Khảo sát tình trạng lo âu, stress trước phẫu thuật ở bệnh nhân mổ phiên tại khoa chấn thương chỉnh hình và y học thể thao Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

 I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Người bệnh khi biết mình phải đối mặt với một cuộc mổ thì hầu hết đều lo âu, stress ở các mức độ khác nhau, đặc biệt là phẫu thuật chấn thuơng chỉnh hình khi kết quả phẫu thuật ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động thường ngày của họ.1 Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra tác động tiêu cực của tình trạng lo âu, stress trước phẫu thuật tới kết quả điều trị. Một trong số đó là thay đổi đáp ứng của cơ thể đối với các thuốc gây mê, người bệnh cần nhiều thuốc gây mê hơn, tăng nhịp tim, tăng huyết áp, cần nhiều thuốc giảm đau, thuốc an thần, tăng tỷ lệ nôn buồn nôn sau mổ, thay đổi nhiệt độ cơ thể, kéo dài thời gian hồi phục sau mổ

 

pdf 7 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tình trạng lo âu, stress trước phẫu thuật ở bệnh nhân mổ phiên tại khoa chấn thương chỉnh hình và y học thể thao Bệnh viện Đại học Y Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tình trạng lo âu, stress trước phẫu thuật ở bệnh nhân mổ phiên tại khoa chấn thương chỉnh hình và y học thể thao Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Khảo sát tình trạng lo âu, stress trước phẫu thuật ở bệnh nhân mổ phiên tại khoa chấn thương chỉnh hình và y học thể thao Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
85TCNCYH 134 (10) - 2020
Tác giả liên hệ: Phạm Quang Minh, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 20/11/2020
Người bệnh khi biết mình phải đối mặt với 
một cuộc mổ thì hầu hết đều lo âu, stress ở 
các mức độ khác nhau, đặc biệt là phẫu thuật 
chấn thuơng chỉnh hình khi kết quả phẫu thuật 
ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động thường 
ngày của họ.1 Nhiều nghiên cứu trên thế giới 
đã chỉ ra tác động tiêu cực của tình trạng lo âu, 
stress trước phẫu thuật tới kết quả điều trị. Một 
trong số đó là thay đổi đáp ứng của cơ thể đối 
với các thuốc gây mê, người bệnh cần nhiều 
thuốc gây mê hơn, tăng nhịp tim, tăng huyết áp, 
cần nhiều thuốc giảm đau, thuốc an thần, tăng 
tỷ lệ nôn buồn nôn sau mổ, thay đổi nhiệt độ cơ 
thể, kéo dài thời gian hồi phục sau mổ.2
Ở Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu 
đánh giá tâm lý người bệnh ngoại khoa trước 
phẫu thuật.3 Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ 
sử dụng các bộ câu hỏi đơn giản nên chưa đưa 
ra được chính xác mức độ lo âu hay stress một 
cách khoa học. Tại Khoa Chấn thương chỉnh 
hình và Y học thể thao Bệnh viện Đại học Y Hà 
nội mỗi tháng phẫu thuật hàng trăm bệnh nhân 
nhưng chưa có nghiên cứu nào về vấn đề tâm 
lý người bệnh trước phẫu thuật. Với mục đích 
đánh giá mức độ lo âu theo thang điểm DASS 
21 (Depression Anxiety Stress Scale)4 và tìm 
hiểu một số các yếu tố ảnh hưởng đến mức 
độ lo âu, stress của người bệnh nhằm tạo cho 
người bệnh tâm lý tốt nhất trước phẫu thuật, 
chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài này với mục 
tiêu “Khảo sát tình trạng lo âu trước phẫu thuật 
ở bệnh nhân mổ phiên tại Khoa chấn thương 
chỉnh hình và Y học thể thao Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu được tiến hành tại tại Khoa 
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG LO ÂU, STRESS 
TRƯỚC PHẪU THUẬT Ở BỆNH NHÂN MỔ PHIÊN 
TẠI KHOA CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VÀ Y HỌC THỂ THAO 
BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Phạm Quang Minh1,2, , Vũ Hoàng Phương1,2, Nguyễn Thị Linh2
1 Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh Viện Đại học Y Hà Nội
 Nghiên cứu nhằm mục tiêu khảo sát tình trạng lo âu, stress và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng này 
của bệnh nhân trước phẫu thuật. 250 bệnh nhân trước phẫu thuật chấn thương chỉnh hình được đánh giá mức độ 
lo âu, stress dựa trên thang điểm DASS-21 tại khoa chấn thương chỉnh hình Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 
9/2019 – 5/2020. Tỷ lệ bệnh nhân bị lo âu thực sự là 22,8% và stress thực sự là 6,4%. Điểm lo âu, stress trung bình 
là 5,58 ± 5,47 và 4,48 ± 4,06. Tuổi, giới, mức sống khó khăn, có bệnh kèm theo và không có bảo hiểm y tế là yếu 
tố nguy cơ của lo âu và stress có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lo âu, stress trước phẫu 
thuật chấn thương chỉnh hình của bệnh nhân vẫn khá cao và có nhiều yếu tố liên quan của tình trạng này. Nhân 
viên y tế cần quan tâm, tuyên truyền về bảo hiểm y tế và giải thích rõ hơn về phương pháp vô cảm cho bệnh nhân.
