH 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
238 
III. Không điển hình ý 
nghĩa không xác định 
(AUS) 
20% 
Làm lại FNA 
hoặc phẫu thuật 
IV. Bướu 
A. Bướu lành 
B. Bướu TNB tiềm 
nĕng ác tính không 
xác định (SUMP) 
<5% 
35% 
Phẫu thuật hoặc 
theo dõi 
Phẫu thuật 
V. Nghi ngờ ác tính 60% Phẫu thuật 
VI. Ác tính 90% Phẫu thuật 
KẾT QUẢ 
Chúng tôi khảo sát 70 TH carcinôm TNB, kết 
quả như sau: 
Tỉ lệ tương hợp chẩn đoán TBH - GPB bướu ác 
tính TNB 
Bảng 1. Tỉ lệ tương hợp chẩn đoán TBH – GPB các 
bướu ác tính TNB 
Loại giải phẫu bệnh 
 TBH 
tương 
hợp 
 TBH 
không 
tương 
hợp 
Tỉ lệ 
tương 
hợp 
Carcinôm nhầy bì 14 19 42,4% 
Carcinôm bọc dạng tuyến 5 9 35,7% 
Carcinôm tế bào túi tuyến 1 11 8,3% 
Khác 0 11 0% 
TỔNG 20 50 28,6% 
Nhóm “Khác” bao gồm các loại giải phẫu bệnh ít 
gặp và hiếm gặp: carcinôm tế bào cơ biểu mô 
(1 TH), carcinôm tuyến tế bào đáy (2 TH), carcinôm 
trên nền bướu tuyến đa dạng (2 TH), carcinôm tuyến 
dạng NOS (2 TH), carcinôm ống tuyến nước bọt 
(1 TH), carcinôm tuyến bọc (1 TH), carcinôm limphô-
biểu mô (2 TH). 
Đặc điểm TBH nhóm tương hợp chẩn đoán 
Carcinôm nhầy bì 
Bảng 2. Đặc điểm TBH các TH carcinôm nhầy bì tương hợp chẩn đoán TBH – GPB 
Đặc điểm 
Loại GPB 
Mật độ TB 
Hỗn hợp tb nhầy, 
trung gian, dạng gai 
Nhân KĐH 
Nền nhiều 
chất nhầy 
Nền 
limphô bào Thấp Trung 
bình 
Cao Thấp Trung 
bình 
Cao 
Car. nhầy bì grad 1 
(n=3) 
1 1 1 3 2 1 0 3 2 
Car. nhầy bì grad 2 
(n=4) 
0 1 3 4 0 2 2 3 4 
Car. nhầy bì grad 3 
(n=7) 
1 2 4 6 0 1 6 3 6 
Carcinôm bọc dạng tuyến (2.2) 
Có 5 TH tương hợp TBH - GPB; 5/5 có đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán chính: (1) Đám tế bào dạng đáy sắp 
xếp thành mảng dạng hợp bào bờ không đều, (2) tế bào đồng dạng, tỉ lệ nhân/bào tương cao, bào tương rất ít, 
(3) nhân bầu dục đến góc cạnh, đậm màu, hạch nhân nhỏ không rõ, (4) chất mô đệm đồng nhất, không có tế 
bào, bờ rõ (gum ball). 
Carcinôm tế bào túi tuyến 
Có 1 TH tương hợp TBH-GPB. TH này có đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán chính: (1) Phết giàu tế bào, 
 (2) dân số đồng dạng, tế bào đa diện, tỉ lệ nhân/bào tương thấp, bào tương nhiều không bào, (3) tế bào rời 
rạc hoặc kết đám lỏng lẻo, (4) mạng lưới mao mạch có tế bào bướu đính vào, đa dạng nhân tối thiểu; và nhiều 
tiêu chuẩn phụ. 
