Khảo sát tình hình nhiễm Gnathostoma spp trên gan lươn (Monopterus albus) tại chợ N. quận 10, TP. HCM từ tháng 3/2010‐ 2/2011

TÓM TẮT

Mở đầu: Bệnh do Gnathostoma sp. là một bệnh động vật ký sinh, lây nhiễm vào người qua đường thực

phẩm do ăn các loài thuỷ sản sống hoặc tái như ếch nhái, cá lóc, lươn, rắn bị nhiễm ấu trùng giai đoạn 3 của

KST này. Trong cơ thể người ấu trùng có thể di chuyển và gây tác hại tại nhiều cơ quan khác nhau, đôi khi có thể

đưa đến tử vong. Do số bệnh ngày càng nhiều, chúng tôi tiến hành điều tra tình hình nhiễm Gnathostoma sp.

trên lươn được bày bán tại chợ nội thành Tp.HCM nhằm cảnh báo nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh này từ môi

trường.

Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tỷ lệ và mật độ nhiễm Gnathostoma sp. trên gan lươn được thu thập tại chợ

nội thành tp.HCM trong 1 năm, đồng thời khảo sát sự phân bố mầm bệnh theo tháng và theo mùa trong 1 năm

Phương pháp tiến hành: tiến hành phương pháp mô tả, thu thập mẫu nội tạng lươn từ chợ trong 1 năm,.

Mẫu sẽ được phẫu tích tìm ấu trùng lây nhiễm giai đoạn 3 (AT3) của Gnathostoma sp trong gan. Khảo sát tỷ lệ

lươn nhiễm mầm bệnh và mật độ ấu trùng trung bình trên mỗi cá thể lươn. Phân tích sự phân bố theo tháng và

2 mùa trong năm.

Kết quả: Khảo sát 6067 mẫu gan lươn thu được tháng 3/2010 đến tháng 2/2011, tại chợ N. Q.10, tp.HCM:

Tỷ lệ nhiễm AT3 của Gnathostoma sp là 3,25% thấp hơn so với Thái Lan. Tỷ lệ này tăng cao giữa mùa mưa và

đầu mùa khô. Mật độ nhiễm trung bình là 11,05 ± 2,69, mật độ nhiễm cao nhất vào tháng 11 và thấp nhất vào

tháng 4,5.

Kết luận: Từ kết quả trên chúng tôi nhận thấy nguy cơ nhiễm mầm bệnh Gnathostoma sp. từ lươn là đáng

kể do tỷ lệ nhiễm khá cao. Người dân nên ăn chín các thức ăn được chế biến từ thuỷ sản, đặc biệt là giữa mùa

mưa và tháng 11 hàng năm.

pdf 6 trang phuongnguyen 5240
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tình hình nhiễm Gnathostoma spp trên gan lươn (Monopterus albus) tại chợ N. quận 10, TP. HCM từ tháng 3/2010‐ 2/2011", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tình hình nhiễm Gnathostoma spp trên gan lươn (Monopterus albus) tại chợ N. quận 10, TP. HCM từ tháng 3/2010‐ 2/2011

