Khảo sát tình trạng viêm tĩnh mạch ngoại biên do hóa trị dẫn đầu với cisplatin và fluorouracil ở bệnh nhân ung thư đầu cổ
Mục tiêu: Báo cáo tỉ lệ và mức độ viêm tĩnh mạch ngoại biên ở bệnh nhân ung thư đầu cổ có hóa trị dẫn
đầu với phác đồ Cisplatin và Fluorouracil.
Phương pháp: Bệnh nhân nhận 1- 3 chu kì hóa trị với liều Cisplatin 100mg/m2 da và 5FU 1000mg/m2 da
mỗi ngày. Cisplatin truyền qua Catheter tĩnh mạch, 5FU bơm áp lực liên tục 96 giờ. Ghi nhận dấu hiện viêm
tĩnh mạch và phân độ theo thang điểm VIP
Kết quả: Từ tháng 7- 10/2018, 15 bệnh nhân được theo dõi. Tỉ lệ viêm tĩnh mạch ngoại biên do hóa trị là
87%. Có 53% biểu hiện viêm tại chu kì 1, 78% biểu hiện viêm tại chu kì 2, 100% tại chu kì 3. Mức độ viêm tăng
lên theo số chu kì nhận được. Hầu hết ghi nhận mức độ viêm nhẹ (độ 1, 2). Viêm độ 3 chiếm 13%, và chỉ gặp
ở bệnh nhân nhận 3 chu kì. Không ghi nhận trường hợp nào viêm độ 4, 5.
Kết luận: Viêm tĩnh mạch ngoại biên do Cisplatin và 5FU là biến chứng thường gặp. Tỉ lệ và biến chứng
tăng lên theo số chu kì hóa trị. Chăm sóc Catheter tốt và sử dụng Bơm áp lực liên tục cho 5FU có thể giúp
giảm triệu chứng và mức độ viêm tĩnh mạch ngoại biên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tình trạng viêm tĩnh mạch ngoại biên do hóa trị dẫn đầu với cisplatin và fluorouracil ở bệnh nhân ung thư đầu cổ
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 461 KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG VIÊM TĨNH MẠCH NGOẠI BIÊN DO HÓA TRỊ DẪN ĐẦU VỚI CISPLATIN VÀ FLUOROURACIL Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐẦU CỔ TRẦN NỮ HOÀNG YẾN1, LÊ MINH ĐỨC2, LÊ KHƯU DUY ANH1, ĐẶNG THANH BÌNH1, LÊ HUỲNH TẤN CHUNG2, NGUYỄN KỶ CƯƠNG1, LÂM ĐỨC HOÀNG,3 TRẦN THỊ NGỌC THUẬN4 TÓM TẮT Mục tiêu: Báo cáo tỉ lệ và mức độ viêm tĩnh mạch ngoại biên ở bệnh nhân ung thư đầu cổ có hóa trị dẫn đầu với phác đồ Cisplatin và Fluorouracil. Phương pháp: Bệnh nhân nhận 1- 3 chu kì hóa trị với liều Cisplatin 100mg/m2 da và 5FU 1000mg/m2 da mỗi ngày. Cisplatin truyền qua Catheter tĩnh mạch, 5FU bơm áp lực liên tục 96 giờ. Ghi nhận dấu hiện viêm tĩnh mạch và phân độ theo thang điểm VIP Kết quả: Từ tháng 7- 10/2018, 15 bệnh nhân được theo dõi. Tỉ lệ viêm tĩnh mạch ngoại biên do hóa trị là 87%. Có 53% biểu hiện viêm tại chu kì 1, 78% biểu hiện viêm tại chu kì 2, 100% tại chu kì 3. Mức độ viêm tĕng lên theo số chu kì nhận được. Hầu hết ghi nhận mức độ viêm nhẹ (độ 1, 2). Viêm độ 3 chiếm 13%, và chỉ gặp ở bệnh nhân nhận 3 chu kì. Không ghi nhận trường hợp nào viêm độ 4, 5. Kết luận: Viêm tĩnh mạch ngoại biên do Cisplatin và 5FU là biến chứng thường gặp. Tỉ lệ và biến chứng tĕng lên theo số chu kì hóa trị. Chĕm sóc Catheter tốt và sử dụng Bơm áp lực liên tục cho 5FU có thể giúp giảm triệu chứng và mức độ viêm tĩnh mạch ngoại biên. ABSTRACT Aim: To Report the incidence and the intensity of peripheral phlebitis due to induction chemotherapy with Cisplatin and Fluorouracil in head and neck cancer. Method: Patients received 1 to 3 cycles of chemotherapy, Cisplatin 