Khảo sát tỉ lệ hiện diện và chiều dài quai trước của thần kinh cằm bằng máy CBCT
Mục đích của nghiên cứu này để sử dụng các hình ảnh
cắt lớp Chụp cắt lớp vi tính chùm tia hình nón (CBCT) với
phương thức tái tạo hình ảnh theo 3 chiều để xác định sự xuất
hiện và chiều dài của quai trước thần kinh cằm của các đối
tượng được nghiên cứu. Hình ảnh cắt lớp CBCT của 40 bệnh
nhân có độ tuổi trưởng thành (từ 18 đến 60), không có bệnh
lý hoặc chấn thương vùng cằm, và còn đủ các răng hàm nhỏ
hàm dưới được chọn lựa ngẫu nhiên. Quai trước thần kinh
cằm cả ở hai bên đều được xác định và đo đạc trên từng đối
tượng bằng việc sử dụng phần mềm Galileos Viewer. Quai
trước được phát hiện thấy 96.25% các trường hợp, với chiều
dài quai trước trung bình ở 40 đối tượng (80 nửa hàm dưới)
là 3.27 ± 1.38mm. Kết luận, khi cấy ghép implant ở gần sát
với lỗ cằm, cần thận trọng tránh làm tổn thương tới dây thần
kinh ống răng dưới. Không có khoảng cách ở phía trước cố
định từ lỗ cằm nào được xem là an toàn. Bằng việc sử dụng
máy CBCT với phương pháp chếch ngang để xác định và đo
đạc chính xác sự hiện diện và chiều dài quai trước là hết sức
quan trọng cho việc phòng tránh và bảo vệ sự nguyên vẹn
của nó
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tỉ lệ hiện diện và chiều dài quai trước của thần kinh cằm bằng máy CBCT
V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn20 KHẢO SÁT TỈ LỆ HIỆN DIỆN VÀ CHIỀU DÀI QUAI TRƯỚC CỦA THẦN KINH CẰM BẰNG MÁY CBCT Nguyễn Phú Thắng1, Ngô Xuân Huy1 TÓM TẮT Mục đích của nghiên cứu này để sử dụng các hình ảnh cắt lớp Chụp cắt lớp vi tính chùm tia hình nón (CBCT) với phương thức tái tạo hình ảnh theo 3 chiều để xác định sự xuất hiện và chiều dài của quai trước thần kinh cằm của các đối tượng được nghiên cứu. Hình ảnh cắt lớp CBCT của 40 bệnh nhân có độ tuổi trưởng thành (từ 18 đến 60), không có bệnh lý hoặc chấn thương vùng cằm, và còn đủ các răng hàm nhỏ hàm dưới được chọn lựa ngẫu nhiên. Quai trước thần kinh cằm cả ở hai bên đều được xác định và đo đạc trên từng đối tượng bằng việc sử dụng phần mềm Galileos Viewer. Quai trước được phát hiện thấy 96.25% các trường hợp, với chiều dài quai trước trung bình ở 40 đối tượng (80 nửa hàm dưới) là 3.27 ± 1.38mm. Kết luận, khi cấy ghép implant ở gần sát với lỗ cằm, cần thận trọng tránh làm tổn thương tới dây thần kinh ống răng dưới. Không có khoảng cách ở phía trước cố định từ lỗ cằm nào được xem là an toàn. Bằng việc sử dụng máy CBCT với phương pháp chếch ngang để xác định và đo đạc chính xác sự hiện diện và chiều dài quai trước là hết sức quan trọng cho việc phòng tránh và bảo vệ sự nguyên vẹn của nó. Từ khóa: Conebeam CT, quai trước của thần kinh cằm, tỉ lệ hiện diện của quai trước. ABSTRACT SERVEY OF THE PREVALENCE AND THE LENGTH OF THE ANTERIOR LOOP OF THE MENTAL NERVE USING CONE BEAM CT – SCAN The purpose of this study is to use cone-beam computerized tomography (CBCT) scans with oblique-transverse reconstruction modality to identifify the anterior loop and to measure the anterior loop length of the mental nerve on subjects of study. The CBCT images of 40 adults (age 18-60) who do not have any pathology or injury of the chin, and still remain full of their lower premolars were randomly selected. The anterior loop of both right and left side were defined and measured in each subject using Galileos