GIẢI PHẪU BỆNH 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
239 
ĐẶC ĐIỂM TBH NHÓM KHÔNG TƯƠNG HỢP CHẨN ĐOÁN 
Carcinôm nhầy bì 
Bảng 3. Đặc điểm TBH các TH carcinôm nhầy bì không tương hợp chẩn đoán 
 TBH Đặc điểm TBH Phân loại kết quả theo Milan Mật độ TB Các đặc điểm chính Đặc điểm khác 
Bọc 
B17.172/B18.09 
SA17.577 
SA17.2807/13077/29636 
Dịch 
Dịch 
Rất ít 
Dịch giàu protein 
Dịch + vôi 
Tb không điển hình 
Bọt bào, BCĐN 
Nhiều BCĐN 
Bọt bào 
Nhóm I 
Nhóm II 
Nhóm III 
Viêm 
SA17. 15039 
SA17. 24629 
Ít 
Trung bình 
Tb không điển hình 
Nhiều tb dạng gai, KĐH 
Ít tb viêm 
Ít tb viêm; hoại tử 
Nhóm III 
Nhóm IVB 
Hoại tử 
SA1730138/B17.178 
Ít 
Tb gai dị dạng 
Nền hoại tử bướu 
Nhóm V 
Bướu không xác định loại 
B17.134 
Giàu tb 
Tb dạng gai/dạng phồng bào, 
nhân KĐH 
Nền có ít limphô 
bào 
Nhóm IVB 
Bướu hỗn hợp 
SA17.6989 
SA17.17017/32154/ 
SA18.2555 
Trung bình 
Trung bình 
Tb gai dị dạng, tb tiết nhầy 
Tb dạng phồng bào 
Ít mô đệm 
Ít mô đệm niêm 
Nhóm V 
Nhóm IVB 
Bướu Warthin/phồng bào 
SA17.6059/16759 
Ít 
Tb dạng phồng bào, nhân 
KĐH 
Nền dịch, xuất 
huyết, tb viêm 
Nhóm IVB 
Nghi ngờ ác tính 
B17.182/SA17.29433 
Ít 
Tb gai dị dạng 
- 
Nhóm V 
Carcinôm bọc dạng tuyến 
Bảng 4. Đặc điểm TBH các TH carcinôm bọc dạng tuyến không tương hợp chẩn đoán 
 TBH Đặc điểm TBH Phân loại kết quả theo Milan Mật độ TB Các đặc điểm chính Đặc điểm khác 
Bướu không xác định loại 
SA17.36436 
SA17.11213 
Rất ít 
Trung bình 
(1) (2) (3)/Không mô đệm 
(1) (2) (3)/Ít mô đệm niêm 
Nền hồng cầu 
Đám tạo ống 
Nhóm III 
Nhóm IVB 
Bướu hỗn hợp 
SA17.14153/16743/ 
38652/39523/SA18.1191 
SA17. 3264/24726 
Trung bình 
 Giàu 
Giàu 
(1) (2) (3)/Ít mô đệm sợi niêm hoặc 
mô xơ 
(1) (2) (3)/Nhiều mô đệm: sợi niêm 
+ mô đệm kiểu gum ball 
Cơ biểu mô 
điển hình (-) 
Cơ biểu mô 
điển hình (-) 
Nhóm IVB 
Nhóm V 
(1) (2) (3) đặc điểm TBH mô tả trong phần 2.2 
GIẢI PHẪU BỆNH 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
240 
Carcinôm tế bào túi tuyến 
Bảng 5. Đặc điểm TBH các TH carcinôm tế bào túi tuyến không tương hợp chẩn đoán 
 TBH 
Đặc điểm TBH Phân loại kết quả 
theo Milan Mật độ TB Các đặc điểm chính Đặc điểm khác 
Bọc 
SA17.10981 
SA17.38635 
Rất ít 
Rất ít 
Không có 
Không có 
Ít tb KĐH 
Bọt bào 
Nhóm III 
Nhóm I 
Viêm (SA17.6163) 
Viêm, car. tb túi tuyến 
(SA17.24655/33131) 
Trung bình 
Trung bình 
Nhiều tb túi tuyến rời 
Nhiều tb túi tuyến; không tb ống dẫn 
Tb nhân trần 
Tb nhân trần 
Nhóm V 
Nhóm V 
Bướu không xác định loại 
(SA17.39035) 
Nghèo tb Vài cụm tb biểu mô Nền dịch Nhóm III 
Bướu Warthin 
(SA17.7328/SA17.28081) 
Trung bình Tb dạng phồng bào, kết đám Nền có tb nhỏ 
giống limphô 
Nhóm 4IVA (bướu 
phồng bào) 
Bướu phồng bào (SA17.7413) Trung bình Tb dạng phồng bào, kết đám - Nhóm IVA (bướu 
phồng bào) 
Carcinôm nhầy bì (B17.37) Trung bình Tb dạng phồng bào, bào tương nhiều 
ái toan dạng hạt hoặc có không bào; 
nhân hơi lớn 
- Nhóm IVB 
Carcinôm bọc dạng tuyến 
(SA17.774) 
Trung bình Tb dạng phồng bào, bào tương 
ái toan; Tb túi tuyến 
Ít mô đệm Nhóm IVB 
Các carcinôm ít gặp và hiếm gặp khác 
Bảng 6. Đặc điểm TBH các TH carcinôm ít gặp không tương hợp chẩn đoán 
 GPB TBH Đặc điểm TBH Phân loại kết quả theo Milan 
Car. tuyến dạng NOS 
(n=2) 
Car. di cĕn hạch 
(SA17.929)/Car. nhầy bì 
(SA17.27975) 
Phết giàu tb. Tb tuyến ác tính rõ, tạo đám, 
có lòng ống, nền hoại tử. 