100mg/m2 day 1, 5FU 1000mg/m2 day 1 to day 4 with continuous elastomeric pump. Symptoms of peripheral phlebitis were recorded and the intensity was followed with VIP score. Result: From Jul to Oct, 2018, 15 patients were followed up. Phlebitis incidence was 87%. Pts receiving 1, 2 and 3 cycles were 53%, 78% and 100%. Intensity of phlebitis was increased by increasing the number of chemotherapy cycle. Most of the pts had mild phlebitis while 13% (2pts rceived 3 cycles) had grade 3. No pts had grade 4 or 5. Conclusion: Periperal phlebitis resulted by induction chemothery with Cisplatin and 5FU was a common complication. Incidence and intensity were increased by elevating number of chemotherapy cycles. Elastomeric pump and good care of peripheral catheter might help reduce symptoms and severity of phlebis. 1 BS. Khoa Xạ 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 2 ĐD. Khoa Xạ 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 3 BSCKII. Trưởng Khoa Xạ 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 4 CNĐD. Khoa Xạ 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM TỔNG QUAN Viêm tĩnh mạch ngoại vi là một biến chứng thường gặp ở bệnh nhân hóa trị. Các nghiên cứu trước đây ghi nhận tình trạng viêm tĩnh mạch ngoại biên từ 20-80% các bệnh nhân có hóa trị nói chung[1]. Viêm tĩnh mạch ngoại biên có thể do nhiều nguyên nhân: cơ học, hóa chất, nhiễm trùng. Đây là tình trạng nội mô mạch máu bị tổn thương do tiếp xúc với các tác nhân gây độc tế bào liều cao, kéo dài, có độ pH và độ thẩm thấu cao, thời gian lưu kim kéo dài[3]. Tĩnh mạch bị viêm do hóa trị có biểu hiện đau tại chỗ, đau dọc theo đường đi tĩnh mạch, đỏ da, sưng nề vùng tiêm, tĩnh mạch xơ cứng sờ được. ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 462 Nếu viêm kéo dài có thể dẫn đến viêm huyết khối tĩnh mạch tiến triển. Do mức độ thường gặp trên lâm sàng, bệnh nhân được đặt catheter ngoại vị cần được theo dõi và chĕm sóc đúng cách. Hóa dẫn đầu sau đó là Hóa Xạ đồng thời hoặc Xạ trị đang là lựa chọn cho điều trị Ung thư đầu cổ giai đoạn tiến xa tại chổ tại vùng. NCCN Version 2.2018 đưa ra các phác đồ hóa dẫn đầu đối với Carcinôm tế bào gai vùng đầu cổ, và hầu như không thay đổi so với các phiên bản trước đây. Hóa dẫn đầu cho ung thư Vòm hầu là Docetaxel/Cisplatin/5FU, Docetaxel/Cisplatin, Cisplatin/5FU, Cisplatin/Epirubicin/Paclitaxel sau đó hóa xạ đồng thời với Cisplatin hoặc Carboplatin mỗi tuần. Đối với các ung thư khác, các phác đồ hóa dẫn đầu bao gồm Docetaxel/Cisplatin/5FU, Paclitaxel/Cisplatin/5FU sau đó Hóa xạ đồng thời với Carboplatin, Cisplatin hoặc Cetuximab mỗi tuần. Tỉ lệ viêm tĩnh mạch ngoại biên ở bệnh nhân sử dụng phác đồ PF hóa dẫn đầu ghi nhận từ 45-70%[1]. Trong đó một số nghiên cứu cho thấy Fluorouracil có khả nĕng gây viêm tĩnh mạch đáng kể[2]. Tình trạng viêm tĩnh mạch ngoại biên là do liều lượng lớn và truyền kéo dài. Hiện nay, có thể sử dụng Bơm hóa chất liên tục nhằm đưa một hàm lượng rất và liên tục trong 96h nhỏ (0.5-250ml/giờ - tùy cấu tạo của Bơm). Viêm