Khảo sát tình trạng hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi có tăng huyết áp tại phòng khám khoa cán bộ cao cấp Bệnh viện Quân Y 175

Mục tiêu: Khảo sát tình trạng hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi ( NCT) có tăng

huyết áp (THA) đang điều trị Phòng khám - Bệnh viện Quân Y 175 và khảo sát liên quan

giữa kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu và hạ huyết áp tư thế.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 390 bệnh nhân

cao tuổi THA đang điều trị ngoại trú tại Khoa Điều trị cán bộ cao cấp Quân đội- Bệnh

viện Quân y 175 từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2016.

Kết quả: Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế là 14,4%; tỷ lệ này tăng cao có ý nghĩa ở nhóm từ

80 tuổi trở lên là 22,2% và chỉ có 51,8% những bệnh nhân hạ huyết áp tư thế có triệu

chứng đi kèm. Bệnh nhân bị hạ huyết áp tư thế khó có khả năng kiểm soát huyết áp đạt

mục tiêu hơn những bệnh nhân không hạ huyết áp tư thế (OR=0,456; 95% CI= 0,26 –

0,81; p=0,007).

pdf 7 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tình trạng hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi có tăng huyết áp tại phòng khám khoa cán bộ cao cấp Bệnh viện Quân Y 175", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tình trạng hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi có tăng huyết áp tại phòng khám khoa cán bộ cao cấp Bệnh viện Quân Y 175

