Khảo sát tỉ lệ nhiễm giun đường ruột và các yếu tố liên quan ở học sinh tiểu học tại Trà Vinh năm 2017
Tóm tắt – Nghiên cứu sử dụng phương pháp
cắt ngang mô tả, khảo sát phân của 800 trẻ em
tiểu học bằng bảng câu hỏi tại Trường Tiểu học
Tập Sơn và Trường Thực hành Sư phạm tại tỉnh
Trà Vinh với mục đích xác định tỉ lệ nhiễm giun
đường ruột và các yếu tố liên quan giữa tình
trạng nhiễm và các biến số nghiên cứu. Mẫu phân
được khảo sát bằng phương pháp soi trực tiếp.
Kết quả tỉ lệ nhiễm giun đường ruột ở học sinh
tiểu học tại Trà Vinh là 4,4%. Trong đó, Trường
Thực hành Sư phạm có tỉ lệ nhiễm thấp nhất
0,0%, Trường Tiểu học Tập Sơn có tỉ lệ nhiễm
cao nhất chiếm 8,8%. Chủ yếu là giun móc chiếm
tỉ lệ 100%, giun đũa 0,0%, giun tóc 0,0%. Kết
quả trên cho thấy môi trường đất ở Trường Tiểu
học Tập Sơn bị ô nhiễm trứng giun móc nặng
và việc tiếp xúc thường xuyên với đất là nguy cơ
làm nhiễm giun móc ở cộng đồng này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tỉ lệ nhiễm giun đường ruột và các yếu tố liên quan ở học sinh tiểu học tại Trà Vinh năm 2017
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 32, THÁNG 12 NĂM 2018 KHẢO SÁT TỈ LỆ NHIỄM GIUN ĐƯỜNG RUỘT VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC SINH TIỂU HỌC TẠI TRÀ VINH NĂM 2017 Nguyễn Hữu Anh1 STUDY ON INTESTINAL PARASITIC INFECTION AND RELATIONSHIPS BETWEEN THE INFECTIONS AND CORRELATED FACTORS ON SCHOOLCHILDREN AT TRA VINH PROVINCE IN 2017 Nguyen Huu Anh1 Tóm tắt – Nghiên cứu sử dụng phương pháp cắt ngang mô tả, khảo sát phân của 800 trẻ em tiểu học bằng bảng câu hỏi tại Trường Tiểu học Tập Sơn và Trường Thực hành Sư phạm tại tỉnh Trà Vinh với mục đích xác định tỉ lệ nhiễm giun đường ruột và các yếu tố liên quan giữa tình trạng nhiễm và các biến số nghiên cứu. Mẫu phân được khảo sát bằng phương pháp soi trực tiếp. Kết quả tỉ lệ nhiễm giun đường ruột ở học sinh tiểu học tại Trà Vinh là 4,4%. Trong đó, Trường Thực hành Sư phạm có tỉ lệ nhiễm thấp nhất 0,0%, Trường Tiểu học Tập Sơn có tỉ lệ nhiễm cao nhất chiếm 8,8%. Chủ yếu là giun móc chiếm tỉ lệ 100%, giun đũa 0,0%, giun tóc 0,0%. Kết quả trên cho thấy môi trường đất ở Trường Tiểu học Tập Sơn bị ô nhiễm trứng giun móc nặng và việc tiếp xúc thường xuyên với đất là nguy cơ làm nhiễm giun móc ở cộng đồng này. Từ khóa: kí sinh trùng đường ruột, học sinh tiểu học, giun móc. Abstract – The research used a cross-sectional method, which was conducted on 800 primary students in Tap Son primary school and Labora- tory school in TraVinh province in order to iden- tify the prevalence of soil-transmitted nematode 1Sinh viên, Khoa Y - Dược khóa 2014, Trường Đại học Trà Vinh Ngày nhận bài: 06/06/2018; Ngày nhận kết quả bình duyệt: 17/12/2019; Ngày chấp nhận đăng: 26/03/2019 Email: huuanhcamau994@gmail.com 1Student, School of School of Medicine and Pharmacy, Tra Vinh University Received date: 06th June 2018 ; Revised date: 17th December 2019; Accepted date: 26th March 2019 infections and the relationship between the infec- tion and correlated factors. Stool samples were examined with direct smear method. The rate of intestinal parasitic infection on the primary students in TraVinh province was 4,4%. Of which, Laboratory school had the least rate of intestinal parasitic infection with 0,0%, while Tap Son primary school had the highest rate of intestinal parasitic infection with 8,8%. Hookworm was the predominant nematode (100%), followed As- carislumbricoides (0,0%), and Trichuristrichiura (0,0%). These relationships show that Tap Son primary environment is heavily polluted with hookworm eggs and that directly behavioral ex- posure to soil is a risk related to hookworm infections in the community. Keywords: intestinal parasitic infection, pri- mary students, hookworm. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiễm kí sinh trùng đường ruột, đặc biệt là các loại giun tóc, giun móc còn rất phổ biến ở hầu hết các nước đang phát triển, nơi có điều kiện khí hậu nóng ẩm, vệ sinh môi trường kém, nhiều phong tục và tập quán lạc hậu, nền kinh tế nghèo nàn. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính trong năm 2007 có khoảng 1,4 tỉ người nhiễm giun đũa, 1 tỉ người nhiễm giun tóc và 1,2 tỉ người nhiễm giun móc/mỏ. Trung tâm Hợp tác của WHO tại Oxford ước tính có 214 triệu người nhiễm giun đũa, 130 triệu người nhiễm giun tóc và ít nhất 98 triệu người nhiễm giun móc gây nhiều tác hại về lâm sàng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe 29 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 32, THÁNG 12 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG con người, nhất là trẻ em, làm suy dinh dưỡng, giảm khả năng phát triển về thể chất và trí tuệ cũng như khả năng học tập, còn gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như tắc ruột do giun, giun chui ống mật..., thậm chí còn là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến tử vong [1]–[3]. Các loại giun kí sinh đường ruột phổ biến ở trẻ em là: giun đũa, giun tóc, giun móc, giun kim, giun lươn. . . Trong đó, nhiều trẻ bị nhiễm phối hợp hai hoặc cả ba loại giun. Vì vậy, việc nhiễm giun đường ruột là một trong những vấn đề cần được ưu tiên trong chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Việt Nam là một nước nhiệt đới nóng ẩm với tập quán sinh hoạt, vệ sinh ăn uống thuận lợi cho kí sinh trùng đường ruột lưu hành. Tỉ lệ nhiễm kí sinh trùng có khác nhau giữa các vùng địa lí và tập quán của từng vùng. Trà Cú là một huyện duyên hải thuộc tỉnh Trà Vinh, huyện có đông đồng bào Khmer nhất tỉnh, chiếm 60% tổng dân số toàn huyện, chủ yếu sinh sống ở các xã vùng xa. Xã Tập Sơn thuộc huyện Trà Cú có dân số khoảng 8.941 người, trong đó trẻ em đang độ tuổi đi học dễ nhiễm bệnh giun kí sinh đường ruột do tình trạng vệ sinh môi trường còn nhiều bất cập, rác thải sinh hoạt chưa được thu gom đúng cách, người dân có thói quen ăn rau sống, uống nước lã, đi chân đất. Bệnh giun đường ruột tác hại đến mọi lứa tuổi, nhưng quan trọng nhất vẫn là trẻ em ở các trường tiểu học. Vì ở lứa tuổi này, học sinh (HS) thường bị suy dinh dưỡng do đang qua thời kì phát triển mạnh về thể chất và trí tuệ. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu: 1. Xác định tỉ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc ở HS Trường Tiểu học Tập Sơn huyện Trà Cú và HS tiểu học Trường Thực hành Sư phạm Đại học Trà Vinh 2. Mối tương quan giữa các yếu tố nguy cơ và tỉ lệ nhiễm giun đường ruột Chúng tôi nhận thấy cần biết được tình hình nhiễm giun kí sinh đường ruột ở HS tiểu học tại Trà Vinh để có cơ sở đề ra biện pháp phòng chống cụ thể, khả thi, đóng góp thêm cho chương trình phòng chống kí sinh trùng đường ruột đang triển khai trên phạm vi cả nước trong mục tiêu sức khỏe cho mọi người và làm nền móng cho các nghiên cứu sâu hơn về sau này. II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU Theo điều tra của WHO (1998), tính chung trên thế giới có 1,4 tỉ người nhiễm giun đũa, 1,3 tỉ người bị nhiễm giun móc/mỏ và 1 tỉ người bị nhiễm giun tóc, trong đó trẻ em 6-12 tuổi có tỉ lệ nhiễm cao nhất [1]. Theo kết quả nghiên cứu của Mangali A tại Indonesia bằng phương pháp Kato – Katz và Harada Mori, Formaline Ether, tỉ lệ nhiễm giun móc là 8,8% [4]. Kết quả nghiên cứu của Feng Zeng tại tỉnh Hải Nam, Trung Quốc ghi nhận tỉ lệ nhiễm giun móc là 60,9% [5]. Tuy nhiên, cả hai tác giả chỉ nghiên cứu giun móc nên chưa nghiên cứu được tỉ lệ nhiễm giun tóc và giun đũa. Phương pháp nghiên cứu của hai công trình cũng tốn nhiều thời gian, dụng cụ. Tại Tyrol, Autralia, kết quả thống kê tình hình nhiễm giun đường ruột cho thấy tỉ lệ nhiễm ngày càng giảm: 26% (1945), 0.98% (1985), 0,24% (1990-2000). Tác giả giải thích do Australia là một nước có điều kiện kinh tế xã hội phát triển, mức sống người dân cao, người dân có ý thức giữ gìn vệ sinh tốt. Đồng thời, có thể do điều kiện môi trường không thuận lợi cho giun phát triển nên tỉ lệ nhiễm giun thấp [6]. Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Á, có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Mặt khác, một số địa phương ở Việt Nam có nền kinh tế chưa phát triển, nhiều phong tục, tập quán lạc hậu. . . Tất cả những yếu tố đó tạo điều kiện cho bệnh giun truyền qua đất tồn tại và phát triển. Theo kết quả điều tra của Nguyễn Ngọc Ánh tại xã Tân Thủy, huyện Ba Tri, Bến Tre (2013), tỉ lệ nhiễm giun chung là 7,8%, đa số là nhiễm giun móc (77,8%), giun đũa (14,8%), giun tóc (7,4%), tất cả các trường hợp đều là đơn nhiễm [7]. Tác giả đã trình bày được tỉ lệ nhiễm từng loại giun ở các em học sinh tuy nhiên tác giả chỉ nghiên cứu ở một trường nông thôn và không so sánh được tỉ lệ nhiễm giun giữa nông thôn và thành thị. Theo kết quả điều tra của Vũ Thị Bình Phương, tỉ lệ nhiễm giun ở 6.570 bệnh nhân đến khám và điều trị tại Trường Đại học Y Thái Bình là 44,2% [8]. Tuy tác giả đã nêu được tỉ lệ nhiễm giun trên bệnh nhân nhưng chưa so sánh tỉ lệ nhiễm giun giữa người lớn và trẻ em cũng như chưa so sánh được tỉ lệ nhiễm giữa nông thôn và thành thị. Hiện nay, chúng tôi chưa tìm thấy công trình nghiên cứu nào liên quan đến vấn đề nhiễm 30 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 32, THÁNG 12 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG giun đường ruột ở HS tiểu học trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU A. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu: Theo phương pháp tính cỡ mẫu tối thiểu cho một nghiên cứu ngang mô tả, số cá thể cần khảo sát cho một điểm nghiên cứu để xác định tỉ lệ nhiễm giun là: n = Z2 1− ∂ 2 × P (1− P ) d2 Trong đó: n: là số mẫu cần có. P = trị số mong muốn tỉ lệ, dựa X trên nghiên cứu của Vũ Thị Bình Phương. Lấy P = 0,442 [8]. d: là độ chính xác mong muốn (chọn d = 0,05). Z2(1-α/2) = 1,962 = hệ số tin cậy. Thế các giá trị trên vào công thức tính cỡ mẫu, ta tính được cỡ mẫu nghiên cứu là n = 380. Để giảm sai số, cỡ mẫu được cộng thêm 5% (19 HS). Vậy mỗi điểm nghiên cứu có 400 em. Cỡ mẫu cần điều tra xét nghiệm phân ở hai điểm là: 400 HS x 2 điểm = 800 HS. Cách chọn mẫu: Chọn mẫu bằng phương pháp ngẫu nhiên phân tầng và phương pháp ngẫu nhiên đơn. Tiêu chuẩn chọn vào nghiên cứu: - Toàn bộ HS từ lớp 1 đến lớp 5 tại Trường Tiểu học Tập Sơn và HS tiểu học Trường Thực hành Sư phạm Đại học Trà Vinh có mặt tại thời điểm nghiên cứu. - Đồng ý tham gia nghiên cứu - Có mẫu phân đạt yêu cầu - Trả lời đầy đủ vào bảng câu hỏi soạn sẵn Tiêu chuẩn loại trừ: - Uống thuốc tẩy giun trong vòng sáu tháng. - Không thuộc nhóm HS tiểu học - Không có mặt tại thời điểm nghiên cứu - Mẫu phân không đạt yêu cầu B. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 12 năm 2017 đến tháng 6 năm 2018. Mẫu phân được thu thập từ 800 HS tiểu học ở hai trường là Trường Tiểu học Tập Sơn và Trường Thực hành Sư phạm. C. Phương pháp thu thập số liệu Thu thập mẫu phân - Phân đựng vào lọ sạch, có dán nhãn để ghi tên, tuổi, mã số (cộng tác viên phải ghi đầy đủ các thông tin trước khi phát cho từng HS). - Cộng tác viên hướng dẫn tỉ mỉ cho HS lớp 4 và lớp 5 cách lấy phân; còn HS lớp 1, lớp 2 và lớp 3 hướng dẫn phụ huynh lấy. - Hướng dẫn HS sau khi lấy mẫu phân sẽ cho vào lọ chứa dung dịch F2AM và lắc để phân tan. - Hẹn HS nộp lại mẫu bệnh phẩm phân vào ngay sáng hôm sau, cộng tác viên kiểm tra số lượng phân của mỗi lọ bệnh phẩm, mã số của từng người, thu lại và bàn giao cho nhóm xét nghiệm ngay buổi sáng hôm đó. Kỹ thuật KAP - Phát phiếu khảo sát cho tất cả phụ huynh của HS trong nhóm nghiên cứu. - Để hạn chế sai số, chúng tôi tập huấn kĩ năng thành thạo cho các điều tra viên của đội nghiên cứu và trước khi phát phiếu khảo sát KAP, điều tra thử 15 phụ huynh bất kì để hoàn chỉnh kĩ năng hoặc sửa đổi câu hỏi cho phù hợp với hiểu biết của phụ huynh. Các biến số được khảo sát trong nghiên cứu: (Bảng 1 và Bảng 2) D. Phương pháp xét nghiệm mẫu Sử dụng kĩ thuật soi phân trực tiếp với nước muối sinh lí NaCl 0,85%. Cách tiến hành: - Trên một tấm lame sạch, khô, dùng bút chì sáp