Từ khóa: Lo âu, stress, phẫu thuật chấn thương
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
86 TCNCYH 134 (10) - 2020
Chấn thương chỉnh hình và y học thể thao, 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 9/2019 
– 5/2020. 
* Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân là: Bệnh 
nhân mổ theo kế hoạch chấn thương chỉnh 
hình, tuổi > 18, ASA I – II, tự nguyện tham gia 
vào nghiên cứu. 
* Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân lú lẫn, mất 
ý thức do bệnh lý, mắc các bệnh lý nhiễm trùng 
hoặc phải cắt cụt chi.
2. Phương pháp
* Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang
* Cỡ mẫu: Theo công thức ước tính một tỷ 
lệ trong quần thể:
Trong đó:
n: cỡ mẫu nghiên cứu. p: tỷ lệ lo âu nghiên 
cứu trước đó, p = 0,18 
α: sai số loại I, ước tính = 0,05 với độ tin cậy 
là 95%. Khi đó hệ số tin cậy Z1-α/2 = 1,96.
Δ: là độ chính xác mong muốn giữa mẫu và 
quần thể. Ước tính Δ = 0,05.
Tính được cỡ mẫu tối thiểu là 226. Chúng 
tôi thu thập được 250 bệnh nhân.
* Phương pháp tiến hành:
- Gặp người bệnh tại bệnh phòng khoa 
ngoại chấn thương chỉnh hình và y học thể thao 
sau khi đã được khám mê và nghe bác sỹ giải 
thích trước mổ
- Giải thích cho bệnh nhân về đề tài, nội 
dung nghiên cứu, cách thức tiến hành, lợi ích 
của nghiên cứu và động viên họ tham gia.
- Khi bệnh nhân đồng ý tham gia, tiến hành 
phỏng vấn theo bộ câu hỏi đã chuẩn bị trong 
phiếu điều tra.
n = Z1 - α 2⁄
2 ×
p(1 - p)
Δ
2
Thang điểm DASS 21 được sử dụng trong nghiên cứu
Mức độ Lo âu Stress
Bình thường 0 – 7 0 – 14
Nhẹ - vừa 8 – 14 15 – 25
Nặng – Rất nặng ≥ 15 ≥ 26
- Một số biến số khác về nhân trắc, bệnh lý, 
đặc điểm, vị trí phẫu thuật cũng được ghi lại.