Nhóm V-VI 
Car. trên nền bướu hỗn 
hợp (n=2) 
Bướu hỗn hợp (B17.48, 
SA17.9563) 
Phết ít tb. Tb KĐH, kết đám nhỏ, rời. 
Mô đệm niêm hoặc hyalin. 
Nhóm IVB 
Car. tuyến tb đáy (n=2) Bướu hỗn hợp 
(SA17.1336)/NN Car. bọc 
dạng tuyến (SA17.8094) 
Phết ít tb. Tb dạng đáy, xếp thành đám. Ít mô đệm 
dạng sợi niêm hoặc mô đệm bao quanh đám tb. 
Nhóm IVB 
Car. limphô - biểu mô 
(n=2) 
Bướu hỗn hợp 
(SA18.74)/NN car. nhầy bì 
(SA17.9507) 
Phết giàu tb. Nền giàu limphô bào giống như 
mô hạch. Tb biểu mô kém biệt hóa, nhân lớn, 
dị dạng, hạch nhân to, rõ. 
Nhóm V 
Car. tb cơ biểu mô (n=1) Bướu hỗn hợp( B18.03) Phết giàu tb. Tb rời, xếp cụm nhỏ, đám lớn. tb nhiều 
hình dạng, bào tương ít hoặc nhiều. Mô đệm dạng 
sợi niêm hoặc hyalin hóa 
Nhóm IVB 
Car. ống tuyến (n=1) NN car. nhầy bì 
(SA18.4969) 
Phết giàu tb. Tb dạng phồng bào, rời, kết đám nhỏ, 
nhân dị dạng. 
Nhóm V 
Car. tuyến bọc (n=1) NN car. nhầy bì 
(SA17.36913) 
Phết giàu tb. Tb lớn dị dạng, kết đám lớn hoặc nhỏ, 
nền hoại tử có lẫn bọt bào 
Nhóm V 
(NN: nghi ngờ; KĐH: không điển hình) 
GIẢI PHẪU BỆNH 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
241 
BÀN LUẬN 
Tần suất bướu TNB trên thế giới thay đổi từ 0,4 
đến 13,5 trường hợp/100.000 dân. Bướu xuất phát 
từ biểu mô chiếm 80-90% các bướu TNB, trong đó 
75% là bướu lành. Bướu thường gặp nhất ở TNB 
mang tai, tiếp đến là tuyến dưới hàm, khẩu cái, má, 
lưỡi, Carcinôm tuyến nước bọt hiếm gặp, chiếm 
0,3% các ung thư nói chung. Tỉ lệ bướu ác tính ở 
các TNB tỉ lệ nghịch với kích thước tuyến. Khảo sát 
của chúng tôi chỉ chọn những trường hợp bướu ác 
TNB chính (tuyến mang tai và tuyến dưới hàm) – 
là những vị trí được chỉ định làm FNA để chẩn đoán 
trước mổ. Bướu TNB có trên 30 loại khác nhau, 
trong đó có một ít loại rất thường gặp và nhiều loại 
rất ít gặp, do đó bác sĩ GPB hoặc TBH xa lạ đối với 
các loại bướu này. Bướu ác tính thường gặp theo 
thứ tự từ nhiều đến ít gồm: carcinôm nhầy bì, 
carcinôm bọc dạng tuyến, carcinôm tuyến dạng 
NOS, carcinôm tế bào túi tuyến, carcinôm trên nền 
bướu hỗn hợp. 