Khảo sát tình hình nhiễm Gnathostoma spp trên gan lươn (Monopterus albus)  tại chợ N. quận 10, TP. HCM từ tháng 3/2010‐ 2/2011
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  121
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM GNATHOSTOMA SPP  
TRÊN GAN LƯƠN (Monopterus albus) TẠI CHỢ N. QUẬN 10, TP.HCM  
TỪ THÁNG 3/2010‐ 2/2011 
Trần Thị Hồng*, Lê Đức Vinh*, Trần Trinh Vương* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Bệnh do Gnathostoma sp. là một bệnh động vật ký sinh, lây nhiễm vào người qua đường thực 
phẩm do ăn các loài thuỷ sản sống hoặc tái như ếch nhái, cá lóc, lươn, rắn bị nhiễm ấu trùng giai đoạn 3 của 
KST này. Trong cơ thể người ấu trùng có thể di chuyển và gây tác hại tại nhiều cơ quan khác nhau, đôi khi có thể 
đưa đến tử vong. Do số bệnh ngày càng nhiều, chúng tôi tiến hành điều tra tình hình nhiễm Gnathostoma sp. 
trên lươn được bày bán tại chợ nội thành Tp.HCM nhằm cảnh báo nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh này từ môi 
trường. 
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tỷ lệ và mật độ nhiễm Gnathostoma sp. trên gan lươn được thu thập tại chợ 
nội thành tp.HCM trong 1 năm, đồng thời khảo sát sự phân bố mầm bệnh theo tháng và theo mùa trong 1 năm 
Phương pháp tiến hành: tiến hành phương pháp mô tả, thu thập mẫu nội tạng lươn từ chợ trong 1 năm,. 
Mẫu sẽ được phẫu tích tìm ấu trùng lây nhiễm giai đoạn 3 (AT3) của Gnathostoma sp trong gan. Khảo sát tỷ lệ 
lươn nhiễm mầm bệnh và mật độ ấu trùng trung bình trên mỗi cá thể lươn. Phân tích sự phân bố theo tháng và 
2 mùa trong năm. 
Kết quả: Khảo sát 6067 mẫu gan lươn thu được tháng 3/2010 đến tháng 2/2011, tại chợ N. Q.10, tp.HCM: 
Tỷ lệ nhiễm AT3 của Gnathostoma sp là 3,25% thấp hơn so với Thái Lan. Tỷ lệ này tăng cao giữa mùa mưa và 
đầu mùa khô. Mật độ nhiễm trung bình là 11,05 ± 2,69, mật độ nhiễm cao nhất vào tháng 11 và thấp nhất vào 
tháng 4,5. 
Kết luận: Từ kết quả trên chúng tôi nhận thấy nguy cơ nhiễm mầm bệnh Gnathostoma sp. từ lươn là đáng 
kể do tỷ lệ nhiễm khá cao. Người dân nên ăn chín các thức ăn được chế biến từ thuỷ sản, đặc biệt là giữa mùa 
mưa và tháng 11 hàng năm. 
Từ khóa: Gnathostoma sp., lươn tại chợ 
ABSTRACT 
THE PREVALENCE OF GNATHOSTOMA INFECTIVE STAGE LARVAE IN SWARMP EELS 
(Monopterus albus) AT A MARKET, DISTRICT 10. HO CHI MINH CITY FROM MARCH/2010 
TO FEBRUARY /2011 
Tran Thi Hong, Le Duc Vinh, Tran Trinh Vuong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 121 ‐ 126  
Background: Human gnathostomiasis is an important food‐borne parasitic zoonosis, caused mainly by 
eating raw meat of fish especially frogs, snakehead, swamp eels, snakes, . Getting into the human body, the 
advanced third stage larvae can migrate and harm to many different organs, or even lead to death. Due to 
increasing case frequency, we conducted a survey of Gnathostoma sp. infection in swamp eels sold in a market to 
alert the risk of getting pathogen from the environment. 