tĩnh mạch có nhiều thang điểm được đề nghị sử dụng. Trong đó thang điểm VIP cho phép đánh giá được mức độ viêm một cách cụ thể và rõ ràng nhất. Thang điểm này được thiết kế dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng do điều dưỡng ghi nhận. Các triệu chứng có thể xuất hiện trong lúc hóa trị, hoặc sau khi ngừng hóa trị. Thang điểm VIP đang được sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới. Tại khoa Xạ 3, mặc dù đã thực hiện hóa dẫn đầu cho bệnh nhân ung thư đầu cổ giai đoạn tiến xạ tại chỗ tại vùng từ lâu và các triệu chứng về viêm tĩnh mạch ngoại vi đã được ghi nhận, tuy nhiên chưa có một thống kê số liệu nào. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tỉ lệ viêm tĩnh mạch ngoại biên do hóa dẫn đầu Cisplatin và 5FU tại khoa. Mục tiêu nghiên cứu bao gồm: Tỉ lệ viêm tĩnh mạch ngoại vi ở bệnh nhân ung thư đầu cổ có hóa dẫn đầu với phác đồ PF. Tỉ lệ viêm tĩnh mạch theo số chu kì nhận được. Mức độ viêm tĩnh mạch. PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Mô tả cắt ngang Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân ung thư đầu cổ có chỉ định Hóa dẫn đầu với phác đồ PF tại khoa Xạ 3, chức nĕng gan thận tốt, dự trữ tủy đầy đủ, bệnh lý nội khoa kiểm soát ổn định, không có các yếu tố ảnh hưởng hóa trị Điều kiện loại: Bệnh nhân có tiền sử hóa trị trước đây, có bệnh lý về hệ mạch máu ngoại biên. Phương pháp nghiên cứu Tất cả bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn chọn bệnh được chuẩn bị để bắt đầu hóa trị dẫn đầu Mỗi chu kì hóa trị, Ghi nhận: Diện tích da, Liều lượng hóa trị, Biểu hiện trên da , Vị trí Đặt Catheter, Số lượng catheter đã đặt, Số ngày đặt catheter, Loại hóa chất sử dụng, Triệu chứng viêm tĩnh mạch, Thời điểm xuất hiện, Xử trí, Các ghi nhận khác (Tổn thương Vein cơ học, pump không hiệu quả, lý do ngưng hóa trị), Chụp ảnh triệu chứng viêm theo diễn tiến, phân độ viêm tĩnh mạch ngoại biên theo thang điểm VIP Thời điểm ghi nhận triệu chứng viêm tĩnh mạch Trước khi đặt Catheter. Mỗi ngày trong tuần đặt Catheter ngày thứ 8. Các triệu chứng sau đó do bệnh nhân ghi nhận trong 2 tuần tiếp theo. Yêu cầu đối với Catheter: Xa vị trí khớp, Hạn chế đặt ở vùng mu tay, Bĕng trong suốt để quan sát triệu chứng tại chỗ. Hình 2. Thang điểm VIP đánh giá và xử trí viêm tĩnh mạch ngoại biên ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 463 Hình 3. Các vị trị đặt catheter thường sử dụng KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm dân số Trong thời gian từ tháng 9-10/2018, chúng tôi thu thập được 15 ca có chỉ định hóa dẫn đầu với phác đồ Cisplatin và 5-Fluorouracil. Tổng số catheter đã được theo dõi là 59. Trong đó 80% là nam giới,và ung thư vòm hầu chiếm 86.6%. Bệnh nhân nhận được 1-3 chu kì hóa trị tùy thuộc quyết định của bác sĩ điều trị dựa trên mức độ tuân thủ điều trị, độc tính về huyết học và đáp ứng với hóa trị dẫn đầu trước xạ trị. 4 vùng đặt catheter diễn tiến tĕng sắc tố tĩnh mạch nông không triệu chứng, ghi nhận tại thời điểm 21 ngày sau hóa trị (7%). Viêm tĩnh mạch cấp do hóa trị có triệu chứng xuất hiện trong 7 ngày tính từ lúc đặt catheter. Bảng 1. Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu Đặc điểm N % n 15 Nam 12 80 Nữ 3 20 Tuổi 42.9 (16-65) Chẩn đoán K vòm hầu 13 86.6 K thanh quản 1 6.7 K lưỡi 1 6.7 Giai đoạn II 1 6.7 III 4 26.6 IV 10 66.7 Số bệnh nhân điều trị theo chu kỳ 1 Chu kỳ 5 33.3 2 chu kỳ 5 33.3 3 chu kỳ 5 33.3 Số chu kỳ hóa trị Chu kỳ 1 15 100.0 Chu kỳ 2 10 66.7 Chu kỳ 3 5 33.3 Liều trung bình mỗi chu kỳ (mg/m2) Cisplatin 111.7 5FU 1402.5 Vị trí đặt Catheter Tĩnh mạch đầu 47 80 Tĩnh mạch giữa cẳng tay 10 17 Tĩnh mạch mu tay 2 3 Tĩnh mạch nền 0 0 Thời gian lưu Catheter ≤ 72h 57 96 > 72h 2 4 Tỉ lệ viêm tĩnh mạch do hóa trị Viêm tĩnh mạch ngoại vi do hóa trị ghi nhận trong 87% số bệnh nhân nhận hóa dẫn đầu từ 1-3 chu kì. Biểu đồ mô tả về tỉ lệ này. ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 464 Biểu đồ 1. Tỉ lệ Viêm tĩnh mạch ngoại biên do hóa trị Tỉ lệ viêm tĩnh mạch theo chu kì hóa trị Viêm tĩnh mạch tĕng lên theo số chu kì hóa trị. Ghi nhận trong 15 chu kì 1 chỉ có 53% có biểu hiện viêm tĩnh mạch. Tỉ lệ này tĕng lên 78% trong khi bệnh nhân nhận 2 chu kì và 100% khi bệnh nhân nhận 3 chu kì. Biểu đồ 2. Tỉ lệ viêm tĩnh mạch ngoại biên theo số chu kì hóa trị Mức độ viêm tĩnh mạch Mức độ viêm tĩnh mạch thay đổi tùy theo số chu kì nhận được.Càng nhận được nhiều chu kì thì mức độ viêm càng tĕng lên. Hình A Hình B Hình C ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 465 Hình A: Viêm tĩnh mạch nông không triệu chứng, ghi nhận sau 3 tuần sau hóa trị chu kì 1 Hình B, C: Viêm tĩnh mạch độ 3, 96h từ lúc đặt catheter, chu kì 3 Biểu đồ 3. Mức độ viêm tĩnh mạch ngoại biên do hóa trị theo chu kì hóa trị. BÀN LUẬN Catheter ngoại biên là thủ thuật thường gặp nhất ở các bệnh nhân, đặc biệt những bệnh nhân có hóa trị, và viêm tĩnh mạch ngoại biên tại vùng đặt catheter đã được báo cáo từ 20 - 80%[1]. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận hiện tượng viêm xảy ra ở 87% các bệnh nhân có nhân hóa trị từ 1-3 chu kì. Tỉ lệ này không khác biệt so với các nghiên cứu trên thế giới (p>0.05). Chúng tôi ghi nhận hiện tượng viêm tĩnh mạch cấp tính theo quan sát xảy ra chủ yếu trong vòng 7 ngày tính từ ngày đầu tiên đặt catheter truyền hóa trị. Diễn tiến làm thay đổi sắc tố và xơ cứng tĩnh mạch nông khi hiện tượng viêm cấp tính qua đi. Sự hồi phục của tĩnh mạch nông xảy ra trong vòng 3 tuần đối với viêm độ 1, 2, và khó hồi phục hoàn toàn ở viêm độ 3. Trong nghiên cứu của chúng tôi có ghi nhận tình trạng tĕng sắc tố tĩnh mạch nông không triệu chứng gặp ở 4 catheter vào chu kì đầu tiên (Hình A). Đây là tình trạng viêm nhẹ thành mạch chưa gây ra triệu chứng lâm sàng nhưng làm thay đổi sắc tố tĩnh mạch về sau. Tỉ lệ viêm tĩnh mạch tĕng lên theo số chu kì hóa trị nhận được. Bệnh nhân càng nhận được nhiều chu kì thì tỉ lệ này tĕng lên và mức độ viêm cũng tĕng lên. Trong nghiên cứu này, mặc dù không phải tất cả các bệnh nhân đều nhận được số chu kì giống nhau, tuy nhiên biểu đồ 2 cho thấy hiện tượng viêm xảy