3. Xử lý số liệu
Số liệu sau khi thu thập được phân tích, xử 
lí bằng phần mềm SPSS 23.0. Kết quả được 
trình bày dưới dạng trung bình, độ lệch chuẩn, 
tỷ lệ phần trăm. So sánh tỷ lệ một mẫu với một 
tỷ lệ lý thuyết hoặc các tỷ lệ giữa hai biến định 
tính bằng kiểm định Chi-square. So sánh giá trị 
trung bình của hai biến định lượng bằng kiểm 
định T-test. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
với p < 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự cho phép của ban lãnh 
đạo Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Các bệnh 
nhân được giải thích và tự nguyện tham gia 
nghiên cứu. Danh sách và toàn bộ thông tin về 
bệnh nhân được giữ bí mật. Nghiên cứu chỉ với 
mục đích nhằm nâng cao chất lượng điều trị 
cho người bệnh.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
87TCNCYH 134 (10) - 2020
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm điểm chung và tình trạng lo âu, trầm cảm của bệnh nhân
Bảng 1. Tình trạng lo âu và stress của bệnh nhân
Tổng điểm Số bệnh nhân (%)
Lo âu Stress Lo âu Stress
0 – 7 0 - 14 193 (77,2%) 234 (93,6%)
≥ 8 ≥ 15 58 (22,8%) 16 (6,4%)
Điểm DASS trung bình
(Min – Max)
5,85 ± 5,47
(0 - 24)
4,48 ± 4,06
(0 - 24)
Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 43,46 ± 15.63 (17 – 80) (năm). Nữ 42.8%, nam 57,2%. 
54% bệnh nhân mổ chi trên, 46% bệnh nhân mổ chi dưới. 15,6% số bệnh nhân có điều kiện kinh tế 
khó khăn 84,8% số bệnh nhân có bảo hiểm y tế. 58/250 bệnh nhân (22,8%) có lo âu ở các mức độ 
khác nhau. 16/255 bệnh nhân (6%) bị stress nhưng không có bệnh nhân stress nặng và rất nặng.
2. Một số yếu tố liên quan đến mức độ lo âu, stress
2.1. Một số yếu tố liên quan đến đến điểm lo âu, stress trung bình
Bảng 2. Một số yếu tố liên quan đến điểm lo âu, stress trung bình
Đặc điểm
Lo âu Stress
X ± SD p X ± SD p
Tuổi < 60 4,21 ± 4,12
0,006
5,48 ± 5,58
0,004
≥ 60 5,46 ± 3,61
Giới Nam 3,69 ± 4
 < 0,001
4,74 ± 4,87
 < 0,001
Nữ 5,56 ±3,9 7,37 ± 5,89
BH Y tế Có 4,44 ± 3,98
0,91
5,75 ± 5,18
0,95
Không 4,75 ± 4,5 6,48 ± 7,01
Điều kiện kinh tế Khó khăn 6 ± 5,06
0,02
7,64 ± 5,9
0,03
Bình thường 4,2 ± 3,7 5,53 ± 5,35
Bệnh phối hợp Có 6,34 ± 4,22
 < 0,001
8,46 ± 5,88
 < 0,001
Không 4,01 ± 3,89 5,18 ± 5,18
Phương pháp vô cảm Gây tê 4,59 ± 3,69
0,53
5,78 ± 4,53
0,55
Gây mê 4,45 ± 4,19 5,89 ± 5,78
Điểm lo âu hoặc stress trung bình của bệnh nhân trên 60, nữ giới, điều kiện kinh tế khó khăn hoặc 
có bệnh phối hợp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm còn lại. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
88 TCNCYH 134 (10) - 2020
2.2. Một số yếu tố liên quan đến với mức độ lo âu hoặc stress
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến với mức độ lo âu hoặc stress
Đặc điểm
Lo âu Stress
Không Có
P
OR
Không Có
P
OR
Tuổi < 60 159 35 0,001
3,07
182 12 0,91
0,92≥ 60 31 21 49 3
Giới Nam 121 22 0,001
2,71
137 6 0,1
2,37Nữ 71 35 96 10
Bảo hiểm y tế Có 163 49 0,82
0,91
202 10 0,013
3,9Không 29 8 31 6
Điều kiện kinh tế Bình thường 167 57 0,038
2,22
198 12 0,29
2Khó khăn 25 14 35 4
Bệnh phối hợp Không 163 33 0,001
4,23
185 11 0,3
1,79Có 28 24 47 5
