Khảo sát tỉ lệ hiện diện và chiều dài quai trước của thần kinh cằm bằng máy CBCT

Mục đích của nghiên cứu này để sử dụng các hình ảnh

cắt lớp Chụp cắt lớp vi tính chùm tia hình nón (CBCT) với

phương thức tái tạo hình ảnh theo 3 chiều để xác định sự xuất

hiện và chiều dài của quai trước thần kinh cằm của các đối

tượng được nghiên cứu. Hình ảnh cắt lớp CBCT của 40 bệnh

nhân có độ tuổi trưởng thành (từ 18 đến 60), không có bệnh

lý hoặc chấn thương vùng cằm, và còn đủ các răng hàm nhỏ

hàm dưới được chọn lựa ngẫu nhiên. Quai trước thần kinh

cằm cả ở hai bên đều được xác định và đo đạc trên từng đối

tượng bằng việc sử dụng phần mềm Galileos Viewer. Quai

trước được phát hiện thấy 96.25% các trường hợp, với chiều

dài quai trước trung bình ở 40 đối tượng (80 nửa hàm dưới)

là 3.27 ± 1.38mm. Kết luận, khi cấy ghép implant ở gần sát

với lỗ cằm, cần thận trọng tránh làm tổn thương tới dây thần

kinh ống răng dưới. Không có khoảng cách ở phía trước cố

định từ lỗ cằm nào được xem là an toàn. Bằng việc sử dụng

máy CBCT với phương pháp chếch ngang để xác định và đo

đạc chính xác sự hiện diện và chiều dài quai trước là hết sức

quan trọng cho việc phòng tránh và bảo vệ sự nguyên vẹn

của nó

pdf 5 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tỉ lệ hiện diện và chiều dài quai trước của thần kinh cằm bằng máy CBCT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tỉ lệ hiện diện và chiều dài quai trước của thần kinh cằm bằng máy CBCT