software. The anterior loop was identified in 96.25% of cases with the mean anterior loop length of the 40 subjects (80 hemimandibles) being 3.27 ± 1.38mm. In conclusion, when placing implants in close proximity to mental foramina, caution is recommended to avoid injury to the inferior alveolar nerve. No fixed distance anteriorly from the mental foramen should be considered safe. Using CBCT scans with the oblique-transverse method to accurately identify and measure the anterior loop length is of utmost importance in avoiding and protecting its integrity. Keywords: Conebeam CT, anterior loop of mental nerve, prevalence of anterior loop. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật ở vùng hàm dưới phía trước như việc cấy ghép implant trong vùng lỗ cằm hoặc ghép cằm có thể làm hư tổn tới quai trước của thần kinh cằm gây ra các rối loạn thần kinh cảm giác. Trong quá trình phẫu thuật, các phẫu thuật viên thường bộc lộ lỗ cằm để hình dung được vị trí của thần kinh cằm. Tuy nhiên, nếu không biết về sự hiện diện và chiều dài của quai trước thì các phẫu thuật viên có nguy cơ cao động chạm tới quai trước, khi nó hiện diện. Thăm khám hình ảnh Xquang trước phẫu thuật trợ giúp cho việc phát triển kế hoạch điều trị toàn diện cho bệnh nhân cần phẫu thuật cấy ghép nha khoa. Nó giúp xác định kích thước, vị trí và góc phù hợp cho từng implant nha khoa cũng như số lượng các implant được cấy ghép. Một số tác giả cho rằng hình ảnh Xquang hai chiều đủ để lên kế hoạch cấy ghép implant trước phẫu thuật; tuy nhiên số khác tin rằng phải cần bổ sung thêm hình ảnh cắt ngang (1). Hiện nay, đã có đề nghị rằng hình ảnh mặt cắt có thể được sử dụng để đánh giá tất cả các vị trí cấy ghép implant và Cone beam CT là phương pháp hình ảnh được lựa chọn để thu nhận thông tin này (1). Khi lập kế hoạch cho việc cấy ghép implant ở hàm dưới, một trong các mốc giải phẫu quan trọng nhất là ống răng dưới, mà trong đó dây thần kinh ổ răng dưới đi xuyên qua và tiếp tục tiến ra trước trở thành thần kinh cằm, thoát ra ở lỗ cằm. Dây thần kinh cằm có thể có một quai phía trước 1. Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt – Đại học Y Hà Nội Ngày nhận bài: 16/07/2016 Ngày phản biện: 20/07/2016 Ngày duyệt đăng: 27/07/2016 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn 21 như được mô tả trong Giải phẫu Miệng của Sicher (2). Quai trước được mô tả là “Ống cằm xuất hiện trong ống hàm dưới và chạy ra ngoài, về phía trước, lên trên và quay ngược lại để mở ra ở lỗ cằm”. Vị trí của các implant phía xa nhất trong vùng lỗ cằm khi lên kế hoạch một cấy ghép implant hỗ trợ cho hàm phủ toàn bộ cố định được xác định bởi vị trí lỗ cằm và quai trước của bó mạch thần kinh cằm (3). Để cấy ghép implant gần nhất với lỗ cằm có sự hiện diện của quai trước là yếu tố quan trọng cho việc gia tăng bề rộng trước-sau và giảm cantilever (cầu đèo) phía xa. Tuy nhiên, các biến chứng chấn thương phẫu thuật tới thần kinh cằm có thể gây ra rối loạn thần kinh cảm giác, và thay đổi cảm giác ở vùng môi dưới và cằm sau cấy ghép implant. Trên lâm sàng, quai trước không thể thấy được, nhưng có thể được phát hiện trên phim Xquang toàn cành, phim cắt lớp vi tính Cone beam (CBCT), phim CT xoắn ốc và hình ảnh cộng hưởng từ (MRI). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Arzouman và cộng sự (4), họ đã kết luận rằng quai trước được phát hiện trên phim Xquang toàn cảnh ít hơn đáng kể so với việc đánh giá trên giải phẫu. Ngoài ra, các quai trước được xác định trên phim Xquang toàn cảnh ngắn hơn đáng kể so với việc tiến hành đo đạc trực tiếp. Hơn nữa, Kuzmanovic và cộng sự (3) đã cho thấy 50% số quai trước được quan sát thấy trên Xquang của ống cằm đã bị thể hiện sai lệch trên phim Xquang toàn cảnh và 62% quai trước được xác định trên giải phẫu không quan sát được trên Xquang. Họ đã kết luận rằng, phim Xquang toàn cảnh là không đáng tin cậy và có tỉ lệ cao các dương tính giả và âm tính giả trong việc xác định quai trước. Phim CT xoắn ốc và CBCT cũng đã được sử dụng để đo đạc quai trước trong các tài liệu y văn và có xu hướng ổn định hơn. Kaya và cộng sự (5) đã cho thấy máy CT xoắn ốc đã chứng minh một tỷ lệ xuất hiện cao hơn của quai cằm so với máy Xquang toàn cảnh. Uchida và cộng sự (6) đã so sánh phép đo trên CBCT và trên giải phẫu và đưa ra kết luận rằng chiều dài trung bình của quai trước là 2.2 ± 0.8mm bằng CBCT và không có khác biệt đáng kể nào được thấy giữa phép đo trên CBCT và trên giải phẫu. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã trình bày một phương pháp đơn giản bằng cách sử dụng phần mềm GalileosViewer-1.9 để định vị lỗ cằm và quai trước trên phim chếch ngang đơn lẻ và đo đạc chiều dài của quai trước. Mục đích của nghiên cứu này là để xác định sự hiện diện và đo đạc chiều dài quai trước của thần kinh cằm trên các đối tượng có độ tuổi trưởng thành (từ 18 đến 60) không có bệnh lý hoặc chấn thương vùng cằm, và còn đủ các răng hàm nhỏ hàm dưới bằng CBCT. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nhằm để xác định tỉ lệ sự hiện diện và chiều dài trung bình của quai trước thần kinh cằm, chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để cho ra kết quả. 40 bệnh nhân trưởng thành được lựa chọn ngẫu nhiên trong nhóm tuổi từ 18 đến 60 mà không có bệnh lý hoặc chấn thương vùng cằm, và còn đủ các răng hàm nhỏ hàm dưới từ các hình ảnh CBCT có sẵn của Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt – Đại học Y Hà Nội. Tất cả các hình ảnh CBCT đều được chụp bởi Model Hệ thống Hình ảnh Nha khoa Cone beam 3D GALILEOS COMFORT của Dentsply Sirona (Mỹ) có thể tích khối cầu bán kính 15,4 cm; thời gian quét 14s giây, và cỡ voxel đẳng hướng 0,25mm; thời gian tái cấu trúc dưới 4 phút. Sự hiện diện và chiều dài quai trước cả bên phải và bên trái đều được đo ở từng đối tượng. Phần mềm GalileosViewer-1.9 được sử dụng để xác định sự hiện diện và đo đạc chiều dài quai trước bằng việc sử dụng phần mềm tái hiện đa mặt phẳng. Phần mềm tái hiện đa mặt phẳng cho phép hình ảnh được tạo ra từ các mặt phẳng trục gốc trên các mặt phẳng đứng dọc, đứng ngang hoặc xiên. Hình 1: Lỗ cằm và đường đi của thần kinh cằm được hiển thị trên cả 3 cửa sổ. Các bước để tiến hành xác định sự hiện diện của quai trước và đo đạc chiều dài của quai trước: Bước 1: Trên cửa sổ phim Panorama, điều chỉnh tới vị trí của lỗ cằm để có được tầm nhìn tốt nhất cho đường đi của quai trước thần kinh cằm ở cửa sổ mặt phẳng Tangential và Cross-sectional (Hình 1). Bước 2: Trên cửa sổ mặt phẳng Tangential, điều chỉnh thanh công cụ thay đổi góc của mặt phẳng Tangential sao cho đường thẳng hiển thị mặt phẳng Tangential trên cửa sổ mặt phẳng Cross-Sectional có phương trùng với đường đi của