FNA được chấp nhận rộng rãi trên thế giới như 
là một xét nghiệm chẩn đoán đầu tay trong xử trí các 
tổn thương ở TNB. Độ nhạy cảm của FNA TNB là 
86-100%, độ đặc hiệu 90-100%; độ nhạy cảm và độ 
đặc hiệu của FNA trong phân biệt tổn thương bướu 
và không bướu là 79-100% và 71-100%; độ chính 
xác trong chẩn đoán phân biệt bướu lành và ác là 
81%. Sự khác biệt trong độ chính xác của chẩn đoán 
các tổn thương TNB giữa các nghiên cứu do nhiều 
yếu tố: kinh nghiệm thực hiện kỹ thuật FNA, chất 
lượng tiêu bản TBH, kinh nghiệm bác sĩ chẩn đoán 
TBH, tính chất không đồng nhất của tổn thương, tính 
chồng lấp của các đặc điểm hình thái, sự hiện diện 
của thành phần tạo bọc, nhiều bướu ác grad thấp có 
đặc điểm ác tính không rõ rệt Độ chính xác của 
FNA để phân biệt các loại bướu thay đổi rất lớn, từ 
48-94%. Chúng tôi đã thực hiện xét nghiệm TBH 
TNB trong một thời gian khá dài, nhưng độ chính 
xác chưa cao và đặc biệt khá thấp trong nhóm bướu 
ác TNB. Chúng tôi muốn tìm ra nguyên nhân dẫn 
đến độ tương hợp chẩn đoán bướu ác tính TNB quá 
thấp. Bên cạnh các yếu tố khách quan, các nguyên 
nhân chủ quan do người đọc TBH là những yếu tố 
có thể sửa chữa để nâng cao chất lượng chẩn đoán. 
Mặt khác, do sự đa dạng về loại mô học, việc báo 
cáo kết quả chẩn đoán TBH các tổn thương TNB 
gặp nhiều khó khĕn, nhiều khi bác sĩ TBH đưa ra 
một kết quả không giúp ích được cho bác sĩ lâm 
sàng trong lựa chọn xử trí. Hệ thống báo cáo kết quả 
FNA TNB Milan ra đời, giúp phân loại các tổn 
thương TNB theo các tầng nguy cơ ác tính. Sử dụng 
hệ thống này có thể làm thay đổi thái độ xử trí của 
bác sĩ lâm sàng đối với một trường hợp tổn thương 
cụ thể nào đó dựa trên sự xác định rõ hơn về nguy 
cơ ác tính của tổn thương. Do đó, chúng tôi đã áp 
dụng hệ thống Milan trong khảo sát này để phân loại 
lại các kết quả chẩn đoán sau khi đã xem lại tiêu bản 
TBH, nhằm đánh giá sự thay đổi về mức độ nguy cơ 
của các tổn thương trong nhóm khảo sát và nhận ra 
các yếu tố khách quan và chủ quan đã làm bất 
tương hợp chẩn đoán TBH-GPB. 
Chúng tôi chỉ có 28,6% carcinôm TNB được 
chẩn đoán tương hợp TBH-GPB. Tỉ lệ tương hợp 
thay đổi tùy theo loại mô học, cao nhất là nhóm 
carcinôm nhầy bì (42,4%), kế tiếp là carcinôm bọc 
dạng tuyến (35,7%), carcinôm tế bào túi 
tuyến (8,3%), các loại mô học ít gặp không được 
chẩn đoán. 
Đặc điểm TBH chính chẩn đoán carcinôm nhầy 
bì bao gồm các tế bào nhầy, tế bào trung gian, tế 
bào dạng gai, có thể hiện diện với tỉ lệ khác nhau và 
mức độ KĐH nhân khác nhau tùy grad mô học, trên 
nền chất nhầy ngoại bào. Tuy nhiên, các đặc điểm 
trên không phải lúc nào cũng hiện diện đầy đủ. 