Khảo sát tình trạng hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi có tăng huyết áp tại phòng khám khoa cán bộ cao cấp Bệnh viện Quân Y 175
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
11
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát tình trạng hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi ( NCT) có tăng 
huyết áp (THA) đang điều trị Phòng khám - Bệnh viện Quân Y 175 và khảo sát liên quan 
giữa kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu và hạ huyết áp tư thế.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 390 bệnh nhân 
cao tuổi THA đang điều trị ngoại trú tại Khoa Điều trị cán bộ cao cấp Quân đội- Bệnh 
viện Quân y 175 từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2016.
Kết quả: Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế là 14,4%; tỷ lệ này tăng cao có ý nghĩa ở nhóm từ 
80 tuổi trở lên là 22,2% và chỉ có 51,8% những bệnh nhân hạ huyết áp tư thế có triệu 
chứng đi kèm. Bệnh nhân bị hạ huyết áp tư thế khó có khả năng kiểm soát huyết áp đạt 
mục tiêu hơn những bệnh nhân không hạ huyết áp tư thế (OR=0,456; 95% CI= 0,26 – 
0,81; p=0,007).
EXAMINATION OF POSTURAL HYPERTENSION IN HYPERTENSIVE 
ELDERLY (THT) PATIENTS WHO ARE RECEIVING TREATMENT AT THE 
CLINIC, MILITARY HOSPITAL 175
SUMMARY
Objectives: Examination of postural hypertension in hypertensive elderly (THT) 
patients who are receiving treatment at the clinic, Military Hospital 175 and related 
studies between control of target blood pressure and postural hypotension.
Subjects and methods of research: Study method is cross sectional description with 
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG HẠ HUYẾT ÁP TƯ THẾ Ở NGƯỜI 
CAO TUỔI CÓ TĂNG HUYẾT ÁP TẠI PHÒNG KHÁM KHOA 
CÁN BỘ CAO CẤP BỆNH VIỆN QUÂN Y 175
Thân Hồng Anh1, Lâm Mỹ Hằng1, Nguyễn Hồng Vũ1, Nguyễn Đình Tuấn1 
Nguyễn Mạnh Hùng1, Trần Thị Phương Lan1, Đoàn Thanh Hải1 
Đặng Văn Thanh1, Nguyễn Đặng Phương Kiều1, Nguyễn Thị Thu Ngân1
(1)Bệnh viện Quân 175
Người phản hồi (Corresponding): Thân Hồng Anh ([email protected])
Ngày nhận bài: 11/8/2017. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/8/2017. 
Ngày bài báo được đăng: 25/12/2017
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017
12
390 hypertensive elderly patients treated for hypertension in the department of treating 
senior- Military Medical Hospital 175 from 10/2015 to 3/2016.
Result: The prevalence of orthostatic hypotension is 14,4%; this rate in the 80-year-
old group was 22.2% significantly higher than that of the younger; 51,8 % of postural 
hypotensive pateints with symptoms. Patients with postural hypotension are less likely 
to achieve target blood pressure control than those without postural hypotension (OR = 
0.456; 95% CI = 0.26 - 0.81; p = 0.007).
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Hạ huyết áp tư thế theo Hội Thần 
Kinh và tự chủ Hoa Kỳ và Viện Thần 
Kinh Hoa Kỳ là tình trạng lâm sàng với 
huyết áp tâm thu giảm ít nhất 20 mmHg 
và/hoặc huyết áp tâm trương giảm ít nhất 
10 mmHg khi đứng trong vòng 3 phút. Hạ 
huyết áp tư thế chiếm một tỷ lệ đáng kể ở 
NCT có THA khoảng từ 5 - 30% [6]. Đây 
là một trong những rào cản trong kiểm 
soát huyết áp ở NCT và được cho là yếu 
tố nguy cơ độc lập cho té ngã, suy yếu và 