quai trước thần kinh cằm (Hình 2). V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn22 Hình 2: Điều chỉnh mặt phẳng Tangential để có thể nhìn được đường đi của thần kinh cằm. Hình 3: Ghi nhận kết quả có sự hiện diện của quai trước và độ dài quai trước là 4.13mm. Bước 3: Phóng to cửa sổ mặt phẳng Tangential, kẻ đường thẳng thứ nhất (d1) song song với mặt ngoài của cành ngang xương hàm dưới và một đường thẳng thứ hai (d2) vuông góc với đường thẳng d1, đi qua điểm trước nhất của quai trước (điểm này có thể là điểm bắt đầu của ống răng cửa hoặc là điểm ở phía trước nhất của đường cong quai cằm). Chiều dài của quai trước được đo từ điểm trước nhất của lỗ cằm tới đường thẳng d2 (Hình 3). Trường hợp quai trước không hiện diện hoặc điểm bắt đầu của ống răng cửa nằm ở phía sau lỗ cằm, kết quả được ghi lại là không có sự hiện diện của quai trước và giá trị chiều dài là 0mm. Phân tích thống kê: 1 người kiểm tra tham gia vào nghiên cứu. Mỗi đối tượng nghiên cứu đều được xác định sự hiện diện quai trước của thần kinh cằm và đo đạc chiều dài của quai trước nếu có ở cả hai bên trong 2 lần khác nhau. Độ tin cậy của 2 lần kiểm tra được kiểm định bằng cách sử dụng hệ số tương quan trong phần mềm SPSS 16.0 (Giá trị alpha của Cronbach > 0.8 có ý nghĩa là thỏa mãn vô điều kiện, >0,9 có nghĩa là thỏa mãn tuyệt đối). Tỷ lệ hiện diện của quai trước và trung bình chiều dài của quai trước được tính toán dựa trên các chỉ số trung bình của 2 lần đo. Sau khi tính toán các trung bình và độ lệch chuẩn, t-Test cặp đôi được sử dụng để so sánh chiều dài quai trước giữa bên phải và bên trái, giữa nam và nữ. Mức α của tất cả các kiểm tra thông kê đều được đặt ở 0.05. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tất cả các phép đo đều được thu thập bởi các test độ tin cậy của 2 lần kiểm tra. Các hệ số tương quan lớn hơn 0.9 được thu nhận trong việc so sánh giữa 2 lần kiểm tra cũng thể hiện sự thỏa mãn tuyệt đối. Phép đo chiều dài quai trước so sánh giữa bên phải và bên trái, giữa nam và nữ được liệt kê ở Bảng 1, 2, 3. Quai trước hiện diện (chiều dài > 0 mm) ở 77 trên 80 nửa hàm dưới (tỉ lệ xuất hiện là 96.25%). Giá trị trung bình của chiều dài quai trước của 40 đối tượng (80 nửa hàm dưới) là 3.27 ± 1.38mm. Chiều dài quai trước lớn nhất là 7.45 mm. Giá trị trung bình của chiều dài quai trước ở bên phải là 3.28 ± 1.62mm và ở bên trái là 3.27 ± 1.48mm. Không có ý nghĩa thống kê nào giữa bên phải và bên trái. Giá trị trung bình của chiều dài quai trước là 3,57 ± 1.52mm ở nam giới và 3.05 ± 1.25mm ở nữ giới và không có khác biệt mang ý nghĩa thống kê nào được tìm thấy. Bảng 1: Tỉ lệ hiện diện của quai trước ở 2 bên của 40 đối tượng được nghiên cứu Bên Phải Bên trái Tổng số Số lượng Tỉ lệ Có quai trước 2 1 3 3.75% Không có quai trước 38 39 77 96.25% Tổng số 40 40 80 100% Bảng 2: Chiều dài quai trước trung bình ở 2 bên của 40 đối tượng được nghiên cứu Giá trị Trung bình ± Độ lệch chuẩn (mm) Giá trị lớn nhất (mm) Bên Phải (n=40) 3.28 ± 1.62 7.45 Bên Trái (n=40) 3.27 ± 1.48 6.57 Kiểm định T-test *=<0.05 0.966 (Do p>0.05 nên không có sự khác biệt mang tính thống kê) Tổng số (n=80) 3.27 ± 1.38 7.45 Bảng 3: Chiều dài quai trước trung bình ở nam và nữ trong 40 đối tượng được nghiên cứu Giá trị Trung bình (mm) Độ lệch chuẩn (mm) Nam (n=17) 3.57 1.52 Nữ (n=23) 3.04 1.25 Kiểm định T-test biến