Objectives: Identify the prevalence and density of infections Gnathostoma sp. in swamp eels livers that 
were collected at a local market in HCM city during a whole year, and survey variation of the distribution of this 
* Bộ môn Kí Sinh ‐ Vi nấm học Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. 
Tác giả liên lạc: ThS BS Lê Đức Vinh   ĐT: 0918.096.773   Email: ducvinhl@gmail.com     
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  122
pathogen according to month and season in this whole year 
Methods: a descriptive study, consists of collecting samples of visceral organ of swamp eels from a market 
for a whole year. The samples were dissected to find the advanced third stage larvae (AT3) in the liver. To survey 
the prevalence and the average density of AT3. To analysis their distribution by month and by season during the 
whole year. 
Results: a total of 6067 livers from swamp eels were collected at a market of District 10, HCMC, from 
3/2010 to 2/2011,: the AT3 Gnathostoma prevalence is 3.25%, lower than in Thailand. The frequencies reached 
two peaks at the middle the rainy season and at the beginning of dry season. Average density of infection was 
11.05 ± 2.69, the highest density of infection on november and lowest on April and May. 
Conclusion: From our study, we realized that the risk of contaminated Gnathostoma sp. from eel is 
significant by its high prevalence. People should eat well‐cooked aquatic food, especially during the rainy season 
and on november . 
Keywords: Gnathostoma sp., swamp eel 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh do Gnathostoma  sp.  là một bệnh  động 
vật  ký  sinh,  lây  nhiễm  vào  người  qua  đường 
thực phẩm. Trong cơ thể người ấu trùng không 
phát triển đến giai đoạn trưởng thành mà chỉ ở 
dạng ấu  trùng. Ấu  trùng không khu  trú mà có 
thể di chuyển từ đường tiêu hoá qua các cơ quan 
nội tạng hoặc ra da. Đa số các trường hợp bệnh 
thường nhẹ, nhưng khi ấu trùng di chuyển vào 
các cơ quan  trọng yếu của cơ  thể như não,  tuỷ 
sống, thì bệnh cảnh sẽ nghiêm trọng và có thể 
đưa đến tử vong(2,3,4,6,13,14,11).  
Trên thế giới, bệnh do Gnathostoma sp. được 
báo cáo nhiều ở khu vực Đông nam Á, trong đó 
có Việt Nam. Trường hợp bệnh đầu tiên tại nước 
ta được phát hiện năm 1963, và từ năm 1999 trở 
lại  đây  bệnh  được  phát  hiện  ngày  nhiều  hơn 
nhờ vào  sự phát  triển  của kỹ  thuật  chẩn  đoán 
miễn dịch học(1,13,14,11). 
Nguyên do chính để nhiễm Gnathostoma sp. 
vào người  là do ăn các  loài thuỷ sản sống hoặc 
tái như lươn, rắn, ếch nhái, cá lóc, cá trê,  hoặc 
ốc. Theo thống kê tại Viện sốt rét Ký sinh trùng 
Quy Nhơn, số  lượng ca bệnh hàng năm không 
giảm mà ngày  càng  có xu hướng gia  tăng. Có 
phải  chăng  là  do  chưa  kiểm  soát  được mầm 
bệnh trong tự nhiên mà cụ thể là từ các loại thuỷ 
sản?(1,13,14)  
Thái  Lan  đã  có  nhiều  nghiên  cứu  về  tình 
hình  nhiễm Gnathostoma  sp.  trên  lươn  nuôi  và 
lươn hoang dã  từ  trước năm  2000  đến nay  để 