tử vong. 
Các công trình nghiên cứu về hạ 
huyết áp tư thế ở người cao tuổi ở Việt 
nam còn hạn chế: nghiên cứu của Nguyễn 
Văn Trí tại cộng đồng phía Nam và ng-
hiên cứu của Vũ Mai Hương tại Bệnh viện 
Lão khoa Trung Ương [3],[2]. Việc điều 
trị THA từ trước tới nay thường chỉ chú 
ý đạt huyết áp mục tiêu theo các khuyến 
cáo mà ít để ý đến tình trạng hạ huyết áp 
tư thế đi kèm, vì vậy chúng tôi tiến hành 
đề tài này nhằm:
Xác định tình trạng hạ huyết áp tư 
thế ở NCT có THA đang điều trị tại phòng 
khám bệnh - Bệnh viện Quân y 175 và 
khảo sát mối liên quan giữa kiểm soát 
huyết áp đạt mục tiêu và hạ huyết áp tư 
thế.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Những bệnh nhân THA ≥ 60 tuổi đang 
điều trị THA ngoại trú THA từ 1 tháng trở 
lên tại phòng khám Khoa Điều trị cán bộ 
cao cấp Quân đội bệnh viện quân y 175 từ 
tháng 10/2015 đến tháng 3/2016. 
Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân đang 
mắc các bệnh cấp tính (nhiễm trùng, đột 
quỵ cấp, nhồi náu cơ tim cấp,..); bệnh nhân 
không hợp tác (giảm thính lực, không hợp 
tác,..) và không đồng ý tham gia nghiên 
cứu.
Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, có phân 
tích.
Cỡ mẫu được tính theo công thức:
tương ứng với độ tin cậy 95%; 
p = 16,4%: tỉ lệ người cao tuổi bị 
THA có hạ huyết áp tư thế theo nghiên 
cứu của Nguyễn Văn Trí năm 2016[3].
d: sai số 5% ta được n 
= 
211 người
Các tiêu chuẩn chẩn đoán:
Hạ huyết áp tư thế: Theo tiêu chuẩn 
của Hội Thần Kinh Hoa Kỳ.
Kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu: 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
13
Theo tiêu chuẩn của JNC 8.
+ Bệnh nhân ≥ 60 tuổi huyết áp đạt 
dưới 150/90 mmHg.
+ Bệnh nhân đái tháo đường và/hoặc 
bệnh thận mạn huyết áp đạt dưới 140/90 
mmHg với bất kỳ lứa tuổi.
Đái tháo đường: Bệnh nhân mới được 
chẩn đoán theo tiêu chuẩn của hiệp hội đái 
tháo đường Hoa Kỳ năm 2009; bệnh nhân 
đã được chẩn đoán và đang điều trị đái 
tháo đường.
Bệnh thận mạn: Bệnh nhân mới được 
chẩn đoán theo tiêu chuẩn của KDOQI- 
Hội thận học Hoa Kỳ năm 2002; BN đã 
được chẩn đoán bệnh thận mạn và có mức 
lọc cầu thận ước đoán < 60 ml/p/1,73m2. 
 Rối loạn lipid máu: được chẩn đoán 
theo tiêu chuẩn của ESH/ESC 2013; đã 
được chẩn đoán và đang điều trị rối loạn 
lipid máu.
Thừa cân - Béo phì: dựa vào tiêu 
chuẩn dành cho người châu Á theo đề 
nghị của WHO năm 2000. 
Các bước tiến hành trên bệnh nhân: 
Bệnh nhân được giải thích quá trình thực 
hiện nghiên cứu và đều tự nguyện tham 
gia.
Hỏi bệnh sử và khai thác các yếu tố: 
tuổi, các bệnh lý kết hợp, các thuốc đang 
sử dụng.
Đo các chỉ số nhân trắc: chiều cao, 
cân nặng, tính BMI.
Đo huyết áp hai tư thế khi nằm và khi 
đứng trong vòng 3 phút tại phòng khám 
khoa Điều trị cán bộ cao cấp Quân đội 
Bệnh viện Quân y 175. Ghi nhận các triệu 
chứng khi thay đổi tư thế từ nằm sang 
đứng như: choáng váng, chóng mặt, buồn 
nôn và ngất.
Làm các xét nghiệm cận lâm sàng: 
nhóm mỡ, đường máu, định lượng creati-
nine huyết thanh, albumin niệu.
Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý theo 
phần mềm thống kê y học SPSS 20.0
Vấn đề y đức:
Đây là nghiên cứu quan sát, thực hiện 
bằng cách phỏng vấn, hỏi bệnh và khám 
bệnh và hoàn toàn tôn trọng quyền không 
tham gia nghiên cứu của đối tượng.
