Khảo sát tình trạng hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi có tăng huyết áp tại phòng khám khoa cán bộ cao cấp Bệnh viện Quân Y 175
Mục tiêu: Khảo sát tình trạng hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi ( NCT) có tăng
huyết áp (THA) đang điều trị Phòng khám - Bệnh viện Quân Y 175 và khảo sát liên quan
giữa kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu và hạ huyết áp tư thế.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 390 bệnh nhân
cao tuổi THA đang điều trị ngoại trú tại Khoa Điều trị cán bộ cao cấp Quân đội- Bệnh
viện Quân y 175 từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2016.
Kết quả: Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế là 14,4%; tỷ lệ này tăng cao có ý nghĩa ở nhóm từ
80 tuổi trở lên là 22,2% và chỉ có 51,8% những bệnh nhân hạ huyết áp tư thế có triệu
chứng đi kèm. Bệnh nhân bị hạ huyết áp tư thế khó có khả năng kiểm soát huyết áp đạt
mục tiêu hơn những bệnh nhân không hạ huyết áp tư thế (OR=0,456; 95% CI= 0,26 –
0,81; p=0,007).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tình trạng hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi có tăng huyết áp tại phòng khám khoa cán bộ cao cấp Bệnh viện Quân Y 175
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 11 TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát tình trạng hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi ( NCT) có tăng huyết áp (THA) đang điều trị Phòng khám - Bệnh viện Quân Y 175 và khảo sát liên quan giữa kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu và hạ huyết áp tư thế. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 390 bệnh nhân cao tuổi THA đang điều trị ngoại trú tại Khoa Điều trị cán bộ cao cấp Quân đội- Bệnh viện Quân y 175 từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2016. Kết quả: Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế là 14,4%; tỷ lệ này tăng cao có ý nghĩa ở nhóm từ 80 tuổi trở lên là 22,2% và chỉ có 51,8% những bệnh nhân hạ huyết áp tư thế có triệu chứng đi kèm. Bệnh nhân bị hạ huyết áp tư thế khó có khả năng kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu hơn những bệnh nhân không hạ huyết áp tư thế (OR=0,456; 95% CI= 0,26 – 0,81; p=0,007). EXAMINATION OF POSTURAL HYPERTENSION IN HYPERTENSIVE ELDERLY (THT) PATIENTS WHO ARE RECEIVING TREATMENT AT THE CLINIC, MILITARY HOSPITAL 175 SUMMARY Objectives: Examination of postural hypertension in hypertensive elderly (THT) patients who are receiving treatment at the clinic, Military Hospital 175 and related studies between control of target blood pressure and postural hypotension. Subjects and methods of research: Study method is cross sectional description with KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG HẠ HUYẾT ÁP TƯ THẾ Ở NGƯỜI CAO TUỔI CÓ TĂNG HUYẾT ÁP TẠI PHÒNG KHÁM KHOA CÁN BỘ CAO CẤP BỆNH VIỆN QUÂN Y 175 Thân Hồng Anh1, Lâm Mỹ Hằng1, Nguyễn Hồng Vũ1, Nguyễn Đình Tuấn1 Nguyễn Mạnh Hùng1, Trần Thị Phương Lan1, Đoàn Thanh Hải1 Đặng Văn Thanh1, Nguyễn Đặng Phương Kiều1, Nguyễn Thị Thu Ngân1 (1)Bệnh viện Quân 175 Người phản hồi (Corresponding): Thân Hồng Anh ([email protected]) Ngày nhận bài: 11/8/2017. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/8/2017. Ngày bài báo được đăng: 25/12/2017 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 12 390 hypertensive elderly patients treated for hypertension in the department of treating senior- Military Medical Hospital 175 from 10/2015 to 3/2016. Result: The prevalence of orthostatic hypotension is 14,4%; this rate in the 80-year- old group was 22.2% significantly higher than that of the younger; 51,8 % of postural hypotensive pateints with symptoms. Patients with postural hypotension are less likely to achieve target blood pressure control than those without postural hypotension (OR = 0.456; 95% CI = 0.26 - 0.81; p = 0.007). ĐẶT VẤN ĐỀ: Hạ huyết áp tư thế theo Hội Thần Kinh và tự chủ Hoa Kỳ và Viện Thần Kinh Hoa Kỳ là tình trạng lâm sàng với huyết áp tâm thu giảm ít nhất 20 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương giảm ít nhất 10 mmHg khi đứng trong vòng 3 phút. Hạ huyết áp tư thế chiếm một tỷ lệ đáng kể ở NCT có THA khoảng từ 5 - 30% [6]. Đây là một trong những rào cản trong kiểm soát huyết áp ở NCT và được cho là yếu tố nguy cơ độc lập cho té ngã, suy yếu và tử vong. Các công trình nghiên cứu về hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi ở Việt nam còn hạn chế: nghiên cứu của Nguyễn Văn Trí tại cộng đồng phía Nam và ng- hiên cứu của Vũ Mai Hương tại Bệnh viện Lão khoa Trung Ương [3],[2]. Việc điều trị THA từ trước tới nay thường chỉ chú ý đạt huyết áp mục tiêu theo các khuyến cáo mà ít để ý đến tình trạng hạ huyết áp tư thế đi kèm, vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm: Xác định tình trạng hạ huyết áp tư thế ở NCT có THA đang điều trị tại phòng khám bệnh - Bệnh viện Quân y 175 và khảo sát mối liên quan giữa kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu và hạ huyết áp tư thế. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: Những bệnh nhân THA ≥ 60 tuổi đang điều trị THA ngoại trú THA từ 1 tháng trở lên tại phòng khám Khoa Điều trị cán bộ cao cấp Quân đội bệnh viện quân y 175 từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2016. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân đang mắc các bệnh cấp tính (nhiễm trùng, đột quỵ cấp, nhồi náu cơ tim cấp,..); bệnh nhân không hợp tác (giảm thính lực, không hợp tác,..) và không đồng ý tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, có phân tích. Cỡ mẫu được tính theo công thức: tương ứng với độ tin cậy 95%; p = 16,4%: tỉ lệ người cao tuổi bị THA có hạ huyết áp tư thế theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Trí năm 2016[3]. d: sai số 5% ta được n = 211 người Các tiêu chuẩn chẩn đoán: Hạ huyết áp tư thế: Theo tiêu chuẩn của Hội Thần Kinh Hoa Kỳ. Kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu: CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 13 Theo tiêu chuẩn của JNC 8. + Bệnh nhân ≥ 60 tuổi huyết áp đạt dưới 150/90 mmHg. + Bệnh nhân đái tháo đường và/hoặc bệnh thận mạn huyết áp đạt dưới 140/90 mmHg với bất kỳ lứa tuổi. Đái tháo đường: Bệnh nhân mới được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ năm 2009; bệnh nhân đã được chẩn đoán và đang điều trị đái tháo đường. Bệnh thận mạn: Bệnh nhân mới được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của KDOQI- Hội thận học Hoa Kỳ năm 2002; BN đã được chẩn đoán bệnh thận mạn và có mức lọc cầu thận ước đoán < 60 ml/p/1,73m2. Rối loạn lipid máu: được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của ESH/ESC 2013; đã được chẩn đoán và đang điều trị rối loạn lipid máu. Thừa cân - Béo phì: dựa vào tiêu chuẩn dành cho người châu Á theo đề nghị của WHO năm 2000. Các bước tiến hành trên bệnh nhân: Bệnh nhân được giải thích quá trình thực hiện nghiên cứu và đều tự nguyện tham gia. Hỏi bệnh sử và khai thác các yếu tố: tuổi, các bệnh lý kết hợp, các thuốc đang sử dụng. Đo các chỉ số nhân trắc: chiều cao, cân nặng, tính BMI. Đo huyết áp hai tư thế khi nằm và khi đứng trong vòng 3 phút tại phòng khám khoa Điều trị cán bộ cao cấp Quân đội Bệnh viện Quân y 175. Ghi nhận các triệu chứng khi thay đổi tư thế từ nằm sang đứng như: choáng váng, chóng mặt, buồn nôn và ngất. Làm các xét nghiệm cận lâm sàng: nhóm mỡ, đường máu, định lượng creati- nine huyết thanh, albumin niệu. Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý theo phần mềm thống kê y học SPSS 20.0 Vấn đề y đức: Đây là nghiên cứu quan sát, thực hiện bằng cách phỏng vấn, hỏi bệnh và khám bệnh và hoàn toàn tôn trọng quyền không tham gia nghiên cứu của đối tượng. Nghiên cứu nhằm phát hiện các vấn đề sức khỏe mà không can thiệp vào quá trình điều trị và người bệnh hoàn toàn được bảo mật thông tin. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong thời gian nghiên cứu có 390 bệnh nhân thỏa các tiêu chuẩn chọn bệnh. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 14 Bảng 1. Đặc điểm chung của bệnh nhân Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ % Giới Nam 385 98,7 Nữ 5 1,3 Tuổi 70 ± 8,7 60 - 79 209 79,2 ≥ 80 81 20,8 Chỉ số khối cơ thể 24,66 ± 0,13 Ko thừa cân-Béo phì 92 23,6 Thừa cân- Béo phì 298 76,4 Thuốc hạ áp Lợi tiểu 43 11 Ức chế men chuyển 258 66,2 Ức chế thụ thể 95 24,4 Ức chế Canxi 172 44,1 Ức chế beta 99 25,4 Bệnh nhân tham gia nghiên cứu hầu hết là nam giới: 98,7%; trên 75% bệnh nhân thừa cân - béo phì và thuốc hạ áp được sử dụng nhiều nhất là ức chế men chuyển và ức chế canxi, chỉ có 11% bệnh nhân trong nghiên cứu này dùng lợi tiểu. Thời gian phát hiện THA trung bình là 11,3 ± 7,0 năm. Bảng 2: Tình trạng hạ huyết áp tư thế N = 390 Tần số Tỷ lệ (%) Hạ huyết áp tư thế đứng 56 14,4 Có triệu chứng 29 51,8 Không triệu chứng 27 48,2 Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở bệnh nhân THA đang điều trị tương đối cao: 14,4% và trên 50% bệnh nhân có triệu chứng đi kèm như: chóng mặt, choáng váng, hoa mắt, đau đầu, tối sầm và có tới 48,2% không có triệu chứng đi kèm. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 15 Bảng 3: Đặc điểm hạ huyết áp tư thế Đặc điểm Tỷ lệ hạ HA tư thế (%) P Nhóm bệnh nhân THA 10,7 >0,05 THA + Đái tháo đường 16,7 THA + Bệnh thận mạn 21,4 Tuổi < 80 tuổi 12,3 < 0,05 ≥ 80 tuổi 22,2 Thừa cân – Béo phì Không thừa cân – Béo phì 18,5 >0,05 Thừa cân - Béo phì 13,2 Nhóm bệnh nhân có tuổi từ 80 trở lên có tỷ lệ hạ huyết áp tư thế là 22% cao hơn có ý nghĩa so với bệnh nhân THA dưới 80 tuổi l2,3%. Bảng 4. Liên quan giữa kiểm soát huyết áp và hạ huyết áp tư thế Hạ huyết áp tư thế đứng Kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu OR 95% CI P Có (n, %) Không (n, %) Có 22 (39,3) 34 (60,7) 0,456 0,26 – 0,81 0,007 Không 196 (58,7) 138 (41,3) Tỷ lệ kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu ở nhóm hạ huyết áp tư thế là 39,3% thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm không hạ huyết áp tư thế là 58,7%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với OR = 0,456; 95% CI = 0,26 – 0,81; p = 0,007. BÀN LUẬN Bệnh nhân tham gia nghiên cứu hầu hết là nam giới: 98,7%; đây cũng là đặc điểm bệnh nhân tại khoa cán bộ cao cấp Quân đội bệnh viện 175. Trong mẫu ng- hiên cứu, có 14,4% bệnh nhân có hạ huyết áp tư thế đứng và trong số đó chỉ có 51,8% bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng như: đau đầu chóng mặt, choáng váng và không có trường hợp nào ngất. Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế đứng ở NCT tại cộng đồng tỉnh Bến Tre trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Trí trong nhóm có THA là 16,4%, có 59,5% bệnh nhân có các triệu chứng đi kèm [3]. Nghiên cứu của Vũ Mai Hương cho thấy tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở bệnh nhân THA tại Viện Lão Khoa Trung Ương là 35,6% và khoảng 70% bệnh nhân có triệu chứng [1]. Như vậy, tỷ lệ hạ huyết áp tư thế đứng ở NCT có THA trong các nghiên cứu trong nước khoảng từ 16% đến 35% [2]. Trên thế giới tỷ lệ, ở NCT có THA, tỷ lệ hạ huyết áp tư thế trong nghiên cứu SHEP là 17,3%; nghiên cứu HYVET TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 16 ở những bệnh nhân từ 80 tuổi trở lên là 8,3% [9], [5]. Một nghiên cứu của Valbu- sa ở NCT tại nhà dưỡng lão có THA thì tỷ lệ này là 18% [10]]. Hạ huyết áp tư thế đứng tăng dần theo tuổi, đặc biệt nhóm tuổi từ 80 trở lên có tới 22,2% bị hạ huyết áp tư thế cao hơn có ý nghĩa so với nhóm tuổi ít hơn 80. Nghiên cứu của Vũ Mai Hương và Phạm Thắng tại Viện Lão khoa Trung Ương nhận thấy tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở nhóm bệnh nhân từ 75 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ khoảng 30% cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân ít tuổi hơn[1],[2]. Nghiên cứu của Barochiner J và cộng sự trên những bệnh nhân THA đang điều trị nhận thấy, tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở nhóm người dưới 65 tuổi là 3,6%; từ 65 đến 79 tuổi là 12,2% và từ 80 tuổi trở lên là 16,7%[4]. Người cao tuổi đặc biệt nhậy cảm với tình trạng hạ huyết áp tư thế do giảm sút lúc tuổi cao về độ nhậy của các thụ thể áp lực, về trương lực phó giao cảm, về khả năng co mạch của các thụ thể α1, về độ giãn nở của tim và hệ tĩnh mạch, làm ảnh hưởng đến khả năng bù trừ bình thường với tình trạng biến đổi thể tích lòng mạch ở tư thế đứng. Người cao tuổi cũng hay có suy giảm cảm giác khát, giảm khả năng giữ muối/nước, làm tăng nguy cơ mất nước và giảm thể tích tuần hoàn, tất cả góp phần thúc đẩy hạ huyết áp tư thế. Ngoài ra, rối loạn hệ thần kinh tự động cũng góp phần thúc đẩy hạ huyết áp tư thế do ảnh hưởng đến khả năng co mạch và các đáp ứng thần kinh thể dịch, bình thường vốn hỗ trợ duy trì huyết áp khi đứng. Các bệnh lý hay gặp ở NCT như: THA, đái tháo đường, xơ cứng rải rác, suy thận mạn, bệnh gan mạn, bệnh đa dây thần kinh thoái hóa myelin là nguyên nhân gây hạ huyết áp tư thế do rối loạn hệ thần kinh tự chủ. Trong nghiên cứu của chúng tôi, hạ huyết áp tư thế trong nhóm THA không có đái tháo đường và bệnh thận mạn chỉ chiếm 10,7%, nhưng tỷ lệ này tăng lên 16,7% ở nhóm có đái tháo đường và 21,4% ở nhóm có bệnh thân mạn. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ kiểm soát huyết áp ở nhóm hạ huyết áp tư thế đứng chỉ có 39,3% thấp hơn so với nhóm không hạ huyết áp tư thế là 58,7% và khả năng kiểm soát huyết áp của nhóm hạ huyết áp tư thế chỉ bằng 0,456 lần so với nhóm không bị hạ huyết áp tư thế với p = 0,007. Như vậy hạ huyết áp tư thế đứng là một rào cản đối với việc kiểm soát tốt huyết áp ở NCT. Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nhận định của Shen SS và cộng sự khi nghiên cứu mối liên quan giữa việc không kiểm soát huyết áp và hạ huyết áp tư thế đứng với việc đứng thăng bằng của bệnh nhân cao tuổi có THA nhận thấy, tỷ lệ không kiểm soát của nhóm hạ huyết áp tư thế là 63,9% cao hơn đáng kể so với nhóm không hạ huyết áp tư thế là 27,9% với p < 0,001[8]. Valbusa trong nghiên cứu về NCT của mình cũng cho rằng hạ huyết áp tư thế xảy ra thường xuyên hơn ở nhóm bệnh nhân có huyết áp không được kiểm soát. Tác giả cho rằng, bệnh nhân không kiểm soát được huyết áp thường có tình trạng lợi tiểu về đêm do huyết áp cao dẫn đến giảm thể tích tuần hoàn và làm trầm trọng hơn tình trạng hạ huyết áp tư thế đứng [10]. Nghiên cứu của Barochiner J và Sáez T cũng nhận thấy có sự liên quan giữa kiểm soát huyết áp và hạ huyết áp tư thế đứng [4],[7] . CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 17 Đối với NCT có THA, hạ huyết áp tư thế thường khiến người bệnh tự dừng uống thuốc hạ huyết áp để hạn chế cơn hạ huyết áp tư thế, giảm chóng mặt và té ngã. Mặt khác các thầy thuốc cũng được khuyến cáo dùng thuốc nên điều chỉnh phù hợp với mức huyết áp thấp và đây có lẽ là các lý do khiến cho kiểm soát huyết áp ở bệnh nhân có hạ huyết áp tư thế khó khăn hơn. KẾT LUẬN Quan nghiên cứu 390 bệnh nhân cao tuổi THA đang điều trị ngoại trú tại Phòng khám khoa Điều trị cán bộ cao cấp Quân Đội bệnh viện quân y 175 chúng tôi nhận thấy: Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở bệnh nhân cao tuổi THA là 14,4%; tỷ lệ này tăng cao có ý nghĩa ở nhóm tuổi từ 80 trở lên là 22,2%; chỉ có khoảng trên 50% bệnh nhân hạ huyết áp tư thế là có triệu chứng đi kèm như chóng mặt, choáng váng, buồn nôn,. Bệnh nhân bị hạ huyết áp tư thế khó có khả năng kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu hơn những bệnh nhân không hạ huyết áp tư thế (OR=0,456; 95% CI= 0,26 – 0,81; p=0,007). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Vũ Mai Hương (2003), Tìm hiểu tỷ lệ hạ huyết áp tư thế đứng một số yếu tố nguy cơ ở người cao tuổi tại một thị xã và tại Viện Lão khoa, Luận án tốt nghiệp chuyên khoa 2, Đại học Y Hà nội. 2.Phạm Thắng và cs (2003), “Tìm hiểu tỷ lệ hạ huyết áp tư thế ở người già sống tại cộng đồng”, Tạp chí nội khoa, 3, tr 6-11. 3.Nguyễn Văn Trí, Nguyễn Trần Tố Trân và cs (2016), “Tình hình hạ huyết áp tư thế ở người cao tuổi trong cộng đồng xã Vĩnh Thạch, tỉnh Bến Tre”, Chuyên đề tim mạch học; 2, tr: 7-10. 4.Barochiner J et al, (2012). “Orthstatic hypotension in Treated hypertension patients” Rom.J. Intern. Med, 50 (3), pp. 203 – 209. 5.Beckett NS, Ruth Peters et al (2008), “Treatment of Hypertension in Patients 80 Years of Age or Older”, N Engl J Med, 358, pp: 1887-1898 (HYVET). 6.Lahrmann H, Cortelli P, et al. (2006), “EFNS guidelines on the diagnosis and management of orthostatic hypotension”. European journal of neurology, 13, pp. 930-6. 7.Sáez T, Suárez C et al (2000), “Orthostatic hypotension in the aged and its association with antihypertensive treatment”, Med Clin (Barc), 114(14), pp: 525-9. 8.Shen SS, He T, et al, (2015), “Uncontrolled hypertension and orthostatic hypotension in relation to standing balance in elderly hypertensive patients”, Journal List Clin Interv Agingv, 10, pp. 897-906. 9.SHEP Cooperative Research Group (1991), “Prevention of stroke by antihypertensive drug treatment in older persons with isolated systolic hypertension. Final results of the Systolic Hypertension in the Elderly Program (SHEP)”, JAMA, 265, pp: 3255-64. 10.Valbusa F et al (2012). “Orthstatic hypotension in very old subject living in nursing home: the PARTAGE study”. Hypertens, 30, pp. 53-60.
File đính kèm:
khao_sat_tinh_trang_ha_huyet_ap_tu_the_o_nguoi_cao_tuoi_co_t.pdf