đánh giá tình hình ô nhiễm mầm bệnh trong tự 
nhiên. Tại Việt nam, chưa có nhiều nghiên cứu 
về  tình  trạng này,  đặc  biệt  là  tại  các  quận  nội 
thành TP.HCM(109155).  
Thành phố Hồ Chí Minh  là đô  thị  lớn nhất 
của nước ta. Đặc biệt, những quận nội thành mật 
độ dân số cao, dân cư tập trung nhiều vì thế nhu 
cầu thức ăn từ thuỷ sản rất lớn, vấn đề an toàn 
thực phẩm càng được đặc biệt chú trọng hơn. Vì 
lẽ đó,  chúng  tôi  đã  tiến hành nghiên  cứu  tại 1 
chợ  thuộc nội  thành Tp.HCM  tìm hiểu  tỷ  lệ  ô 
nhiễm và sự phân bố mầm bệnh này trong năm.  
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định tỷ lệ và mật độ nhiễm Gnathostoma 
sp. trên gan lươn được thu thập tại chơ N. Quận 
10, tp. HCM từ tháng 3/2010 đến tháng 2/2011 
Khảo sát sự phân bố nhiễm Gnathostoma sp. 
theo tháng và theo mùa trong năm  
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả  
Địa điểm nghiên cứu 
Chợ N. quận 10.Tp.HCM và Bộ môn ký sinh 
– Vi nấm Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
Đối tượng nghiên cứu 
Lươn đựơc bán tại chợ nội thành.Tp.HCM 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  123
Dân số chọn mẫu 
Lươn đựơc bán tại chợ N. quận 10,Tp.HCM 
Cỡ mẫu 
Chọn  tất  cả mẫu gan  lươn  được bán  trong 
năm  tại địa điểm đã chọn nhằm  đáp ứng mục 
tiêu 2   
Phương pháp chọn và thu thập mẫu 
Cách  chọn:  Bốc  thăm  ngẫu  nhiên  1  quận 
trong danh sách 18 quận nội thành, được Q.10 
Tại quận 10, tiến hành chọn mẫu thuận tiện 
‐ Bốc  thăm  chọn  lựa ngẫu nhiên  1  trong  3 
chợ lớn của Q.10 là Chợ N.  
‐ Tại chợ N., có tổng thể 3 gian hàng thuỷ hải 
sản  có bán  lươn,  trong  đó  có  2 gian hàng nhỏ 
hơn  không  thường  xuyên  có  lươn,  nên  chọn 
gian  hàng  lớn  nhất  đảm  bảo  được  mẫu  mỗi 
ngày. 
‐ Tại quầy, thu thập nội tạng  lươn sau buổi 
chợ chiều. 
Tại bộ môn Ký Sinh – vi nấm học 
Nội  tạng  lươn  được  rửa  sạch  và  bóc  tách 
phần gan. 
Phần gan  lươn sẽ được phẫu  tích  tìm mầm 
bệnh bằng kim mũi mác dưới kính hiển vi  soi 
nổi Olympus (SZ51). 
Mầm bệnh  thu  được dưới dạng nang hoặc 
ấu  trùng  tự do. Chẩn đoán xác định bằng cách 
bóc tách nang để quan sát cấu trúc gai đặc biệt 
của ấu trùng. 
Thu  thập và  đếm  số  lượng  ấu  trùng  trong 
mỗi gan lươn. 
Xử lý số liệu 
Bằng phần mềm SPSS 16.0 for Windows  
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Mẫu nghiên cứu 
Tổng số mẫu gan lươn thu được: 6067 mẫu 
Bảng 1: Tỷ lệ ngày thu được mẫu  
Tháng Số Số ngày Tỷ lệ thu Số mẫu Tỷ lệ mẫu 
ngày/th
áng 
thu 
được 
mẫu 
(%) gan 
lươn 
thu được 
(%) 
3/2010 31 31 100 623 10,27 
4/2010 30 29 96,67 702 11,57 
5/2010 31 30 96,77 473 7,80 
6/2010 30 30 100 552 9,10 
7/2010 31 31 100 504 8,31 
8/2010 31 31 100 432 7,12 
9/2010 30 30 100 458 7,55 
10/2010 31 31 100 444 7,32 
11/2010 30 30 100 462 7,61 
12/2010 31 31 100 500 8,24 
1/2011 31 28 90,32 535 8,82 
2/2011 28 23 82,14 382 6,30 
Năm 365 355 97,26 6067 100 
Tỷ  lệ  ngày  thu  được mẫu  gan  lươn  trong 
năm:  97,26%  
Tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. 
0.64
0.00
1.27
3.99
5.95
4.86
1.31
2.70
6.93
3.80
5.42
4.19
3.25
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
%
3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 2 Năm
Tháng
Biểu đồ 1: Tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. trên lươn 
theo tháng trong năm 
3.25
3.39
3.12
2.95
3.00
3.05
3.10
3.15
3.20
3.25
3.30
3.35
3.40
%
Năm Mưa Khô
Mùa
Biểu đồ 2: Tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. trên lươn 
theo mùa trong năm 
Mật độ nhiễm Gnathostoma sp. 
Mật độ nhiễm  trung bình của năm: 11,05 ± 
2,69 (SE) 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  124
Bảng 2: Phân bố mật độ ấu trùng theo tháng trong 
năm 
Tháng Mẫu + Ấu trùng 
Mật độ 
TB Min Max 
Trung 
vị 
3/10 4 16 4,00 1 8 3.5 
4/10 0 0 0,00 0 0 0 
5/10 6 12 2,00 1 6 1 
6/10 22 160 7,27 1 39 4 
7/10 30 339 11,30 1 156 2 
8/10 21 157 7,48 1 34 4 
9/10 6 57 9,50 1 41 2,5 
10/10 12 192 16,00 1 88 2,5 
11/10 32 762 23,81 1 482 9 
12/10 19 96 5,05 1 62 2 
1/11 29 279 9,62 1 110 3 
2/11 16 107 6,69 1 22 4 
Bảng 3: Phân bố mật độ ấu trùng theo mùa trong 
năm 
Mùa Mẫu + Ấu trùng Mật độ TB Min Max Trung vị
Mùa 
mưa 97 917 9,45 1 156
3
Mùa 
khô 100 1260 12,6 1 482
3
Tổng 197 2177 11,05 1 482 3
BÀN LUẬN 
Mẫu nghiên cứu 
Tỷ  lệ  ngày  thu  được mẫu  trong  năm  đạt 
97,26% với  tổng  số mẫu gan  lươn  thu  được  là 
6067, cao hơn so với các nghiên cứu  trước  đây 
của Trần Phủ Mạnh Siêu (T.P.M. Siêu) năm 2009 
là 2041 mẫu và Saksirisampant W.  tại Thái  lan 
năm 2002 là 2738 mẫu(10,15). 
Số lượng mẫu thu được phân phối tương đối 
đều vào  các  tháng  trong năm  từ  6,3  –  11,57%, 
cao nhất là các tháng 3 và 4 (Bảng 1) 
Ngoài ra, một số rất ít mẫu không thu được 
do người mua lươn mang về tự làm và mổ. Việc 
tự  làm và mổ  lươn gặp nhiều  ở  các  chợ nông 
thôn hoặc ngoại thành mà hiếm khi gặp ở điều 
kiện riêng biệt của nội thành. Vì lẽ đó không ảnh 
hưởng nhiều đến cỡ mẫu của nghiên cứu. 
Tỷ lệ và mật độ nhiễm Gnathostoma sp. 
Tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. tại chợ N. quận 
10 Tp.HCM trong nghiên cứu này là 3,25%, tỷ lệ 
này thấp hơn so với tỷ lệ 11% trong nghiên cứu 
của  tác giả Lê Thị Xuân  (L.T.X) năm 2000  tại 1 
chợ ở Tp.HCM. Nghiên cứu của chúng  tôi cho 
kết quả thấp hơn có thể do tác giả L.T.X chỉ thu 
mẫu 2  lần trong một  tháng  trong khi chúng  tôi 
thu mẫu xuyên suốt các ngày trong tháng và chợ 
địa  phương  của  tác  giả  này  không  được  đề 
cập(5). Bên cạnh đó, tỷ  lệ nhiễm Gnathostoma sp. 
trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thấp  hơn  rất 
nhiều so với nghiên cứu của Saksirisampant W. 
từ 10,2% ‐ 18,2% trong năm 2008 – 2009 tại Thái 
Lan hoặc 19,1% trong năm 1999 – 2000 của chính 
tác  giả  này. Một  nghiên  cứu  khác  của  tác  giả 
Rojekittikhun W  tại huyện Nakhon Nayok  của 
Thái Lan năm 2001 có tỷ lệ nhiễm là 30,1%. Điều 
này cho thấy tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. ở lươn 