Phương pháp vô cảm Gây tê 50 14 0,822
1,08
63 1 0,1
5,55Gây mê 142 43 170 15
Tỷ lệ bệnh nhân không có bảo hiểm y tế bị stress cao hơn nhóm có bảo hiểm y tế, khác biệt có 
ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ bệnh nhân trên 60 tuổi, nữ giới, kinh tế khó khăn, có bệnh phối 
hợp bị lo âu cao hơn nhóm bệnh nhân dưới 60 tuổi, nam giới, kinh tế đầy đủ hoặc không có bệnh 
phối hợp khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 
2.3. Mối liên quan giữa rối loạn lo âu và stress
Biểu đồ 1.Tương quan giữa lo âu và stress
Tỷ lệ bệnh nhân bị lo âu, stress có tương quan mạnh với nhau, hệ số tương quan Spearman là 
0,77 và p = 0,01. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
89TCNCYH 134 (10) - 2020
IV. BÀN LUẬN
Stress là đáp ứng của cá thể với những 
thay đổi trong môi trường, mang tính chất cấp 
tính, tỷ lệ bệnh nhân bị stress không cao trong 
nghiên cứu của chúng tôi có lẽ do bệnh nhân 
đã tìm hiểu về tình trạng bệnh và môi trường 
điều trị. Điểm trung bình về lo âu hay stress 
trước phẫu thuật trong nghiên cứu chúng tôi lần 
lượt là 5,85 ± 5,47 và 4,48 ± 4,06. Mặc dù theo 
ngưỡng đánh giá mức độ thì cả hai kết quả 
trên đều không nằm trong mức độ báo động 
tuy nhiên số lượng bệnh nhân có lo âu thực sự 
lên đến 22,8% và stress thực sự là 6,4% (Bảng 
1). Trong khi lo âu là một cảm xúc đặc trưng bởi 
cảm giác e ngại căng thẳng hoặc sợ hãi, tỷ lệ 
lo âu gặp khá cao bởi nhiều nguyên nhân liên 
quan đến các vấn đề không kiểm soát được 
như điều kiện gia đình, bệnh lý kèm theo... Kết 
quả này cũng gần tương tự như kết quả của tác 
giả Huỳnh Lê Phương và cộng sự 17,89% bệnh 
nhân đang lo âu thực sự 3. Khi đánh giá mối 
tương quan giữa điểm DASS với tỉ lệ tử vong 
hoặc biến chứng nặng thì kết quả cho thấy nếu 
điểm DASS-lo âu bằng 15 hoặc lớn hơn thì gặp 
các biến cố xuất hiện với tỉ lệ rất cao (76%).5 
Giới tính là một yếu tố có tác động đến tâm 
lý người bệnh, đặc biệt những người bệnh sắp 
phải trải qua một cuộc mổ ảnh hưởng đến sinh 
hoạt hàng ngày. Giới nữ từ lâu đã mang trong 
mình tâm lý dễ dao động nhất là khi phải đứng 
trước những tình huống khó khăn và điều này 
cũng không có sự khác biệt khi sắp phải trải 
qua một cuộc mổ ảnh hưởng đến đi lại của họ 
sau đó. Nghiên cứu của tác giả Karyne Kirley 
và cộng sự khi đánh giá mức độ lo âu của bệnh 
nhân trước mổ tim tại Brazil trên 106 bệnh nhân 
cho kết quả mức độ lo âu của các bệnh nhân 
nữ giới cao hơn nhiều so với nam giới với p = 
0,003 (22,13 so với 10,76).6 Tuy nhiên, trên thế 
giới cũng có một số nghiên cứu cho thấy không 
có sự khác biệt về mức độ lo âu trước mổ của 
hai giới. Tác giả Shuldham không ghi nhận có 
sự ảnh hưởng của biến số giới tính lên mức 
độ lo âu của bệnh nhân.7 Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi cũng cho thấy giới tính không 
ảnh hưởng đến mức độ Stress của bệnh nhân 
trước phẫu thuật. Tuổi trung bình trong nghiên 
cứu của chúng tôi là 43,46 năm, đây là nhóm 
tương đối trẻ, phù hợp với tuổi bệnh nhân phải 
phẫu thuật chấn thương chỉnh hình do tai nạn 
lao động hay tai nạn giao thông. Bệnh nhân 