Carcinôm nhầy bì grad thấp thường hóa bọc với 
nhiều chất nhầy, thường là nguyên nhân gây âm tính 
giả do phết chọc hút chỉ có chất nhầy và rất ít tế bào 
bướu. Bọc ứ đọng là chẩn đoán âm tính giả thường 
gặp. Quan sát kỹ có thể tìm thấy một ít tế bào trung 
gian hoặc tế bào dạng gai, loại trừ chẩn đoán bọc ứ 
đọng và nên đưa vào nhóm III. Tế bào nhầy rất dễ bị 
nhầm lẫn với các bọt bào. Trong tình huống chỉ thấy 
chất dịch, cần phân biệt dịch nước hay chất nhầy. 
Phết có chất nhầy không thể loại trừ khả nĕng 
carcinôm nhầy bì grad thấp, nên được đưa vào 
nhóm III thay vì nhóm I (không chẩn đoán). 
Carcinôm nhầy bì grad thấp có khi bị bội nhiễm và 
đưa đến chẩn đoán lầm lẫn với tổn thương viêm cấp 
tính. Carcinôm nhầy bì còn có thể bị nhầm lẫn với 
các bướu lành khác như Warthin và bướu hỗn hợp. 
Carcinôm nhầy bì với các tế bào biến thể phồng bào 
trên nền dịch giống hình ảnh bướu Warthin. Phồng 
bào KĐH hoặc các tế bào không phải phồng bào 
cùng hiện diện trên phết có thể giúp phân biệt 
carcinôm nhầy bì với bướu Warthin. Tế bào trung 
gian và tế bào mô đệm trong carcinôm nhầy bì có 
thể bị nhầm lẫn với tế bào biểu mô lành tính và tế 
bào cơ biểu mô của bướu hỗn hợp; chất nhầy đặc 
cũng có thể bị nhầm với mô đệm niêm; tế bào nhầy 
bị nhầm lẫn là bọt bào. Không ít trường hợp 
carcinôm nhầy bì đã bị chẩn đoán nhầm là bướu hỗn 
hợp. Khi một phết được hướng tới chẩn đoán bướu 
hỗn hợp có các tế bào không điển hình và không có 
đầy đủ các tiêu chuẩn của một bướu hỗn hợp, 
không nên chọn chẩn đoán vào nhóm IVA, mà nên 
đưa vào nhóm IVB. Nhóm IVA theo hệ thống Milan 
bao gồm những bướu được chẩn đoán lành tính 
được xác định loại mô học. Nhóm IVB là chẩn đoán 
nghĩ đến bướu nhưng đặc điểm tế bào không đủ 
phân biệt lành ác do sự chồng lấp các đặc điểm tế 
GIẢI PHẪU BỆNH 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
242 
bào học của nhiều loại bướu (có cùng đặc điểm tế 
bào dạng đáy hoặc tế bào dạng phồng bào, hoặc tế 
bào sáng), do tính chất ác tính của các carcinôm 
grad thấp không rõ ràng (nhiều loại carcinôm tuyến 
nước bọt là grad thấp, KĐH tế bào không rõ; hơn 
nữa, tính chất ác tính có khi chỉ được xác định bằng 
xâm nhập, là đặc điểm không nhận diện được trên 
phết TBH. Ví dụ: carcinôm tuyến tế bào đáy). 
Carcinôm nhầy bì grad cao với tế bào không điển 
hình có thể cho chẩn đoán ít khó khĕn hơn; nhưng 
trường hợp không tìm thấy tế bào tiết nhầy (thường 
chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong dân số tế bào bướu) có thể 
không chẩn đoán được một carcinôm nhầy bì mà chỉ 
có thể là một bướu ác tính grad cao, do đó được 
đưa vào nhóm V. 