tại  Việt  Nam  thấp  hơn  nhiều  so  với  Thái 
Lan(7,8,15).  
Cũng tại Việt Nam, năm 2006 tác giả T.P.M. 
Siêu tìm thấy tỷ lệ nhiễm Gnathostoma sp. 12,2% 
và  0%  trong  cùng  1  nghiên  cứu  giữa  2  nhóm 
lươn hoang dã  và  lươn nuôi. Tỷ  lệ  nhiễm  cao 
hơn  so với  chúng  tôi bởi  tác giả  tập  trung vào 
nhóm nhỏ 230 mẫu lươn hoang dã tại chợ ngoại 
ô, trong khi tỷ lệ nhiễm là 0% cũng rơi vào nhóm 
1081  lươn hoang dã  được bán  ở  chợ  trước  đó. 
Điều này gợi cho nghiên cứu của chúng tôi việc 
phân nhóm  lươn  hoang dã  và  lươn  nuôi. Tuy 
nhiên,  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  tiến  hành  tại 
một quận nội thành, nguồn lươn đưa về bày bán 
là do đầu mối  thu gom  từ các  tỉnh  thành khác 
nhau,  việc  phân  rõ  nguồn  gốc  lươn  gặp  rất 
nhiều khó khăn. Dù vậy,  tỷ  lệ nhiễm  cao hiện 
nay là một tình trạng báo động góp phần lý giải 
tại  sao  số  trường  hợp  bệnh  không  ngừng  gia 
tăng trong những năm gần đây(10).  
Kết quả cho thấy mật độ nhiễm Gnathostoma 
sp.  ở  lươn  trung bình  trong nghiên  cứu này  là 
11,05 cao hơn nhiều so với nghiên cứu của L.T.X 
cũng  tại  TP.HCM  là  2,9. Mật  độ  nhiễm  trung 
bình  trong  các  nghiên  cứu  tại  Thái  Lan  là  10 
(Rojekittikhun W  2001),  1,65  (Sugaron  S.  2002) 
và  6,3  (Saksirisampant W.  2008  –  2009).  Như 
vậy, dù  tỷ  lệ nhiễm Gnathostoma  sp.  ở  lươn  tại 
Việt Nam thấp hơn so với Thái Lan nhưng mật 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  125
độ nhiễm  trung bình  lại  cao hơn  trong những 
năm  gần  đây.  Đặc  biệt,  trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi có cá thể lươn nhiễm tới 482 ấu trùng, 
thấp hơn giá  trị cao nhất  trong nghiên cứu của 
Rojekittikhun W (2001) là 698. Điều này cho thấy 
tình hình nhiễm mầm bệnh ở lươn tại Việt Nam 
không  chỉ báo  động về  tỷ  lệ mà  còn  ở mật  độ 
nhiễm. Và để giải thích cho việc khác biệt về tỷ 
lệ nhiễm, mật độ nhiễm giữa Việt Nam và Thái 
Lan, cần có những nghiên cứu  lớn và bao quát 
hơn không chỉ  tại Tp.HCM mà còn ở các vùng 
lân cận đặc biệt ngoại ô, nơi sử dụng nhiều lươn 
hoang dã(1,8,9,15).  
Sự phân bố nhiễm Gnathostoma  sp.  theo 
tháng và mùa trong năm 
Biểu đồ 1 cho  thấy  tỷ  lệ nhiễm Gnathostoma 
sp.  cao  nhất  vào  tháng  11(6,93%)  và  tháng  7 
(5,95%), thấp nhất là tháng 4 (0%). Nếu tính theo 
2  mùa  trong  năm  mùa  mưa  từ  tháng  5  đến 
tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 thì 
tỷ lệ nhiễm lần lượt là 3,39% và 3,12% (biểu đồ 
2). Trong mùa mưa, các  tháng giữa mùa  (6,7,8) 
có tỷ lệ nhiễm cao hơn so với các tháng còn lại. 
Còn trong mùa khô, tháng đầu mùa (11) có tỷ lệ 
nhiễm  cao. Như  vậy,  tại  tp.HCM  tỷ  lệ  nhiễm 
Gnathostoma sp. cao vào giữa mùa mưa và đầu 
mùa khô. Điều này không hoàn  toàn phù hợp 
với nghiên cứu của T.P.M Siêu, tác giả Siêu cho 
rằng tỷ lệ nhiễm tăng vào cuối mùa mưa, nhưng 
kết  quả  của  chúng  tôi  lại phù  hợp  với  nghiên 
cứu của tác giả L.T.X (2000)  là tỷ  lệ nhiễm tăng 