ra có quan hệ tuyến tính với số chu kì nhận được. Mức độ viêm ghi nhận cũng thay đổi dựa vào số chu kì mà bệnh nhân nhận được. Mặc dù 87% bệnh nhân nhận hóa trị có diễn tiến viêm cấp tĩnh mạch, tuy nhiên hầu hết đều ở mức độ nhẹ và chưa yêu cầu phải can thiệp. Các triệu chứng chủ yếu được ghi nhận chủ yếu bao gồm đau tại chổ, đỏ nhẹ, sưng nề nhẹ (Độ 1-2) gặp ở hầu hết các bệnh nhân có hóa trị. Độ 3 (đau dọc theo đường đi tĩnh mạch, đỏ da, sưng nề vùng truyền hóa chất) gặp ở 2 bệnh nhân nữ, và cả 2 đều nhận được 3 chu kì hóa trị. Chúng tôi sử dụng Diclofenac gel bôi tại chỗ 2 lần mỗi ngày và ghi nhận giảm triệu chứng sưng nề, đau vùng hóa trị và giảm hiện tượng thay đổi sắc tố tĩnh mạch sau đó. Chúng tôi cần cơ mẫu lớn hơn để xác định xem liệu có mối liên quan giữa hiện tượng viêm tĩnh mạch ngoại biên với giới tính nữ. Chúng tôi không quan sát thấy hiện tượng viêm tĩnh mạch độ 4 (các triệu chứng độ 3 kèm viêm xơ tĩnh mạch sờ được) và độ 5 (có mủ, sốt do viêm tĩnh mạch ngoại biên). Theo các báo cáo y vĕn, việc phối hợp 2 hóa chất Cisplatin và 5FU thường gây viêm tĩnh mạch cho bệnh nhân[1]. Trong đó việc truyền 5FU liều cao kéo dài trong 4 ngày liên tiếp thường làm tĩnh mạch viêm và gây xơ hóa, mức độ 3 trở lên[2]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng bơm truyền áp lực tự động để đưa 5FU vào cơ thể liên tục trong 96h, nhằm mục đích đưa liều hóa trị tối thiểu nhất có thể qua tĩnh mạch ngoại biên. Hơn nữa catheter được chĕm sóc khá chu đáo, quan sát tích cực với bĕng keo trong mỗi ngày, giữ vệ sinh tốt, thời gian lưu catheter dưới 72h (96%) và điều trị ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 466 được thực hiện kịp thời khi cần thiết là các yếu tố giúp cải thiện mức độ viêm tĩnh mạch ngoại biên. Ưu điểm nghiên cứu là ghi nhận và phân độ được tình trạng viêm tĩnh mạch ngoại biên do hóa trị theo thang điểm VIP score, và là báo cáo đầu tiên được thực hiện tại khoa xạ trị đầu cổ của Bệnh viện Ung Bướu. Tuy nhiên với số lượng bệnh nhân được theo dõi kiêm tốn, nên cần số bệnh nhân lớn hơn để có thể đưa ra được các mối liên quan cụ thể. KẾT LUẬN Viêm tĩnh mạch ngoại biên do hóa trị dẫn đầu với Cisplatin và 5FU từ 1 - 3 chu kì gặp ở 87%. Mức độ viêm tĕng lên theo chu kì hóa trị, hầu hết độ nhẹ (độ 1 - 2) là chủ yếu. Sử dụng bơm áp lực liên tục đối với 5FU và chĕm sóc catheter tốt cho thấy hiệu quả cải thiện mức độ viêm tĩnh mạch ngoại biên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. J. Verweij và các cộng sự. (1989), "Induction chemotherapy with cisplatin and continuous infusion 5-fluorouracil in locally far-advanced head and neck cancer", Am J Clin Oncol. 12(5), tr. 420-4. 2. S. G. Biswal và R. D. Mehta (2018), "Cutaneous Adverse Reactions of Chemotherapy in Cancer Patients: A Clinicoepidemiological Study", Indian J Dermatol. 63(1), tr. 41-6. R. Higginson và A. Parry (2011), "Phlebitis: treatment, care and prevention", Nurs Times. 107(36), tr. 18-21.
File đính kèm:
khao_sat_tinh_trang_viem_tinh_mach_ngoai_bien_do_hoa_tri_dan.pdf