trên 60 có nguy cơ bị lo âu cao gấp 3,07 lần 
so với bệnh nhân trẻ. Điều này không khó giải 
thích bởi khi tuổi cao bệnh nhân có nhiều thay 
đổi tâm sinh lý và không dễ dàng chấp nhận 
một can thiệp ngoại khoa. Vấn đề lo lắng lớn 
nhất đối với hầu hết các bệnh nhân khi vào viện 
đó là vấn đề tài chính. Những người có điều 
kiện sống khó khăn thường sợ phải đi khám 
bệnh do đó thường bệnh đã ở giai đoạn nặng 
dẫn đến chi phí càng cao, điều này lại càng 
khiến họ lo lắng hơn. Điểm lo âu ở nhóm bệnh 
nhân có điều kiện sống khó khăn là 6 ± 5,06 
cao hơn ở nhóm bệnh nhân có điều kiện sống 
đủ 4,2 ± 3,7, sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,05. Tỷ lệ lo âu thực sự ở nhóm 
khó khăn cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm còn lại và trong số những bệnh nhân lo 
âu thì nhóm khó khăn cao hơn 2,22 lần so với 
bệnh nhân có điều kiện sống tốt hơn. Tuy nhiên 
stress thực sự khác nhau không có ý nghĩa 
giữa 2 nhóm bệnh nhân có điều kiện sống khó 
khăn hay không bởi lẽ khó khăn là vấn đề đã 
trở thành nỗi ám ảnh thường trực của họ. Bệnh 
nhân có bệnh kèm theo có điểm DASS trung 
bình cao hơn những bệnh nhân không có bệnh 
và đây cũng là yếu nguy cơ của lo âu thực sự. 
Điều này cũng phù hợp với tình hình chung của 
nước ta cũng như trên thế giới, bởi lẽ những 
bệnh mạn tính nến không điều trị tốt sẽ dẫn 
tới nhiều biến chứng trong và sau mổ. Điều 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
90 TCNCYH 134 (10) - 2020
này đòi hỏi các bác sỹ khám mê và phẫu thuật 
viên cần kiểm soát tốt bệnh mạn tính, đồng 
thời giải thích rõ để bệnh nhân hiểu và hợp 
tác.8 Hơn nữa phẫu thuật chấn thương chỉnh 
hình thường là phẫu thuật không lớn và ít ảnh 
hưởng đến tình trạng toàn thân hơn các phẫu 
thuật như tiêu hoá hay lồng ngực. Bảo hiểm y 
tế hiện nay đóng góp rất nhiều trong an sinh xã 
hội và cũng giúp cho người bệnh giảm chi phí 
khá nhiều nhất là khi phải sử dụng các vật tư 
tiêu hao đắt tiền. Phương pháp gây mê thực ra 
an toàn hơn so với gây tê, bệnh nhân được gây 
mê sẽ đỡ sợ hơn nhất là đối với người có tâm 
lý không ổn định. Theo logic thì bệnh nhân sẽ 
nhận phương pháp gây mê sẽ an tâm và bớt 
lo lắng hơn, nhưng kết quả thì ngược lại. Qua 
đó chúng tôi muốn nhấn mạnh về việc tiếp xúc, 
trao đổi và giải thích với bệnh nhân các phương 
pháp vô cảm là rất quan trọng. Nếu bệnh nhân 
bị stress kéo dài mà không được kiểm soát sẽ 
dễ dàng dẫn đến lo âu thực sự hay trầm cảm. 
Tỷ lệ bệnh nhân bị stress trong nghiên cứu của 
chúng tôi không cao và có liên quan chặt chẽ 
với lo âu. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 2 
yếu tố có thể kiểm soát được là có hay không 
có bảo hiểm y tế và phương pháp vô cảm dự 
kiến, đây là các yếu là yếu tố liên quan của tình 
trạng stress. Vì vậy cần kiểm soát tốt những 
yếu tố này để tránh 6,4% bệnh nhân bị stress 
có thể trở thành lo âu.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ bệnh nhân lo âu hoặc stress trước 
phẫu thuật chấn thương chỉnh hình còn khá 
cao. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ 
lo âu hay stress như chúng tôi đã phân tích. 