độc lập *=<0.05 F = 0.473 với p = 0.496 > 0.05 nên phương sai 2 nhóm không có khác biệt t = 1.189 với p = 0.242 > 0.05 nên 2 nhóm không có khác biệt thống kê JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016 SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn 23 IV. BÀN LUẬN Trong các tài liệu y văn, các phép đo trung bình của chiều dài quai trước là thay đổi. Giá trị trung bình của chiều dài quai trước thay đổi từ 0.1mm (Bavitz và cộng sự (7)) tới 6.92 mm (Chen và cộng sự (8)). Lý do mà các kết quả thay đổi có thể là do các công cụ chẩn đoán khác nhau (trên tử thi, trên xương sọ khô, phim Xquang 2 chiều, phim Xquang 3 chiều), cộng đồng khác nhau (độ tuổi, giới tính, chủng tộc, tình trạng nha khoa khác nhau) và các phương pháp đo đạc khác nhau (đo đạc trực tiếp bằng cách sử dụng cây thăm, thước cặp, phương pháp khác nhau của việc đọc kết quả Xquang). Trong nghiên cứu của chúng tôi, giá trị chiều dài quai trước của 40 đối tượng trên phim CBCT (80 nửa cung hàm) là 3.27 ± 1.38mm. Điều này cũng tương ứng với hầu hết các nghiên cứu trên tử thi mà sử dụng phép đo trực tiếp. Nghiên cứu của Arzouman và cộng sự (4), Kaya và cộng sự (5), Misch và cộng sự (9) đã thấy giá trị trung bình của chiều dài quai trước tương ứng là 3.45 mm, 3.75mm, 5mm. 1 lý do có thể để các trung bình chiều dài quai trước này được so sánh với nghiên cứu này có thể là do trên thực tế các nhà nghiên cứu trước kia sử dụng phim Xquang 2 chiều là công cụ đo đạc. Kuzmanovic và cộng sự (3) đã kết luận rằng Xquang toàn cảnh là không đáng tin cậy và có tỷ lệ xuất hiện dương tính giả và âm tính giả cao trong việc xác định sự hiện diện của quai trước. Họ nhận thấy rằng chiều dài trên phim Xquang của quai trước ở ống cằm có thể chỉ được đo trên phim Xquang nơi mà toàn bộ đường đi của ống cằm có thể được nhìn thấy rõ ràng, từ ống hàm dưới tới lỗ cằm. Chúng tôi áp dụng khái niệm này trên hình ảnh CBCT. Chúng tôi nghĩ rằng cách chính xác nhất để đo đạc quai trước là khi ống hàm dưới, quai trước, ống răng cửa, và lỗ cằm có thể được nhìn thấy rõ ràng một cách liên tục trong cùng 1 tầm nhìn. Chụp cắt lớp vi tính Cone beam (CBCT) được đưa vào từ đầu những năm 2000 với liều lượng bức xạ ít hơn đáng kể so với CT thông thường. Nhiều tác giả cũng đã nhận thấy CBCT chính xác như chụp cắt lớp vi tính nhiều lát thông thường với việc sử dụng của nó trong phẫu thuật cấy ghép implant được hướng dẫn bởi hình ảnh. Mặc dù CBCT đã được chứng minh là chính xác, các nghiên cứu sử dụng CBCT để phân tích chiều dài trung bình của quai trước vẫn thể hiện kết quả trái ngược từ 0.89mm (Apostolakis và cộng sự (10)) tới 6.92mm (Chen và cộng sự (8)). Chúng tôi đã thấy rằng phương pháp đo đạc chiều dài quai trước trên CBCT là khác nhau. Chen và cộng sự (8) đã nói rằng họ đã tái tạo một phần của tầm nhìn toàn cảnh dọc theo ống thần kinh ổ răng dưới, nhưng không có điểm tham chiếu cho việc đo đạc quai trước được tìm thấy. Apostolakis và cộng sự (10) đã đếm các lát mặt cắt lát đứng dọc 0.3mm để đánh giá chiều dài của quai trước, và chúng tôi đã thấy sự khó khăn để xác định hầu hết các phần phía trước của dây thần kinh cằm trên tầm nhìn mặt cắt ngang đặc biệt khi mật độ xương xấu (5). Phương pháp chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu của mình là để định vị lỗ cằm và quai trước trên 1 tầm nhìn xiên ngang đơn