Tiêu chuẩn chẩn đoán carcinôm bọc dạng tuyến 
bao gồm tế bào dạng đáy, ít bào tương, nhân đậm 
màu hình bầu dục hoặc có góc cạnh; mô đệm 
hyaline dạng khối cầu, không có tế bào, bờ rõ, 
nhuộm màu tím hồng thấy rõ bằng phương pháp 
Romanowsky, không rõ với phương pháp nhuộm 
papanicolaou, đôi khi không thấy trong carcinôm bọc 
dạng tuyến dạng đặc. Các trường hợp chẩn đoán 
đúng của chúng tôi đều có đầy đủ các đặc điểm tế 
bào học chính của carcinôm bọc dạng tuyến. Phết 
có tế bào dạng đáy với ít hoặc không có mô đệm chỉ 
có thể được xếp vào nhóm IVB. Do nhuộm 
papanicolaou có thể không cho thấy rõ chất nền, các 
tác giả khuyến cáo đối với chẩn đoán các bướu 
tuyến nước bọt nên nhuộm bằng cả hai phương 
pháp Romanowsky và papanicolaou. Carcinôm bọc 
dạng tuyến có thể bị chẩn đoán nhầm với bướu hỗn 
hợp. Thể cầu không tế bào đặc trưng của carcinôm 
bọc dạng tuyến có thể gặp trong những loại bướu 
khác như bướu hỗn hợp, bướu tuyến tế bào đáy, 
Tuy nhiên chúng thường nhỏ hơn và không nhiều. 
Bướu hỗn hợp có một số đặc điểm tế bào học giống 
với carcinôm bọc dạng tuyến, với tế bào giống đáy, 
chất nền bắt màu giống nhau. Tuy nhiên, chất nền 
trong bướu hỗn hợp có dạng sợi, với tế bào cơ biểu 
mô có thể vùi trong chất nền; chất nền của carcinôm 
bọc dạng tuyến giới hạn rõ, không có tế bào, tế bào 
biểu mô bao quanh cầu chất nền. Bướu tuyến tế bào 
đáy cũng có tế bào dạng đáy và chất nền; chất nền 
bao quanh đám tế bào bướu. Mặc dù có nhiều đặc 
điểm giống bướu hỗn hợp, nhưng carcinôm bọc 
dạng tuyến sẽ thiếu các đặc điểm khác của bướu 
hỗn hợp, ví dụ tế bào cơ biểu mô hình bầu dục hay 
dạng tương bào – tế bào hyalin). Do đó, những 
trường hợp không có đầy đủ các đặc điểm của bướu 
hỗn hợp, có ít mô đệm hình cầu, nên được đưa vào 
nhóm IVB thay vì IVA. Một trường hợp có một số 
đặc điểm của bướu hỗn hợp với nhiều cầu mô đệm 
đặc trưng nên được nghi ngờ carcinôm bọc dạng 
tuyến (nhóm V) hơn là xếp vào nhóm IVA hoặc IVB. 
Tiêu chuẩn tế bào học chẩn đoán carcinôm tế 
bào túi tuyến bao gồm phết giàu tế bào với các tế 
bào đa diện, bào tương nhiều có không bào hoặc 
dạng hạt, mỏng manh, màu ái kiềm; tế bào xếp 
thành đám, thành túi tuyến, thành tuyến lỏng lẻo; 
mạng lưới mao mạch có các tế bào bướu đính lên; 
nền có nhiều tế bào nhân trần và các limphô bào. 
Chẩn đoán carcinôm tế bào túi tuyến khó khĕn, 
thường bị nhầm lẫn với nhiều tổn thương bướu và 
không bướu. Trên phết tế bào của biến thể bọc nhú 
của carcinôm tế bào túi tuyến có thể có nhiều dịch, 
tế bào tuyến giống mô bào do đó bị chẩn đoán nhầm 
và đưa vào nhóm I (không chẩn đoán vì không nhận 
ra tế bào bướu trên nền dịch). Tế bào nhân trần 
nhiều khiến chẩn đoán nhầm lẫn với viêm. Tế bào túi 
tuyến có thể có nhiều bào tương dạng hạt, hoặc có 
khi giống phồng bào trên nền nhiều tế bào nhân trần 
gây chẩn đoán nhầm với bướu Warthin hoặc bướu 
phồng bào. Tế bào túi tuyến dạng phồng bào lẫn với 
tế bào túi tuyến có nhiều không bào cho chẩn đoán 
nhầm với carcinôm nhầy bì. 