Nghiên cứu nhằm phát hiện các vấn 
đề sức khỏe mà không can thiệp vào quá 
trình điều trị và người bệnh hoàn toàn 
được bảo mật thông tin. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu có 390 bệnh nhân thỏa các tiêu chuẩn chọn bệnh. 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017
14
Bảng 1. Đặc điểm chung của bệnh nhân
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %
Giới
Nam 385 98,7
Nữ 5 1,3
 Tuổi
70 ± 8,7
60 - 79 209 79,2
≥ 80 81 20,8
Chỉ số khối cơ thể
24,66 ± 0,13
Ko thừa cân-Béo phì 92 23,6
Thừa cân- Béo phì 298 76,4
Thuốc hạ áp
Lợi tiểu 43 11
Ức chế men chuyển 258 66,2
Ức chế thụ thể 95 24,4
Ức chế Canxi 172 44,1
Ức chế beta 99 25,4
Bệnh nhân tham gia nghiên cứu hầu hết là nam giới: 98,7%; trên 75% bệnh nhân 
thừa cân - béo phì và thuốc hạ áp được sử dụng nhiều nhất là ức chế men chuyển và ức 
chế canxi, chỉ có 11% bệnh nhân trong nghiên cứu này dùng lợi tiểu. Thời gian phát hiện 
THA trung bình là 11,3 ± 7,0 năm.
Bảng 2: Tình trạng hạ huyết áp tư thế
N = 390 Tần số Tỷ lệ (%)
Hạ huyết áp tư thế đứng 56 14,4
Có triệu chứng 29 51,8
Không triệu chứng 27 48,2
Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở bệnh nhân THA đang điều trị tương đối cao: 14,4% và 
trên 50% bệnh nhân có triệu chứng đi kèm như: chóng mặt, choáng váng, hoa mắt, đau 
đầu, tối sầm và có tới 48,2% không có triệu chứng đi kèm.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
15
Bảng 3: Đặc điểm hạ huyết áp tư thế 
Đặc điểm Tỷ lệ hạ HA tư thế (%) P
Nhóm bệnh nhân
THA 10,7
>0,05
THA + Đái tháo đường 16,7
THA + Bệnh thận mạn 21,4
Tuổi
< 80 tuổi 12,3 < 0,05
≥ 80 tuổi 22,2
Thừa cân – Béo phì
Không thừa cân – Béo phì 18,5 >0,05
Thừa cân - Béo phì 13,2
Nhóm bệnh nhân có tuổi từ 80 trở lên có tỷ lệ hạ huyết áp tư thế là 22% cao hơn có 
ý nghĩa so với bệnh nhân THA dưới 80 tuổi l2,3%. 
Bảng 4. Liên quan giữa kiểm soát huyết áp và hạ huyết áp tư thế
Hạ huyết áp 
tư thế đứng 
Kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu
OR 95% CI P 
Có (n, %) Không (n, %) 
Có 22 (39,3) 34 (60,7) 
0,456 0,26 – 0,81 0,007
Không 196 (58,7) 138 (41,3) 
 Tỷ lệ kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu ở nhóm hạ huyết áp tư thế là 39,3% thấp hơn 
có ý nghĩa so với nhóm không hạ huyết áp tư thế là 58,7%, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê với OR = 0,456; 95% CI = 0,26 – 0,81; p = 0,007. 
BÀN LUẬN
Bệnh nhân tham gia nghiên cứu hầu 
hết là nam giới: 98,7%; đây cũng là đặc 
điểm bệnh nhân tại khoa cán bộ cao cấp 
Quân đội bệnh viện 175. Trong mẫu ng-
hiên cứu, có 14,4% bệnh nhân có hạ 
huyết áp tư thế đứng và trong số đó chỉ 
có 51,8% bệnh nhân xuất hiện các triệu 
chứng như: đau đầu chóng mặt, choáng 
váng và không có trường hợp nào ngất. 
Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế đứng ở NCT tại 
cộng đồng tỉnh Bến Tre trong nghiên cứu 
của Nguyễn Văn Trí trong nhóm có THA 
là 16,4%, có 59,5% bệnh nhân có các triệu 
chứng đi kèm [3]. Nghiên cứu của Vũ Mai 
Hương cho thấy tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở 
bệnh nhân THA tại Viện Lão Khoa Trung 
Ương là 35,6% và khoảng 70% bệnh nhân 
có triệu chứng [1]. Như vậy, tỷ lệ hạ huyết 
áp tư thế đứng ở NCT có THA trong các 
nghiên cứu trong nước khoảng từ 16% 
đến 35% [2]. 
Trên thế giới tỷ lệ, ở NCT có THA, 