chia lame ra làm ba phần. Hai phần bằng nhau và phần nhỏ ghi tên người được xét nghiệm (XN). - Dùng pipette nhựa hút hai giọt phân đã bảo quản trong dung dịch F2AM lên lam kính. Một giọt ở ô giữa và một giọt ở ô cuối. - Sau đó bỏ pipette nhựa vào dung dịch sát trùng, phủ lamelle lên hai giọt phân và khảo sát kính hiển vi. - Mỗi mẫu chia làm hai tiêu bản để hạn chế âm tính giả. 31 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 32, THÁNG 12 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG Bảng 1: Nhóm biến số phụ thuộc Nhóm biến số Tên biến số Định nghĩa phân loại Loại biến số Kĩ thuật thu thập Nhóm biến số phụ thuộc Nhiễm giun đũa Có/không Danh định Xét nghiệm phân Nhiễm giun tóc Có/không Danh định Xét nghiệm phân Nhiễm giun móc/mỏ Có/không Danh định Xét nghiệm phân Nhiễm 2 loại giun Có/không Danh định Xét nghiệm phân Nhiễm 3 loại giun Có/không Danh định Xét nghiệm phân Bảng 2: Nhóm biến số độc lập Nhóm biến số Tên biến số Định nghĩa phân loại Loại biến số Kỹ thuật thu thập Nhóm biến số độc lập Tuổi Được tính theo dương lịch Liên tục Bộ câu hỏi Giới Nam hoặc Nữ Nhị phân Bộ câu hỏi Ăn rau sống Thực hành của đối tượng Phân loại Bộ câu hỏi Uống nước lã Thực hành của đối tượng Phân loại Bộ câu hỏi Rửa tay trước khi ăn Thực hành của đối tượng Phân loại Bộ câu hỏi Rửa tay sau khi đi đại tiện Thực hành của đối tượng Phân loại Bộ câu hỏi Đi chân đất Thực hành của đối tượng Danh định Bộ câu hỏi Sử dụng hố xí Thực hành của đối tượng Danh định Bộ câu hỏi Biết đường lây truyền của giun Kiến thức của đối tượng Phân loại Bộ câu hỏi Biết tác hại của nhiễm giun Kiến thức của đối tượng Phân loại Bộ câu hỏi E. Phương pháp đánh giá kết quả Xác định tỉ lệ nhiễm giun: F. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu - Các kết quả nghiên cứu được ứng dụng phục vụ sức khoẻ cộng đồng. - Đối tượng nghiên cứu hiểu rõ và đồng ý hợp tác trong nghiên cứu. - Không can thiệp và không có bất kì tác động có hại nào lên bệnh nhân. - Kiến nghị phòng chống giun cho HS tiểu học từ kết quả nghiên cứu. G. Phương pháp xử lí số liệu Số liệu được xử lí bằng phần mềm SPSS 20.0. IV. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN - Tổng số mẫu thu thập: 800 mẫu - Tỉ lệ nhiễm giun đường ruột tại Trường Tiểu học Tập Sơn là 8,8%, Trường Thực hành Sư phạm là 0,0%. Chủ yếu là giun móc. 32 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 32, THÁNG 12 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG Bảng 3: Tỉ lệ nhiễm giun Trường Mẫu XN Giun đũa Giun tóc Giun tóc n % n % n % Tập sơn 400 0 0,0 0 0,0 35 8,8 THSP 400 0 0 0 0 0 0 Chung 800 0 0,0 0 0,0 35 4,4 (Nguồn: tác giả khảo sát) Tỉ lệ nhiễm giun ở Trường Tiểu học Tập Sơn là 8,8%, trong đó nhiễm giun đũa và giun tóc là 0,0%, nhiễm giun móc là 8,8%, cao hơn Trường Thực hành Sư phạm (8,8% so với 0,0%). Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Ánh tại Bến Tre [7] trên đối tượng là HS tiểu học về tỉ lệ nhiễm giun chung (8,8% so với 7,8%). Trong đó, tỉ lệ nhiễm giun móc trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn (100% so với 77,8%), còn nhiễm giun đũa và giun tóc trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn (0,0% so với 14,8% và 7,4%). Nguyên nhân có thể là do sinh địa cảnh của tỉnh Bến Tre và của Trà Vinh tương tự nhau và người dân đều có một số đặc điểm giống nhau như thói quen tiếp xúc đất và sử dụng hố xí không hợp vệ sinh. Tuy nhiên, nhiễm giun chung của chúng tôi thấp hơn kết quả điều tra của Vũ Thị Bình Phương [8] (8,8% so với 44,2%) và cao hơn kết quả điều tra tại Tyrol, Autralia [6]. So sánh tỉ lệ nhiễm giun giữa hai trường, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ nhiễm giun ở Trường Tiểu học Tập Sơn cao hơn Trường Thực hành Sư phạm (8,8% so với 0,0%). Nguyên nhân có thể do HS ở Trường Thực hành Sư phạm có điều kiện kinh tế tốt hơn các HS ở Trường Tiểu học Tập Sơn. Mặt khác, đa số HS ở Trường Tiểu học Tập Sơn là dân tộc thiểu số và sống ở vùng sâu, vùng xa, không đủ điều kiện tiếp cận với chương trình y tế quốc gia về phòng chống giun đường ruột và còn tồn tại một số thói quen ảnh hưởng trực tiếp đến nhiễm giun ở HS như không mang dép khi đi ruộng, câu cá, chăn bò, đá bóng. . . và một số em còn đi cầu trực tiếp lên mặt đất. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) về tỉ lệ nhiễm giun giữa hai độ tuổi ở Trường Tiểu học Tập Sơn. Nhóm tuổi 10 -11 tuổi có tỉ lệ nhiễm ... 4%) 765 (95,6%) 800 (100%) P=0,002 Tiếp xúc đất Có 22 (3,8%) 557 (96,2%) 579 (100%) Không 13 (5,9%) 208 (94,1%) 221 (100%) Tổng 35 (4,4%) 765 (95,6%) 800 (100%) P=0,245 Ăn rau xanh Có 31 (5,3%) 553 (94,7%) 584 (100%) Không 4 (1,9%) 212(98,1%) 216 (100%) Tổng 35 (4,4%) 765 (95,6%) 800 (100%) P=0,033 Rửa tay hợp vệ sinh Có 33 (4,2%) 750 (95,8%) 783 (100%) Không 2 (11,8%) 15 (88,2%) 17 (100%) Tổng 35 (4,4%) 765 (95,6%) 800 (100%) P=0,168 Uống nước đun sôi Có 27 (4,8%) 537 (95,2%) 564 (100%) Không 8 (3,4%) 228 (96,6%) 236 (100%) Tổng 35 (4,4%) 765 (95,6%) 800 (100%) P=0,452 (Nguồn: tác giả khảo sát) Phan Tấn Hùng [10], tác giả cho rằng việc các HS đi cầu bừa bãi và sân trường chủ yếu là đất cát là một trong những nguyên nhân làm tăng tỉ lệ nhiễm ô nhiễm do trứng giun. Ở Trường Tiểu học Tập Sơn, tuy hố xí ở trường học được xây dựng kiên cố, vệ sinh nhưng các HS không đi vệ sinh ở đây do thiếu nước mà chủ yếu đi ở rẫy mía và cầu cây gần trường học. Như vậy, hố xí không sử dụng được cùng với thói quen dùng hố xí rất thấp, cũng có nghĩa là vấn đề nhận thức của các HS chưa thật sự cao, không đủ chuyển hóa thành hành động đúng. Mặt khác, sân trường là sân đất do đó ô nhiễm đất do trứng giun là tất yếu. Trong khi đó, ở Trường Thực hành Sư phạm, hố xí được xây dựng kiên cố, nguồn nước tương đối đầy đủ và ý thức của các HS về việc vệ sinh cá nhân cao do phụ huynh của các HS đa số là cán bộ công tác tại một số cơ quan trên địa bàn Thành phố Trà Vinh, hơn nữa ý thức của các HS cao còn do sự tập huấn từ phía nhà trường nên tỉ lệ nhiễm giun của các HS là rất thấp. Kết quả điều tra của Nguyễn Châu Thành [11] cho thấy HS có gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh có tỉ lệ nhiễm giun thấp hơn những HS có gia đình sử dụng hố xí không hợp vệ sinh, sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Tác giả cho rằng do việc sử dụng hố xí không hợp vệ sinh kết hợp với hiểu biết không đầy đủ về nhiễm giun nên tỉ lệ nhiễm giun móc/mỏ cao. Kết quả nghiên cứu của Lê Khánh Thuận và cộng sự [12] về sự phân bố bệnh giun sán ở 10 tỉnh ven biển miền trung Việt Nam nhận thấy nhiễm giun móc khá cao ở những vùng này là do việc sử dụng hố xí không đủ, không hợp vệ sinh, tập quán đi ngoài ra các bãi biển, bãi cát làm tăng thêm sự lây nhiễm của ấu trùng giun móc. Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả trên, có sự tương quan giữa việc sử dụng hố xí không hợp vệ sinh với tỉ lệ nhiễm giun móc. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05) giữa tỉ lệ nhiễm giun và thói quen tiếp xúc đất. Nhóm trẻ không tiếp xúc đất có tỉ lệ nhiễm giun cao hơn nhóm trẻ tiếp xúc đất (5,9% so với 3,8%). Trong đó, tại Trường Tiểu học Tập Sơn, tỉ lệ HS tiếp xúc đất là 78%, so với Trường Thực hành Sư phạm là 17%. Ở Trường Tiểu học 35 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 32, THÁNG 12 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG Tập Sơn, các HS vẫn còn giữ các thói quen đi chân đất trong các hoạt động hằng ngày như nhảy dây, bắn bi, đá bóng, đi vệ sinh. . . Mặt khác, sân trường chủ yếu là sân đất cho nên việc HS đi chân đất trên các bề mặt đất xốp ẩm tạo điều kiện cho ấu trùng giun móc xâm nhập qua da gây bệnh; còn ở Trường Thực hành Sư Phạm, sân trường đã được lót gạch khang trang và thói quen mang giày khi đi học làm cho HS khó bị nhiễm hơn các bạn ở Trường Tiểu học Tập Sơn. So với kết quả điều tra của YBLIU ARUL [13], việc người dân không di giày dép thường xuyên trong lao động làm cho tỉ lệ nhiễm giun tăng cao. Tác giả giải thích do đặc điểm thổ nhưỡng của đất đỏ bazan