Một số yếu tố không thể thay đổi được như giới 
tính, tuổi cao, mức sống khó khăn hay có bệnh 
mạn tính. Tuy nhiên còn nhiều yếu tố có thể 
thực hiện được để làm tăng kết quả thành công 
của phẫu thuật là giải thích cặn kẽ về phương 
pháp vô cảm dự kiến cho bệnh nhân cũng như 
việc mua bảo hiểm y tế.
Lời cảm ơn
Chúng tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến 
lãnh đạo Khoa CTCH và YHTT Bệnh viện Đại 
học Y Hà Nội, các nhân viên trong khoa và toàn 
thể bệnh nhân đã tạo điều kiện giúp chúng tôi 
hoàn thành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ebirim L, Tobin M. Factors Responsible 
For Pre-Operative Anxiety In Elective Surgical 
Patients At A University Teaching Hospital: A 
Pilot Study. :6.
2. Pokharel K, Bhattarai B, Tripathi M, và cộng 
sự. Nepalese patients’ anxiety and concerns 
before surgery. J Clin Anesth. 2011; 23 (5): 372-
378. doi:10.1016/j.jclinane.2010.12.011
3. Huỳnh Lê Phương. Khảo sát mức độ lo 
âu trước mổ bệnh nhân khoa ngoại thần kinh. Y 
học TP Hồ Chí Minh. 2013; 17 (2):84-89.
4. Sinclair SJ, Siefert CJ, Slavin-Mulford 
JM, và cộng sự. Psychometric evaluation and 
normative data for the depression, anxiety, and 
stress scales-21 (DASS-21) in a nonclinical 
sample of U.S. adults. Eval Health Prof. 2012; 35 
(3): 259-279. doi:10.1177/0163278711424282
5. Williams JB, Alexander KP, Morin J-F, và 
cộng sự. Preoperative anxiety as a predictor of 
mortality and major morbidity in patients aged 
> 70 years undergoing cardiac surgery. Am J 
Cardiol. 2013; 111 (1): 137-142. doi:10.1016/j.
amjcard.2012.08.060
6. Gonçalves KKN, Silva JI da, Gomes ET, 
và cộng sự. Anxiety in the preoperative period 
of heart surgery. Rev Bras Enferm. 2016; 69 (2): 
397-403. doi:10.1590/0034-7167.2016690225i
7. Unsal A, Unaldi C, Baytemir C. Anxiety 
and depression levels of inpatients in the city 
centre of Kirşehir in Turkey. Int J Nurs Pract. 
2011; 17 (4): 411-418. doi:10.1111/j.1440-
172X.2011.01949.x
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
91TCNCYH 134 (10) - 2020
8. Moser DK, Chung ML, McKinley S, và cộng sự. Critical care nursing practice regarding patient 
anxiety assessment and management. Intensive Crit Care Nurs. 2003; 19 (5): 276-288. doi:10.1016/
s0964-3397(03)00061-2
Summary
INVESTIGATION THE PREOPERATIVE ANXIETY OR STRESS 
OF PATIENTS AT HANOI MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL- 
DEPARTMENT OF SPORT MEDICINE AND TRAUMATIC 
ORTHOPEDIC SURGERY
The study aimed to investigate the anxiety or stress related to traumatic orthopedic surgery. 250 
preoperative traumatic orthopedic patients were assessed based on DASS 21 at Hanoi medical university 
hospital from 9/2019 to 5/2020. The average DASS-Anxious and DASS-Stress scores were 5.85 ± 5.47 
and 4.48 ± 4.06, the percentage of patients with anxiety and stress was 22.8% and 6.4% respectively. 
Female, over 60 years old, with lower standard of living and associated diseases were factors that 
increase the anxiety level statistically. No medical insurance was another factor that increase the stress 
level statiscally. The study show that the rate of real anxiety or real stress of preoperative orthopedic 
patients was quite elevated and is statistically significant. Health care workers need to address these 
issues, advocate for medical insurance and explain more clearly about the method of anesthesia.
Keywords: anxious, stress, traumatic orthopedic surgery

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_tinh_trang_lo_au_stress_truoc_phau_thuat_o_benh_nha.pdf