lẻ. Chúng tôi tin rằng khi ống hàm dưới, quai trước, ống răng cửa và lỗ cằm có thể được quan sát rõ ràng có thể được hình dung đồng thời trong cùng một tầm nhìn thì phép đo sẽ chính xác hơn. Sự hiện diện của quai trước thần kinh cằm được xác định khi bất cứ phần nào của thần kinh cằm nằm ở phía gần (hoặc phía trước) của lỗ cằm. Trong nghiên cứu này, tỉ lệ lên tới 96.25% quai trước được ghi nhận. Trong nghiên cứu của Neiva và cộng sự (11) đã phát hiện 88% quai trước trên xương sọ bằng cách sử dụng cây thăm, và Kieser và cộng sự (12) đã phát hiện thấy 84% trên tử thi. Nguyên nhân mà một số nghiên cứu đã thể hiện tỉ lệ xuất hiện thấp (7 tới 55%) (7) có thể là do sự khác nhau trên việc xác định rõ ràng các phần phía trước nhất của thần kinh cằm. Trong khi đó, kết quả của chúng tôi cao hơn hẳn so với các kết quả trước đây, đây có lẽ chính là do cỡ mẫu n=40 còn quá nhỏ. Tuy nhiên, kết quả này có thể cho thấy rằng tỉ lệ xuất hiện của quai trước thần kinh cằm ở người trưởng thành Việt Nam là rất cao. Các biến chứng của chấn thương phẫu thuật hoặc áp lực lên dây thần kinh cằm có thể gây ra các rối loạn thần kinh cảm giác, và sự thay đổi cảm giác ở môi dưới và cằm sau khi cấy ghép implant. Ellies và Hawker (13) đã báo cáo trong 1 phân tích hồi cứu của 1 nghiên cứu đa tâm. Họ đã thấy sự thay đổi cảm giác của thần kinh ổ răng dưới ở 36% bệnh nhân sau 2 tuần và 13% sau 1 năm. Nó đã được đề xuất trong tài liệu rằng các mặt xa nhất của 1 implant nên ở tối thiểu 1 mm (7), 4mm (3), hoặc 6mm (14) về phía trước của lỗ cằm để tránh gây tổn thương thần kinh ổ răng dưới và/hoặc thần kinh cằm trong quá trình mở xương dựa trên các phát hiện của họ trong tỉ lệ xuất hiện của quai trước thần kinh cằm. Ở nghiên cứu này, chiều dài quai trước lớn nhất là 7.45mm. Hơn nữa, quai trước dài nhất trong tài liệu được báo cáo bởi Neiva và cộng sự (11) là 11mm, tiếp theo là của Uchida và cộng sự (6) là 9mm. Với những trường hợp này, quy tắc 1, 4 hoặc 6mm sẽ khiến chúng ta làm tổn thương thần kinh khi cấy ghép implant gần sát với lỗ cằm. Ngoài ra, việc đặt implant ở bệnh nhân còn răng ở hàm dưới liên quan tới vùng răng hàm nhỏ và răng hàm lớn, các bó mạch thần kinh cằm thường là điểm tham chiếu quan trọng trong việc lên kế hoạch điều trị. Do đó, vị trí chính xác của quai cằm phải được xác định trước khi phẫu thuật bằng các kỹ thuật Xquang thích hợp. Chúng tôi đề nghị sử dụng phương thức tái hiện xiên ngang trên CBCT để định vị và đo đạc chính xác chiều dài quai trước trước khi tiến hành phẫu thuật implant. V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SỐ 34 - Tháng 9+10/2016 Website: yhoccongdong.vn24 TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Tyndall DA, Price JB, Tetradis S, Ganz SD, Hildebolt C, Scarfe WC; American Academy of Oral and Maxillofacial Radiology. Position statement of the American Academy of Oral and Maxillofacial Radiology on selection criteria for the use of radiology in dental implantology with emphasis on cone beam computed tomography. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol. 2012 Jun;113(6):817-26. 2. DuBrul EL. Sicher's oral anatomy 7th ed. Mosby 1980. 3. Kuzmanovic DV, Payne AGT, Kieser JA, Dias GJ. Anterior loop of the mental nerve: A morphological and radiographic study. Clin Oral Implants Res 2003;14:464–471. 