Khảo sát tỉ lệ hiện diện và chiều dài quai trước của thần kinh cằm bằng máy CBCT
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn20
KHẢO SÁT TỈ LỆ HIỆN DIỆN VÀ CHIỀU DÀI QUAI 
TRƯỚC CỦA THẦN KINH CẰM BẰNG MÁY CBCT
Nguyễn Phú Thắng1, Ngô Xuân Huy1
TÓM TẮT
Mục đích của nghiên cứu này để sử dụng các hình ảnh 
cắt lớp Chụp cắt lớp vi tính chùm tia hình nón (CBCT) với 
phương thức tái tạo hình ảnh theo 3 chiều để xác định sự xuất 
hiện và chiều dài của quai trước thần kinh cằm của các đối 
tượng được nghiên cứu. Hình ảnh cắt lớp CBCT của 40 bệnh 
nhân có độ tuổi trưởng thành (từ 18 đến 60), không có bệnh 
lý hoặc chấn thương vùng cằm, và còn đủ các răng hàm nhỏ 
hàm dưới được chọn lựa ngẫu nhiên. Quai trước thần kinh 
cằm cả ở hai bên đều được xác định và đo đạc trên từng đối 
tượng bằng việc sử dụng phần mềm Galileos Viewer. Quai 
trước được phát hiện thấy 96.25% các trường hợp, với chiều 
dài quai trước trung bình ở 40 đối tượng (80 nửa hàm dưới) 
là 3.27 ± 1.38mm. Kết luận, khi cấy ghép implant ở gần sát 
với lỗ cằm, cần thận trọng tránh làm tổn thương tới dây thần 
kinh ống răng dưới. Không có khoảng cách ở phía trước cố 
định từ lỗ cằm nào được xem là an toàn. Bằng việc sử dụng 
máy CBCT với phương pháp chếch ngang để xác định và đo 
đạc chính xác sự hiện diện và chiều dài quai trước là hết sức 
quan trọng cho việc phòng tránh và bảo vệ sự nguyên vẹn 
của nó.
Từ khóa: Conebeam CT, quai trước của thần kinh cằm, tỉ 
lệ hiện diện của quai trước.
ABSTRACT
SERVEY OF THE PREVALENCE AND THE LENGTH 
OF THE ANTERIOR LOOP OF THE MENTAL NERVE 
USING CONE BEAM CT – SCAN
The purpose of this study is to use cone-beam computerized 
tomography (CBCT) scans with oblique-transverse 
reconstruction modality to identifify the anterior loop and 
to measure the anterior loop length of the mental nerve on 
subjects of study. The CBCT images of 40 adults (age 18-60) 
who do not have any pathology or injury of the chin, and still 
remain full of their lower premolars were randomly selected. 
The anterior loop of both right and left side were defined 
and measured in each subject using Galileos software. 
The anterior loop was identified in 96.25% of cases with the 
mean anterior loop length of the 40 subjects (80 hemimandibles) 
being 3.27 ± 1.38mm. In conclusion, when placing implants 
in close proximity to mental foramina, caution is recommended to 
avoid injury to the inferior alveolar nerve. No fixed distance 
anteriorly from the mental foramen should be considered 
safe. Using CBCT scans with the oblique-transverse method 
to accurately identify and measure the anterior loop length is 
of utmost importance in avoiding and protecting its integrity.
Keywords: Conebeam CT, anterior loop of mental nerve, 
prevalence of anterior loop.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật ở vùng hàm dưới phía trước như việc cấy ghép 
implant trong vùng lỗ cằm hoặc ghép cằm có thể làm hư tổn 
tới quai trước của thần kinh cằm gây ra các rối loạn thần kinh 
cảm giác. Trong quá trình phẫu thuật, các phẫu thuật viên 
thường bộc lộ lỗ cằm để hình dung được vị trí của thần kinh 
cằm. Tuy nhiên, nếu không biết về sự hiện diện và chiều dài 
của quai trước thì các phẫu thuật viên có nguy cơ cao động 
chạm tới quai trước, khi nó hiện diện.
Thăm khám hình ảnh Xquang trước phẫu thuật trợ giúp 
cho việc phát triển kế hoạch điều trị toàn diện cho bệnh nhân 
cần phẫu thuật cấy ghép nha khoa. Nó giúp xác định kích 
thước, vị trí và góc phù hợp cho từng implant nha khoa cũng 
như số lượng các implant được cấy ghép. Một số tác giả cho 
rằng hình ảnh Xquang hai chiều đủ để lên kế hoạch cấy ghép 
implant trước phẫu thuật; tuy nhiên số khác tin rằng phải cần 
bổ sung thêm hình ảnh cắt ngang (1). Hiện nay, đã có đề nghị 
rằng hình ảnh mặt cắt có thể được sử dụng để đánh giá tất cả 
các vị trí cấy ghép implant và Cone beam CT là phương pháp 
hình ảnh được lựa chọn để thu nhận thông tin này (1).
Khi lập kế hoạch cho việc cấy ghép implant ở hàm dưới, 
một trong các mốc giải phẫu quan trọng nhất là ống răng 
dưới, mà trong đó dây thần kinh ổ răng dưới đi xuyên qua 
và tiếp tục tiến ra trước trở thành thần kinh cằm, thoát ra ở 
lỗ cằm. Dây thần kinh cằm có thể có một quai phía trước 
1. Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt – Đại học Y Hà Nội
Ngày nhận bài: 16/07/2016 Ngày phản biện: 20/07/2016 Ngày duyệt đăng: 27/07/2016
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn 21
như được mô tả trong Giải phẫu Miệng của Sicher (2). Quai 
trước được mô tả là “Ống cằm xuất hiện trong ống hàm dưới 
và chạy ra ngoài, về phía trước, lên trên và quay ngược lại 
để mở ra ở lỗ cằm”. Vị trí của các implant phía xa nhất trong 
vùng lỗ cằm khi lên kế hoạch một cấy ghép implant hỗ trợ 
cho hàm phủ toàn bộ cố định được xác định bởi vị trí lỗ cằm 
và quai trước của bó mạch thần kinh cằm (3). Để cấy ghép 
implant gần nhất với lỗ cằm có sự hiện diện của quai trước 
là yếu tố quan trọng cho việc gia tăng bề rộng trước-sau và 
giảm cantilever (cầu đèo) phía xa. Tuy nhiên, các biến chứng 
chấn thương phẫu thuật tới thần kinh cằm có thể gây ra rối 
loạn thần kinh cảm giác, và thay đổi cảm giác ở vùng môi 
dưới và cằm sau cấy ghép implant.
Trên lâm sàng, quai trước không thể thấy được, nhưng có 
thể được phát hiện trên phim Xquang toàn cành, phim cắt lớp 
vi tính Cone beam (CBCT), phim CT xoắn ốc và hình ảnh 
cộng hưởng từ (MRI). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của 
Arzouman và cộng sự (4), họ đã kết luận rằng quai trước được 
phát hiện trên phim Xquang toàn cảnh ít hơn đáng kể so với 
việc đánh giá trên giải phẫu. Ngoài ra, các quai trước được xác 
định trên phim Xquang toàn cảnh ngắn hơn đáng kể so với 
việc tiến hành đo đạc trực tiếp. Hơn nữa, Kuzmanovic và cộng 
sự (3) đã cho thấy 50% số quai trước được quan sát thấy trên 
Xquang của ống cằm đã bị thể hiện sai lệch trên phim Xquang 
toàn cảnh và 62% quai trước được xác định trên giải phẫu 
không quan sát được trên Xquang. Họ đã kết luận rằng, phim 
Xquang toàn cảnh là không đáng tin cậy và có tỉ lệ cao các 
dương tính giả và âm tính giả trong việc xác định quai trước.
Phim CT xoắn ốc và CBCT cũng đã được sử dụng để đo 
đạc quai trước trong các tài liệu y văn và có xu hướng ổn 
định hơn. Kaya và cộng sự (5) đã cho thấy máy CT xoắn 
ốc đã chứng minh một tỷ lệ xuất hiện cao hơn của quai cằm 
so với máy Xquang toàn cảnh. Uchida và cộng sự (6) đã so 
sánh phép đo trên CBCT và trên giải phẫu và đưa ra kết luận 
rằng chiều dài trung bình của quai trước là 2.2 ± 0.8mm bằng 
CBCT và không có khác biệt đáng kể nào được thấy giữa 
phép đo trên CBCT và trên giải phẫu.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã trình bày một phương 
pháp đơn giản bằng cách sử dụng phần mềm GalileosViewer-1.9 
để định vị lỗ cằm và quai trước trên phim chếch ngang đơn lẻ 
và đo đạc chiều dài của quai trước. Mục đích của nghiên cứu 
này là để xác định sự hiện diện và đo đạc chiều dài quai trước 
của thần kinh cằm trên các đối tượng có độ tuổi trưởng thành 
(từ 18 đến 60) không có bệnh lý hoặc chấn thương vùng cằm, 
và còn đủ các răng hàm nhỏ hàm dưới bằng CBCT. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nhằm để xác định tỉ lệ sự hiện diện và chiều dài trung 
bình của quai trước thần kinh cằm, chúng tôi sử dụng phần 
mềm SPSS 16.0 để cho ra kết quả.
40 bệnh nhân trưởng thành được lựa chọn ngẫu nhiên 
trong nhóm tuổi từ 18 đến 60 mà không có bệnh lý hoặc 
chấn thương vùng cằm, và còn đủ các răng hàm nhỏ hàm 
dưới từ các hình ảnh CBCT có sẵn của Viện Đào tạo Răng 
Hàm Mặt – Đại học Y Hà Nội. Tất cả các hình ảnh CBCT 
đều được chụp bởi Model Hệ thống Hình ảnh Nha khoa Cone 
beam 3D GALILEOS COMFORT của Dentsply Sirona (Mỹ) 
có thể tích khối cầu bán kính 15,4 cm; thời gian quét 14s 
giây, và cỡ voxel đẳng hướng 0,25mm; thời gian tái cấu trúc 
dưới 4 phút. Sự hiện diện và chiều dài quai trước cả bên 
phải và bên trái đều được đo ở từng đối tượng. Phần mềm 
GalileosViewer-1.9 được sử dụng để xác định sự hiện diện 
và đo đạc chiều dài quai trước bằng việc sử dụng phần mềm 
tái hiện đa mặt phẳng. Phần mềm tái hiện đa mặt phẳng cho 
phép hình ảnh được tạo ra từ các mặt phẳng trục gốc trên các 
mặt phẳng đứng dọc, đứng ngang hoặc xiên.
Hình 1: Lỗ cằm và đường đi của thần kinh cằm được 
hiển thị trên cả 3 cửa sổ.
Các bước để tiến hành xác định sự hiện diện của quai 
trước và đo đạc chiều dài của quai trước:
Bước 1: Trên cửa sổ phim Panorama, điều chỉnh tới vị trí 
của lỗ cằm để có được tầm nhìn tốt nhất cho đường đi của 