tỷ lệ hạ huyết áp tư thế trong nghiên cứu 
SHEP là 17,3%; nghiên cứu HYVET 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017
16
ở những bệnh nhân từ 80 tuổi trở lên là 
8,3% [9], [5]. Một nghiên cứu của Valbu-
sa ở NCT tại nhà dưỡng lão có THA thì tỷ 
lệ này là 18% [10]]. 
 Hạ huyết áp tư thế đứng tăng dần theo 
tuổi, đặc biệt nhóm tuổi từ 80 trở lên có tới 
22,2% bị hạ huyết áp tư thế cao hơn có ý 
nghĩa so với nhóm tuổi ít hơn 80. Nghiên 
cứu của Vũ Mai Hương và Phạm Thắng 
tại Viện Lão khoa Trung Ương nhận thấy 
tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở nhóm bệnh nhân 
từ 75 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ khoảng 30% 
cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh 
nhân ít tuổi hơn[1],[2]. Nghiên cứu của 
Barochiner J và cộng sự trên những bệnh 
nhân THA đang điều trị nhận thấy, tỷ lệ hạ 
huyết áp tư thế ở nhóm người dưới 65 tuổi 
là 3,6%; từ 65 đến 79 tuổi là 12,2% và 
từ 80 tuổi trở lên là 16,7%[4]. Người cao 
tuổi đặc biệt nhậy cảm với tình trạng hạ 
huyết áp tư thế do giảm sút lúc tuổi cao về 
độ nhậy của các thụ thể áp lực, về trương 
lực phó giao cảm, về khả năng co mạch 
của các thụ thể α1, về độ giãn nở của tim 
và hệ tĩnh mạch, làm ảnh hưởng đến khả 
năng bù trừ bình thường với tình trạng 
biến đổi thể tích lòng mạch ở tư thế đứng. 
Người cao tuổi cũng hay có suy giảm cảm 
giác khát, giảm khả năng giữ muối/nước, 
làm tăng nguy cơ mất nước và giảm thể 
tích tuần hoàn, tất cả góp phần thúc đẩy 
hạ huyết áp tư thế. Ngoài ra, rối loạn hệ 
thần kinh tự động cũng góp phần thúc đẩy 
hạ huyết áp tư thế do ảnh hưởng đến khả 
năng co mạch và các đáp ứng thần kinh thể 
dịch, bình thường vốn hỗ trợ duy trì huyết 
áp khi đứng. Các bệnh lý hay gặp ở NCT 
như: THA, đái tháo đường, xơ cứng rải 
rác, suy thận mạn, bệnh gan mạn, bệnh đa 
dây thần kinh thoái hóa myelin là nguyên 
nhân gây hạ huyết áp tư thế do rối loạn hệ 
thần kinh tự chủ. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, hạ huyết áp tư thế trong nhóm 
THA không có đái tháo đường và bệnh 
thận mạn chỉ chiếm 10,7%, nhưng tỷ lệ 
này tăng lên 16,7% ở nhóm có đái tháo 
đường và 21,4% ở nhóm có bệnh thân 
mạn. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê với p > 0,05. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ 
kiểm soát huyết áp ở nhóm hạ huyết áp 
tư thế đứng chỉ có 39,3% thấp hơn so với 
nhóm không hạ huyết áp tư thế là 58,7% 
và khả năng kiểm soát huyết áp của nhóm 
hạ huyết áp tư thế chỉ bằng 0,456 lần so 
với nhóm không bị hạ huyết áp tư thế với 
p = 0,007. Như vậy hạ huyết áp tư thế 
đứng là một rào cản đối với việc kiểm soát 
tốt huyết áp ở NCT. 
 Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù 
hợp với nhận định của Shen SS và cộng 
sự khi nghiên cứu mối liên quan giữa việc 
không kiểm soát huyết áp và hạ huyết áp 
tư thế đứng với việc đứng thăng bằng của 
bệnh nhân cao tuổi có THA nhận thấy, tỷ 
lệ không kiểm soát của nhóm hạ huyết áp 
tư thế là 63,9% cao hơn đáng kể so với 
nhóm không hạ huyết áp tư thế là 27,9% 
với p < 0,001[8].
Valbusa trong nghiên cứu về NCT của 
mình cũng cho rằng hạ huyết áp tư thế xảy 
ra thường xuyên hơn ở nhóm bệnh nhân 
có huyết áp không được kiểm soát. Tác 
giả cho rằng, bệnh nhân không kiểm soát 
được huyết áp thường có tình trạng lợi 