rất dính vào mùa mưa, khó đi nên để đi lại dễ dàng hơn người dân thường không đi giày dép trong lao động. Đây là yếu tố nguy cơ nhiễm giun móc/mỏ. Các tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Lưu và cộng sự [14] điều tra tình hình nhiễm giun đường ruột ở huyện Củ Chi cũng nhận định người có thói quen tiếp xúc đất có nguy cơ nhiễm giun cao gấp hai lần người không có thói quen tiếp xúc đất. Có sự khác biệt với nghiên cứu của chúng tôi về ý nghĩa thống kê, điều này có thể là do phụ huynh HS không thể quản lí được các hoạt động của các HS khi các HS học ở trường như nhặt rác bằng tay trần, đi tiêu trên đất, không mang dép khi đi đá bóng, bắn bi. . . nên điền vào phiếu khảo sát kém khách quan về thói quen tiếp xúc đất của HS. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa tỉ lệ nhiễm giun và thói quen ăn rau sống. Nhóm trẻ ăn rau sống có tỉ lệ nhiễm giun cao hơn nhóm trẻ không ăn rau sống (5,3% so với 1,9%). Do đặc thù ở xã Tập Sơn, huyện Trà Cú, người dân chủ yếu trồng hoa màu, rau cung cấp cho bữa ăn chủ yếu là tự trồng và thói quen đi chân đất, không sử dụng bao tay của người khi hái rau là một trong những yếu tố thuận lợi tạo điều kiện cho ấu trùng giun móc/mỏ xâm nhập qua da gây bệnh. Mặt khác, họ không sử dụng một số dung dịch thông dụng để rửa rau. Đối với Trường Thực hành Sư phạm, HS ăn rau được mua tại các chợ trên địa bàn Thành phố Trà Vinh. Sau khi về, rau được rửa với nước muối và ngâm trong nước khá lâu nên khả năng nhiễm giun thấp hơn nhiều. So với kết quả điều tra của Nguyễn Châu Thành [11] tại ĐăkLăk, tỉ lệ nhiễm giun ở nhóm HS thường xuyên ăn rau sống và tỉ lệ nhiễm giun ở nhóm HS không ăn rau sống là tương tự nhau (36,22% so với 36,25%). So sánh với nghiên cứu của chúng tôi về thói quen ăn rau sống và tỉ lệ nhiễm giun, nhóm HS ăn rau sống trong nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ nhiễm giun thấp hơn (36,22% so với 5,3%), tỉ lệ nhiễm giun ở nhóm không ăn rau sống của chúng tôi cũng thấp hơn (1,9% so với 36,25%). Cũng theo Nguyễn Châu Thành, có 94,2% HS không ăn rau sống so với nghiên cứu của chúng tôi có 90,25% HS có thói quen ăn rau sống vì ở đây người dân chủ yếu trồng cà phê và các cây công nghiệp lâu năm. Còn ở địa bàn nghiên cứu của chúng tôi, người dân chủ yếu trồng hoa màu, trồng mía và nuôi cá nước ngọt. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05) giữa tỉ lệ nhiễm giun và thói quen rửa tay hợp vệ sinh. Nhóm trẻ rửa tay không hợp vệ sinh có tỉ lệ nhiễm giun cao hơn nhóm trẻ rửa tay hợp vệ sinh (11,8% so với 4,2%). Nguyên nhân là do ở Trường Tiểu học Tập Sơn có bồn rửa tay thông dụng nhưng không có xà phòng nên HS chủ yếu rửa bằng nước giếng chưa qua xử lí, một số em còn rửa tay bằng nước ở các ao hồ quanh trường học không hợp vệ sinh làm tăng nguy cơ nhiễm giun móc. Tại Trường Thực hành Sư phạm, bồn rửa tay của HS được trang bị xà phòng rửa tay nhanh nên toàn bộ HS đều rửa tay ở đó, làm giảm nguy cơ nhiễm giun. So với kết quả điều tra của Khúc Thị Tuyết Hường [9], 64,5% trẻ bị nhiễm giun không rửa tay thường xuyên và 50,8% trẻ bị nhiễm giun có rửa tay thường xuyên. Theo kết quả điều tra của YBLIU ARUL [13], những người không rửa tay thường xuyên trước khi ăn và sau khi đi đại tiện có tỉ lệ nhiễm giun đũa cao hơn những người thường xuyên rửa tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiện và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Kết quả của hai tác giả trên là phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi, có thể là do điều kiện khí hậu và vệ sinh môi trường ở khu vực nghiên cứu của chúng tôi và các khu vực trên gần giống nhau. Tuy nhiên, theo Carme B et al. [15], tại Ấn Độ, tỉ lệ nhiễm giun móc cao liên quan đến đi chân đất, ít khi xâm nhập qua tay. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05) giữa tỉ lệ nhiễm giun và thói quen uống nước đun sôi. Nhóm trẻ có thói quen uống nước đun sôi có tỉ lệ nhiễm giun cao hơn nhóm trẻ không có thói quen uống nước đun sôi (4,8% so với 3,4%) do đặc thù giun móc chỉ xâm nhập qua da không xâm nhập qua đường ăn uống nên không có sự khác biệt về tỉ lệ nhiễm giun và thói 36 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 32, THÁNG 12 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG quen uống nước đun sôi giữa hai trường. So với kết quả điều tra của YBLIU ARUL [13], những người thường xuyên uống nước lã có tỉ lệ nhiễm giun đũa cao hơn những người không uống nước lã. Sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Mặt khác, tác giả cho rằng những yếu tố như uống nước lã, rửa tay trước khi ăn sau khi đi đại tiện chưa có liên quan đến tỉ lệ nhiễm giun móc/mỏ. Kết quả này không tương quan với nghiên cứu của chúng tôi là do giun đũa lây qua đường tiêu hóa còn giun móc xâm nhập qua da. Theo kết quả của Phan Tấn Hùng [10], đánh giá hiểu biết của HS về phòng chống giun truyền qua đất, 100% HS cho rằng nên dùng nước sạch và thức ăn nấu chín. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 70,5% HS cho rằng nên dùng nước đun sôi và 29,5% không dùng nước đun sôi. Như vậy, tỉ lệ HS cho rằng nên dùng nước sạch của tác giả trên cao hơn chúng tôi. Như vậy, theo chúng tôi tình hình nhiễm giun móc cao ở Trường Tiểu học Tập Sơn là do thói quen nghịch đất cát (78% đối tượng nghiên cứu ở Trường Tiểu học Tập Sơn hay tiếp xúc với đất). Tỉ lệ này là khá cao và cũng là nguyên nhân trực tiếp làm tỉ lệ nhiễm giun móc cao tại trường này. Ngoài ra, thói quen rửa tay không hợp vệ sinh, ý thức sử dụng nhà vệ sinh kém và thói quen ăn rau sống làm tăng nguy cơ nhiễm giun ở Trường Tiểu học Tập Sơn. Về tỉ lệ nhiễm giun thấp, theo chúng tôi không phải do ý thức vệ sinh cá nhân của trẻ thấp mà là do trẻ đã hình thành thói quen tẩy giun định kì hằng năm. Về tỉ lệ đơn nhiễm và đa nhiễm giun đường ruột Tất cả các trường hợp đều là đơn nhiễm giun móc. Không ghi nhận được trường hợp nào đa nhiễm từ hai loại giun trở lên. V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ A. Kết luận Qua kết quả nghiên cứu tình hình nhiễm giun đường ruột tại Trà Vinh, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau: Tỉ lệ nhiễm giun tại Trường Tiểu học Tập Sơn là 8,8% và Trường Thực hành Sư phạm là 0,0%. Tất cả các trường hợp đều nhiễm giun móc và không ghi nhận trường hợp nào nhiễm giun đũa và giun tóc. Các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến nhiễm giun đường ruột: - Thói quen nghịch đất và đi chân đất là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất dẫn đến tỉ lệ nhiễm giun móc/mỏ cao tại trường này. Ngoài ra, nhiễm giun còn liên quan đến độ tuổi, dân tộc, thói quen ăn rau sống, việc sử dụng hố xí không hợp vệ sinh và kinh tế gia đình. - Vấn đề vệ sinh cá nhân có thể không còn là vấn đề nan giải của cộng đồng. B. Kiến nghị Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị sau: 1. Cần điều trị giun hàng loạt định kì sáu tháng một lần cho HS các dân tộc vùng sâu, vùng xa xã Tập Sơn nói riêng và tỉnh Trà Vinh nói chung. 2. Chú trọng các biện pháp tuyên truyền giáo dục sức khỏe để nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của HS về phòng chống các bệnh giun sán nói chung và giun truyền qua đất nói riêng, nhất là các vùng dân tộc ít người. 3. Vận động và khuyến khích tất cả hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh. 4. Tiến hành những nghiên cứu tiếp theo có tính chất can thiệp và đánh giá hiệu quả sau can thiệp đối với việc phòng và điều trị nhiễm giun kí sinh đường ruột. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, các Phòng, Khoa chức năng, Khoa Y – Dược và các Bộ môn thuộc Trường Đại học Trà Vinh đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn ThS. Trần Quốc Huy, người thầy với tấm lòng tận tụy, đã nhiệt tình hướng dẫn, động viên, trực tiếp giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài này. Tôi xin gửi đến các Thầy, Cô trong Bộ môn Xét nghiệm Y khoa và Khoa Y – Dược, Trường Đại học Trà Vinh lời cảm ơn sâu sắc về sự tâm huyết trong mỗi bài giảng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành đề tài. Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến các bạn lớp Đại học Xét nghiệm Y học khóa 2014 đã giúp đỡ tôi trong quá trình xét nghiệm mẫu. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Tổ chức Y tế thế giới. Hướng dẫn công tác phòng chống các bệnh giun truyền qua đất và thiếu máu do giun. Hà Nội: Nhà Xuất bản Y học Hà Nội; 2000. 37 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 32, THÁNG 12 NĂM 2018 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG [2] Đỗ Dương Thái, Nguyễn Thị Minh Tâm, Phạm Văn Thân, Phạm Trí Tuệ, Đinh Văn Bền. Ký sinh trùng và bệnh Ký sinh trùng ở người. Hà Nội: Nhà Xuất bản Y học Hà Nội; 1974. [3] Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn. Đánh giá kết quả phòng chống Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng năm 2007 và triển khai kế hoạch năm 2008 khu vực miền Trung-Tây nguyên. Báo cáo tại Hội nghị Phòng chống Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng; 2008. [4] Mangali A, Syafruddin Sasabone P, Abadi K, Hasegawa H, Toma T, Kamimura K, et al. Prevallence of intestinal helminthic infections in Kao District, north Halmahera, Indonesia. Southeast Asian J Trop Med Public Health. 1994;p. 72–567. [5] Feng Zeng. Tình hình dịch tễ hiện nay và phòng chống các bệnh giun sán đường ruột và các bệnh ký sinh trùng truyền qua thức ăn ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tạp chí Phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng. 2000;p. 62–65. [6] Tomaso H, Allerberger F, Dierich MP. Helminthic infestations in the Tyrol, Austria. Clin Microbiol Infection. 2001;p. 639–641. [7] Nguyễn Ngọc Ánh, Dương Công Thịnh, Trương Văn Lợi, Đỗ Tấn Hồng, Phạm Thị Kim Thoa, Trần Thị Xuyến, et al. Đánh giá hiệu quả tẩy giun của Albendazone ở học sinh tiểu học xã Tân Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 2013;17(1):99–104. [8] Vũ Thị Bình Phương, Hoàng Thị Út Trà, Nguyễn Thị Duyên. Thực trạng nhiễm ký sinh trùng đường ruột trên bệnh nhân xét nghiệm tại khoa Vi sinh - ký sinh trùng Bệnh viện Đại học Y Thái Bình từ 2008-2010. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 2012;16(1):7–10. [9] Khúc Thị Tuyết Hường. Nghiên cứu thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh hai trường mầm non tại Thái Nguyên và kết quả tẩy giun bằng thuốc Albendazole [Luận văn Thạc sĩ]. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên; 2009. [10] Phan Tấn Hùng. Tình hình nhiễm Ascaris lum- bricoides, Trichuris trichiura, Ancylostoma duoe- nale/Necator americanus tại trường cấp I Y Wang trên địa bàn thành phố Buông Mê Thuột và hiệu quả điều trị liều duy nhất Mebendazone 500mg [Luận văn Thạc sĩ]. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên; 2009. [11] Nguyễn Châu Thành. Đánh giá tình hình nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tại hai xã thuộc huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk [Luận văn Thạc sĩ]. Trường Đại học Tây Nguyên; 2009. [12] Lê Khánh Thuận, Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Văn Khá. Nghiên cứu sự phân bố bệnh giun sán ở 10 tỉnh ven biển miền trung - Việt Nam. Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học 1996 – 2000; 2000. Tr. 10-606. [13] Ybliu Arul. Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ nhiễm giun truyền qua đất ở người Ê Đê Buôn Buoorr và Earang tỉnh Đăk Lăk năm 2007 – 2008 [Luận văn Thạc sĩ]. Trường Đại học Tây Nguyên; 2007. [14] Nguyễn Thị Quỳnh Lưu, Huỳnh Thị Tuyết Mai, Trần Thụy Minh Nguyệt. Tình hình nhiễm giun đường ruột lây truyền qua đất tại xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh [Luận văn tốt nghiệp]. Trung tâm Đào tạo Bồi dưỡng Cán bộ Y tế; 2003. [15] Carme B, Bau P Motard A, Day C, Aznar C, Moreau B. Intestinal parasitoses among Wajampi Indians from French Guiana. Parasites. 2002;9(2):74– 176. 38
File đính kèm:
- khao_sat_ti_le_nhiem_giun_duong_ruot_va_cac_yeu_to_lien_quan.pdf