Các carcinôm ít gặp của tuyến nước bọt luôn 
gây khó khĕn cho bác sĩ tế bào học. Hình ảnh tế bào 
học không quen thuộc, hoặc hình ảnh chồng lấp với 
các bướu thường gặp khiến cho việc chẩn đoán 
chính xác các carcinôm hiếm gặp của chúng tôi là 
không thể. Carcinôm tuyến dạng NOS ít gặp, hình 
ảnh tế bào học là tế bào tuyến dị dạng, ác tính 
không đặc hiệu; chúng tôi chỉ có thể chẩn đoán nghi 
ngờ ác tính hoặc ác tính nhưng không thể định loại. 
Tương tự với carcinôm ống tuyến và carcinôm tuyến 
bọc. Carcinôm trên nền bướu hỗn hợp chỉ được 
chẩn đoán là bướu hỗn hợp. Chẩn đoán carcinôm 
tuyến tế bào đáy là không thể vì tính chất dị dạng 
của tế bào không rõ rệt và tính xâm lấn chỉ thấy trên 
mô học. Carcinôm lymphô biểu mô, carcinôm tế bào 
cơ biểu mô hiếm gặp, người đọc có thể không có 
kinh nghiệm để chẩn đoán xác định. 
Các nghiên cứu cho biết Hệ thống Milan báo 
cáo kết quả tế bào học tuyến nước bọt (gọi tắt là hệ 
thống Milan) là một công cụ rất có giá trị. Sự đồng 
thuận gần như là hoàn hảo giữa hai bác sĩ tế bào 
học áp dụng hệ thống Milan trong chẩn đoán TBH 
tuyến nước bọt. Đối với các tổn thương tuyến nước 
bọt, FNA đã được chứng minh là rất có ý nghĩa trong 
phân biệt tổn thương của tuyến nước bọt và không 
phải tuyến nước bọt, giữa bướu và không bướu (độ 
nhạy cảm 96%, độ đặc hiệu 98%). FNA phân biệt 
bướu lành và bướu ác có độ nhạy cảm 79% và độ 
đặc hiệu 96%. Phân loại mô học bướu tuyến nước 
bọt có độ chính xác thay đổi rất nhiều theo các 
nghiên cứu từ 48-94%. Nguyên nhân đã được nhắc 
đến nhiều lần trong bài viết. Việc chẩn đoán chính 
xác một số thực thể mô học nhiều khi là không thể. 
Do đó, lựa chọn một cách thức báo cáo kết quả sao 
GIẢI PHẪU BỆNH 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
243 
cho phản ánh tốt nhất được bản chất của tổn 
thương và tạo được sự thông hiểu tốt giữa bác sĩ 
lâm sàng và tế bào học là một vấn đề được các 
chuyên gia quan tâm. Trước Hệ thống Milan, các kết 
quả TBH tuyến nước bọt có thể được báo cáo bằng 
nhiều cách: mô tả, sử dụng thuật ngữ giải phẫu 
bệnh khiến cho sự thông hiểu giữa bác sĩ lâm 
sàng và tế bào học khó khĕn, giữa các viện nghiên 
cứu cũng khó khĕn, cản trở cho phát triển nghiên 
cứu. Hệ thống Milan cải tiến mối thông hiểu giữa lâm 
sàng – tế bào học, giúp xử trí tốt hơn cho bệnh 
nhân, dễ dàng đối chiếu tế bào học – giải phẫu 
bệnh, thúc đẩy sự phát triển các nghiên cứu. Trong 
khảo sát của chúng tôi, áp dụng hệ thống Milan phân 
loại lại các chẩn đoán, cung cấp được thông tin rõ 
ràng về nguy cơ ác tính của các trường hợp tổn 
thương, một số trường hợp góp phần thay đổi thái 
độ xử trí. Qua phân nhóm lại, chúng tôi tìm thấy 
nguyên nhân chẩn đoán không tương hợp có thể do 
bản thân phết không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán 
(Nhóm I), có thể do quá ít tế bào không điển hình 
khiến đã bị bỏ qua trong lần chẩn đoán trước 
(Nhóm III), do sự chồng lấp về đặc điểm tế bào học 
và phết không mang đầy đủ các tiêu chuẩn chẩn 
đoán khiến không xác định được loại mô học (Nhóm 
IVA và IVB), do thiếu kinh nghiệm trong chẩn đoán 
không nhìn thấy đầy đủ đặc điểm hướng chẩn đoán 
hoặc vì bướu quá ít gặp nên không có kinh nghiệm 
(Nhóm IVB và Nhóm V). Áp dụng hệ thống Milan 
giúp tìm được một chỗ đứng cho những trường hợp 
khó khĕn trong chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt vì 
các nguyên nhân nói trên, cung cấp thông tin hữu 
ích hơn cho bác sĩ lâm sàng. 