cao dần từ tháng 8 đến tháng 11 và giảm ở các 
tháng 2 – 5. Nguyên do có  thể  lý giải  là do  tác 
giả L.T.X  có  cách  thức  thu  thập mẫu  tương  tự 
trong khi T.P.M.Siêu thu thập mẫu ở 2 chợ khác 
biệt(5).  
Sugaroon  S nghiên  cứu  tại  1  chợ  ở  thủ  đô 
Bangkok, Thái Lan cũng cho kết quả tỷ lệ nhiễm 
thấp  vào  tháng  4,5;  tăng  cao  vào  tháng  7. 
Saksirisampant W trong 2 nghiên cứu năm 1999 
‐ 2002 và 2008 – 2009 cũng ghi nhận tỷ lệ nhiễm 
tăng  cao  nhất  vào  tháng  11  giống  nghiên  cứu 
của chúng tôi. Như vậy, tỷ lệ nhiễm Gnathostoma 
sp. trên lươn phân bố theo các tháng trong năm 
giữa Việt Nam và Thái Lan có điểm tương đồng, 
nhưng cách thức phân mùa tại Thái Lan là có 3 
mùa  trong  1  năm  khác  với  Tp.HCM  của Việt 
Nam chỉ có 2 mùa(8,9,15).  
Bảng 2, ghi nhận mật độ nhiễm  trung bình 
cao  nhất  ở  tháng  11  (23,81  AT/lươn)  và  thấp 
nhất là các tháng 4 và 5 (0 và 2 AT/lươn). Theo 
tác  giả  L.T.X  nghiên  cứu  tại  chợ  của Tp.HCM 
ghi nhận mật độ trung bình thấp vào tháng 3 và 
tháng  4  sau  đó  tăng dần  từ  tháng  6,  điều này 
phù hợp với nghiên  cứu  của  chúng  tôi nhưng 
đỉnh mật độ trung bình cao nhất rơi vào tháng 1 
là điều khác biệt(5).  
Và xét theo mùa trong năm, Bảng 3 cho thấy 
đỉnh mật độ nhiễm trung bình của mùa khô cao 
hơn mùa mưa, nhưng không có sự khác biệt về 
trung vị. 
Đỉnh mật độ trung bình cao nhất của chúng 
tôi  phù  hợp  hoàn  toàn  với  Saksirisampant W 
2008 – 2009 dù tác giả này nghiên cứu trên 2 chợ 
khác biệt với 2 nhóm  lươn nuôi và  lươn hoang 
dã nhưng vẫn cho mất độ  trung bình cao nhất 
0,36 và 3,21 AT/lươn(15).  
KẾT LUẬN 
Qua khảo sát 6067 mẫu gan  lươn  thu được 
tháng  3/2010  đến  tháng  2/2011,  chúng  tôi  thu 
được kết quả sau: 
Tỷ  lệ  nhiễm  tại  chợ  N.  Q.10,  tp.HCM  là 
3,25% thấp hơn so với Thái Lan. Tỷ lệ này tăng 
cao giữa mùa mưa và đầu mùa khô. 
Mật độ nhiễm trung bình là 11,05 ± 2,69, mật 
độ nhiễm  cao nhất vào  tháng  11 và  thấp nhất 
vào tháng 4 và tháng 5.  
KIẾN NGHỊ 
Cần chú trọng tình hình nhiễm Gnathostoma 
sp. trên lươn và các thuỷ sản tại các chợ trên địa 
bàn  thành phố và  trên cả nước. Đặc biệt  lưu ý 
vào giữa mùa mưa và tháng 11 hàng năm. 
Tăng  cường  thông  tin,  khuyến  cáo  người 
dân không  sử dụng món  ăn  tái hoặc  chế  biến 
chưa chín từ thuỷ sản. 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  126
Phát triển các nghiên cứu trên các  loài thuỷ 
sản  và  ký  chủ  khác  của Gnathostoma  sp  nhằm 
kiểm  soát  nguồn  bệnh  đang  tồn  tại  trong môi 
trường. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Komalamisra C, Nuamtanong S, Dekumyoy P.  ( 2009): Pila 
ampullacea and Pomacea canaliculata, as new paratenic hosts 
of Gnathostoma spinigerum. Southeast Asian J Trop Med Public 
Health. 2009 Mar;40(2):243‐6. 
2. Lê Thị Xuân  (2002). Ứng dụng kỹ  thuật men  (ELISA)  trong 
chẩn đoán bệnh Gnathostoma spinigerum. Tạp chíY học TP. Hồ 
Chí Minh, 2002,tr. 56 ‐ 60. 