4. Arzouman MJ, Otis L, Kipnis V, Levine D. Observations of the anterior loop of the inferior alveolar canal. Int J Oral Maxillofac Implants. 1993;8(3):295-300 5. Kaya Y, Sencimen M, Sahin S, Okcu KM, Dogan N, Bahcecitapar M. Retrospective Radiographic Evaluation of the Anterior Loop of the Mental Nerve:Comparison Between Panoramic Radiography and Spiral Computerized Tomography. Int J Oral Maxillofac Implants. 2008 Sep-Oct;23(5):919-25. 6. Uchida Y, Noguchi N, Goto M, Yamashita Y, Hanihara T, Takamori H, Sato I, Kawai T, Yosue T. Measurement of anterior loop length for the mandibular canal and diameter of the mandibular incisive canal to avoid nerve damage when installing endosseous implants in the interforaminal region: a second attempt introducing cone beam computed tomography. J Oral Maxillofac Surg. 2009 Apr;67(4):744-50. 7. Bavitz JB, Harn SD, Hansen CA, Lang M. An anatomical study of mental neurovascular bundle-implant relationships. Int J Oral Maxillofac Implants. 1993;8(5):563-7. 8. Chen JC, Lin LM, Geist JR, Chen JY, Chen CH, Chen YK. A retrospective comparison of the location and diameter of the inferior alveolar canal at the mental foramen and length of the anterior loop between American and Taiwanese cohorts using CBCT. Surg Radiol Anat. 2013 Jan;35(1):11-8 9. Misch CE, Crawford EA. Predictable mandibular nerve location--a clinical zone of safety. Int J Oral Implantol. 1990;7(1):9-17 10. Apostolakis D, Brown JE. The anterior loop of the inferior alveolar nerve: prevalence, measurement of its length and a recommendation for interforaminal implant installation based on cone beam CT imaging. Clin Oral Implants Res. 2012 Sep;23(9):1022-30. 11. Neiva RF, Gapski R, Wang HL. Morphometric analysis of implant-related anatomy in caucasian skulls. J Periodontol. 2004 Aug;75(8):1061-7. 12. Kieser J, Kuzmanovic D, Payne A, Dennison J, Herbison P. Patterns of emergence of the human mental nerve. Arch Oral Biol. 2002 Oct;47(10):743-7. 13. Ellies LG, Hawker PB. The prevalence of altered sensation associated with implant surgery. Int J Oral Maxillofac Implants 1993;8:674-9 14. Solar P, Ulm C, Frey G, et al: A classification of the intraosseous path of the mental nerve. Int J Oral Maxillofac Implants 9:339, 1994 V. KẾT LUẬN Sau khi đánh giá 40 hình ảnh CBCT của bệnh nhân: (1) 96,25% hình ảnh cho thấy sự hiện diện của quai trước thần kinh cằm. (2) 1 phạm vi rộng của phép đo chiều dài quai trước từ 0mm tới 7.45mm với giá trị trung bình là 3.27mm (3) Không có khác biệt ý nghĩa thống kê được tìm thấy giữa phép đo bên phải và bên trái, giữa nam và nữ. Khi cấy ghép implant ở gần sát với lỗ cằm, điều thận trọng được khuyến cáo để tránh gây tổn thương thần kinh cằm và bó mạch thần kinh của nó. Quai trước của thần kinh cằm trở thành một điểm tham chiếu phẫu thuật quan trọng trong quá trình lên kế hoạch điều trị. Bởi vì phạm vi rộng của chiều dài quai trước được quan sát thấy trong nghiên cứu của chúng tôi, nên không có khoảng cách cố định về phía gần hoặc phía trước so với lỗ cằm nên được coi là 1 khoảng cách “an toàn” mà không sử dụng hình ảnh ba chiều. Việc phân tích hình ảnh CBCT bằng phương pháp được mô tả trong bài này có thể là một công cụ hữu dụng để tránh các biến chứng phẫu thuật implant tại vùng cằm.
File đính kèm:
khao_sat_ti_le_hien_dien_va_chieu_dai_quai_truoc_cua_than_ki.pdf