KẾT LUẬN 
Khảo sát cho thấy tỉ lệ tương hợp chẩn đoán 
TBH – GPB các carcinôm tuyến nước bọt còn rất 
thấp. Nguyên nhân khách quan do mẫu TBH thiếu 
chất liệu để chẩn đoán, do các bướu có đặc điểm 
TBH chồng lấp; nguyên nhân chủ quan là do người 
đọc thiếu kinh nghiệm, đặc biệt đối với những bướu 
ác tính ít gặp và hiếm gặp. Sử dụng hệ thống báo 
cáo kết quả Milan phân tầng nguy cơ ác tính, giúp 
bác sĩ lâm sàng định hướng xử trí, rất hữu ích trong 
những trường hợp tế bào học không thể có được 
chẩn đoán hướng tới loại mô học. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Faquin W.C., Rossi E.D. (2018). “The Milan 
System for reporting salivary gland 
cytopathology”. Springer. 
2. Faquin W.C., Powers C.N. (2008). “Salivary 
gland cytopathology”. Springer. 
3. Hughes J.H., Volk E.E., Wilbur D.C., (2005). 
“Pitfalls in Salivary Gland Fine-Needle Aspiration 
Cytology Lessons From the College of American 
Pathologists Interlaboratory Comparison 
Program in Nongynecologic CytologyArch Pathol 
Lab Med; 129:26–31. 
4. Iacob A., Sin A., Mezei T., Mocan S., Ormenisan 
A., Tilinca M. (2015). “Efficacy of Fine Needle 
Aspiration Cytology in Diagnosis of Salivary 
Gland Tumors”. Acta Medica Marisiensis; 
61(4):277-281. 
5. Krane J.F., Faquin W.C. (2009). “Salivary gland”. 
In Cibas E.S., Ducatman B.S. (Editors) 
“Cytology. Diagnostic principles and clinical 
correlates”, 3rd esition, Saunder Elsevier, p.285-
318. 
6. Liu H., Ljungren C., Lin F., Zarka M.A., Chen L. 
(2018). “Analysis of Histologic Follow-up and 
Risk of Malignancy for Salivary Gland Neoplasm 
of Uncertain Malignant Potential Proposed by the 
Milan System for Reporting Salivary Gland 
Cytopathology”. Cancer Cytopathology. 
7. Mallon D.H., Kostalas M., MacPherson F.J., 
Parmar A., Drysdale A., Chisholm E. (2013). 
“The diagnostic value of fine needle aspiration in 
parotid lumps”. Ann R Coll Surg Engl; 95: 
258–262. 
8. Tani E.M., Skoog L. (2015). “Salivary glands and 
rare head and neck lesions”. In Bibbo M, Wilbur 
D (Editors) “Comprehensive cytopathology”, 4th 
edition, Saunder Elsevier, p. 474-501. 
9. Vasudevan G., Bishnu A., Singh B.M.K., 
SinghV.K. (2017). “Mucoepidermoid Carcinoma 
of Salivary Gland: Limitations and Pitfalls on 
FNA”. Journal of Clinical and Diagnostic 
Research. Vol-11(5). 
10. Viswanathan K., Sung S., Scognamiglio T., Yang 
G.C.H., Siddiqui M.T., Rao R.A. (2018). “The 
Role of the Milan System for Reporting Salivary 
Gland Cytopathology: A 5-Year Institutional 
Experience”. Cancer Cytopathology. 
11. Wade T.V., LiVolsi V.A., Montone K.T., Baloch 
Z.W. (2011). “A cytohistologic correlation of 
mucoepidermoid carcinoma: Emphasizing the 
rare oncocytic variant”. Pathology Research 
International, volume 2011. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_tuong_hop_chan_doan_te_bao_hoc_giai_phau_benh_cac_b.pdf