3. Lê  Thị Xuân,  Phạm  Thị  Lệ Hoa,  Trần  Thị Huệ Vân  và  cs 
(2003).  Bệnh  nhiễm  Gnathostoma ở  người  tại  TP.  Hồ  Chí 
Minh.Tạp chí Y học thực hành, số 477, tr 117‐119. 
4. Lê Thị Xuân, Trần Vinh Hiển, Lê Xuân Tú (2001). Một trường 
hợp nhiễm  của Gnathostoma spinigerum ngoài da  tại TP. Hồ 
Chí Minh. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 2001,tr 103‐105. 
5. Le Thi Xuan, Rojekittikhun W  (2000). A  survey of  infective 
larvae of Gnathostma in eels sold in Hồ Chí Minh. Southeast 
Asian J Tro Med Public Health. 2000, p. 133‐137. 
6. Nguyễn Hữu Hoàn, Phạm Như Ý, Trương Văn Luyện (2001). 
Nhân 4 trường hợp viêm não tủy do giun Gnathostoma sp. Tạp 
chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tr 106 ‐110. 
7. Rojekittikhun W, Chaiyasith T, Nuamtanong S, Komalamisra 
C.  (2004):  Gnathostoma  infection  in  fish  caught  for  local 
consumption  in  Nakhon  Nayok  Province,  Thailand  I. 
Prevalence and fish species. Southeast Asian J Trop Med Public 
Health. 2004 Sep;35(3):523‐30. 
8. Saksirisampant  W,  Nuchprayoon  S,  Wiwanitkit  V, 
Kraivichian K, Suwansaksri J. (2002): Prevalence and intensity 
of third stage Gnathostoma spinigerum larvae in swamp eels 
sold  in  three  large markets  in Bangkok, Thailand. Southeast 
Asian J Trop Med Public Health. 2002;33 Suppl 3:60‐2. 
9. Sugaroon  S,  Wiwanitkit  V.(2003):  Gnathostoma  infective 
stage  larvae  in  swamp  eels  (Fluta  alba)  at  a metropolitan 
market  in  Bangkok,  Thailand.  Ann Clin Lab Sci. 2003 
Winter;33(1):94‐6. 
10. Trần  Phủ Mạnh  Siêu,  Trần  Thị Kim Dung, Nguyễn  Thị 
Quỳnh Nga, Dalsgaard A, Waikagul J, Murrell KD (2009): 
Prevalence  of Gnathostoma  spinigerum  infection  in wild 
and  cultured  swamp  eels  in  Vietnam.  J Parasitol. 
2009Feb;95(1):246‐8. 
11. Trần Thị Hồng  (2006) Gnathostoma  sp.  In: Trần Thị Hồng 
(Eds) Ký sinh trùng y học. 1st edition, 126 – 128, Nhà xuất bản 
Y học, TP. Hồ Chí Minh. 
12. Trần  Thị Huệ Vân  (2004).  Ứng  dụng  phương  pháp  huyết 
thanh  miễn  dịch  men  trong  chẩn  đoán  bệnh  nhiễm 
Gnathostoma  spinigerum,  Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y 
dược TP. Hồ Chí Minh, 2004 
13. Triệu Nguyên Trung, Huỳnh Hồng Quang (2011). Bệnh giun 
mới nổi‐Cập nhật y văn và  tổng hợp  thông  tin về 12 bệnh 
nhân giun đầu gai. ‐qn.org.vn  
14. Triệu Nguyên Trung, Huỳnh Hồng Quang (2012): Đặc điểm 
dịch  tễ  học  lâm  sàng  bệnh  ấu  trùng  giun  đầu  gai 
Gnathostoma  spinigerum  tại một  số  tỉnh miền  Trung‐Tây 
Nguyên . ‐qn.org.vn 
15. Wilai  S,  Benjamas  Wongsatayanon  Thanomsub  (2012): 
Positivity  and  Intensity  of  Gnathostoma spinigerum  Infective 
Larvae in Farmed and Wild‐Caught Swamp Eels in Thailand. 
Korean J Parasitol. 2012; 50(2): 113–118. 
Ngày nhận bài báo 13‐03‐2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24‐04‐2013 
Ngày bài báo được đăng: 25–09‐2013 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_tinh_hinh_nhiem_gnathostoma_spp_tren_gan_luon_monop.pdf