tiểu về đêm do huyết áp cao dẫn đến giảm 
thể tích tuần hoàn và làm trầm trọng hơn 
tình trạng hạ huyết áp tư thế đứng [10]. 
Nghiên cứu của Barochiner J và Sáez T 
cũng nhận thấy có sự liên quan giữa kiểm 
soát huyết áp và hạ huyết áp tư thế đứng 
[4],[7] . 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
17
Đối với NCT có THA, hạ huyết áp 
tư thế thường khiến người bệnh tự dừng 
uống thuốc hạ huyết áp để hạn chế cơn 
hạ huyết áp tư thế, giảm chóng mặt và té 
ngã. Mặt khác các thầy thuốc cũng được 
khuyến cáo dùng thuốc nên điều chỉnh 
phù hợp với mức huyết áp thấp và đây có 
lẽ là các lý do khiến cho kiểm soát huyết 
áp ở bệnh nhân có hạ huyết áp tư thế khó 
khăn hơn.
KẾT LUẬN
Quan nghiên cứu 390 bệnh nhân cao 
tuổi THA đang điều trị ngoại trú tại Phòng 
khám khoa Điều trị cán bộ cao cấp Quân 
Đội bệnh viện quân y 175 chúng tôi nhận 
thấy:
Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở bệnh nhân 
cao tuổi THA là 14,4%; tỷ lệ này tăng cao 
có ý nghĩa ở nhóm tuổi từ 80 trở lên là 
22,2%; chỉ có khoảng trên 50% bệnh nhân 
hạ huyết áp tư thế là có triệu chứng đi 
kèm như chóng mặt, choáng váng, buồn 
nôn,.
Bệnh nhân bị hạ huyết áp tư thế 
khó có khả năng kiểm soát huyết áp đạt 
mục tiêu hơn những bệnh nhân không 
hạ huyết áp tư thế (OR=0,456; 95% CI= 
0,26 – 0,81; p=0,007). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Vũ Mai Hương (2003), Tìm hiểu tỷ 
lệ hạ huyết áp tư thế đứng một số yếu tố 
nguy cơ ở người cao tuổi tại một thị xã 
và tại Viện Lão khoa, Luận án tốt nghiệp 
chuyên khoa 2, Đại học Y Hà nội. 
2.Phạm Thắng và cs (2003), “Tìm 
hiểu tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở người già 
sống tại cộng đồng”, Tạp chí nội khoa, 3, 
tr 6-11.
3.Nguyễn Văn Trí, Nguyễn Trần Tố 
Trân và cs (2016), “Tình hình hạ huyết áp 
tư thế ở người cao tuổi trong cộng đồng 
xã Vĩnh Thạch, tỉnh Bến Tre”, Chuyên đề 
tim mạch học; 2, tr: 7-10.
4.Barochiner J et al, (2012). 
“Orthstatic hypotension in Treated 
hypertension patients” Rom.J. Intern.
Med, 50 (3), pp. 203 – 209. 
5.Beckett NS, Ruth Peters et al (2008), 
“Treatment of Hypertension in Patients 
80 Years of Age or Older”, N Engl J Med, 
358, pp: 1887-1898 (HYVET). 
6.Lahrmann H, Cortelli P, et al. (2006), 
“EFNS guidelines on the diagnosis and 
management of orthostatic hypotension”. 
European journal of neurology, 13, pp. 
930-6. 
7.Sáez T, Suárez C et al (2000), 
“Orthostatic hypotension in the aged 
and its association with antihypertensive 
treatment”, Med Clin (Barc), 114(14), pp: 
525-9. 
8.Shen SS, He T, et al, (2015), 
“Uncontrolled hypertension and 
orthostatic hypotension in relation to 
standing balance in elderly hypertensive 
patients”, Journal List Clin Interv Agingv, 
10, pp. 897-906. 
9.SHEP Cooperative Research 
Group (1991), “Prevention of stroke 
by antihypertensive drug treatment in 
older persons with isolated systolic 
hypertension. Final results of the Systolic 
Hypertension in the Elderly Program 
(SHEP)”, JAMA, 265, pp: 3255-64. 
10.Valbusa F et al (2012). “Orthstatic 
hypotension in very old subject living 
in nursing home: the PARTAGE study”. 
Hypertens, 30, pp. 53-60. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_tinh_trang_ha_huyet_ap_tu_the_o_nguoi_cao_tuoi_co_t.pdf