quai trước thần kinh cằm ở cửa sổ mặt phẳng Tangential và 
Cross-sectional (Hình 1).
Bước 2: Trên cửa sổ mặt phẳng Tangential, điều chỉnh 
thanh công cụ thay đổi góc của mặt phẳng Tangential sao cho 
đường thẳng hiển thị mặt phẳng Tangential trên cửa sổ mặt 
phẳng Cross-Sectional có phương trùng với đường đi của 
quai trước thần kinh cằm (Hình 2).
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn22
Hình 2: Điều chỉnh mặt phẳng Tangential để có thể nhìn 
được đường đi của thần kinh cằm.
Hình 3: Ghi nhận kết quả có sự hiện diện của quai trước 
và độ dài quai trước là 4.13mm.
Bước 3: Phóng to cửa sổ mặt phẳng Tangential, kẻ đường 
thẳng thứ nhất (d1) song song với mặt ngoài của cành ngang 
xương hàm dưới và một đường thẳng thứ hai (d2) vuông góc 
với đường thẳng d1, đi qua điểm trước nhất của quai trước 
(điểm này có thể là điểm bắt đầu của ống răng cửa hoặc là 
điểm ở phía trước nhất của đường cong quai cằm). Chiều dài 
của quai trước được đo từ điểm trước nhất của lỗ cằm tới 
đường thẳng d2 (Hình 3).
Trường hợp quai trước không hiện diện hoặc điểm bắt 
đầu của ống răng cửa nằm ở phía sau lỗ cằm, kết quả được 
ghi lại là không có sự hiện diện của quai trước và giá trị chiều 
dài là 0mm.
Phân tích thống kê: 
1 người kiểm tra tham gia vào nghiên cứu. Mỗi đối tượng 
nghiên cứu đều được xác định sự hiện diện quai trước của 
thần kinh cằm và đo đạc chiều dài của quai trước nếu có ở cả 
hai bên trong 2 lần khác nhau. Độ tin cậy của 2 lần kiểm tra 
được kiểm định bằng cách sử dụng hệ số tương quan trong 
phần mềm SPSS 16.0 (Giá trị alpha của Cronbach > 0.8 có 
ý nghĩa là thỏa mãn vô điều kiện, >0,9 có nghĩa là thỏa mãn 
tuyệt đối). Tỷ lệ hiện diện của quai trước và trung bình chiều 
dài của quai trước được tính toán dựa trên các chỉ số trung 
bình của 2 lần đo. Sau khi tính toán các trung bình và độ lệch 
chuẩn, t-Test cặp đôi được sử dụng để so sánh chiều dài quai 
trước giữa bên phải và bên trái, giữa nam và nữ. Mức α của 
tất cả các kiểm tra thông kê đều được đặt ở 0.05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tất cả các phép đo đều được thu thập bởi các test độ tin 
cậy của 2 lần kiểm tra. Các hệ số tương quan lớn hơn 0.9 
được thu nhận trong việc so sánh giữa 2 lần kiểm tra cũng thể 
hiện sự thỏa mãn tuyệt đối.
Phép đo chiều dài quai trước so sánh giữa bên phải và bên 
trái, giữa nam và nữ được liệt kê ở Bảng 1, 2, 3. Quai trước 
hiện diện (chiều dài > 0 mm) ở 77 trên 80 nửa hàm dưới (tỉ 
lệ xuất hiện là 96.25%). Giá trị trung bình của chiều dài quai 
trước của 40 đối tượng (80 nửa hàm dưới) là 3.27 ± 1.38mm. 
Chiều dài quai trước lớn nhất là 7.45 mm. Giá trị trung bình 
của chiều dài quai trước ở bên phải là 3.28 ± 1.62mm và ở 
bên trái là 3.27 ± 1.48mm. Không có ý nghĩa thống kê nào 
giữa bên phải và bên trái. Giá trị trung bình của chiều dài 
quai trước là 3,57 ± 1.52mm ở nam giới và 3.05 ± 1.25mm 
ở nữ giới và không có khác biệt mang ý nghĩa thống kê nào 
được tìm thấy.
Bảng 1: Tỉ lệ hiện diện của quai trước ở 2 bên của 40 
đối tượng được nghiên cứu
Bên 
Phải
Bên 
trái
Tổng số
Số lượng Tỉ lệ
Có quai trước 2 1 3 3.75%
Không có quai trước 38 39 77 96.25%
Tổng số 40 40 80 100%
Bảng 2: Chiều dài quai trước trung bình ở 2 bên của 40 
đối tượng được nghiên cứu
Giá trị Trung bình ± 
Độ lệch chuẩn (mm)
Giá trị lớn 
nhất (mm)
Bên Phải (n=40) 3.28 ± 1.62 7.45
Bên Trái (n=40) 3.27 ± 1.48 6.57
Kiểm định T-test
*=<0.05
0.966
(Do p>0.05 nên không có sự khác biệt 
mang tính thống kê)
Tổng số (n=80) 3.27 ± 1.38 7.45
Bảng 3: Chiều dài quai trước trung bình ở nam và nữ 
trong 40 đối tượng được nghiên cứu
Giá trị Trung bình (mm) Độ lệch chuẩn (mm)
Nam (n=17) 3.57 1.52
Nữ (n=23) 3.04 1.25
Kiểm định 
T-test biến 
độc lập 
*=<0.05
F = 0.473 với p = 0.496 > 0.05 nên phương 
sai 2 nhóm không có khác biệt
t = 1.189 với p = 0.242 > 0.05 nên 2 
nhóm không có khác biệt thống kê
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2016
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn 23
IV. BÀN LUẬN
Trong các tài liệu y văn, các phép đo trung bình của chiều 
dài quai trước là thay đổi. Giá trị trung bình của chiều dài 
quai trước thay đổi từ 0.1mm (Bavitz và cộng sự (7)) tới 6.92 
mm (Chen và cộng sự (8)). Lý do mà các kết quả thay đổi có 
thể là do các công cụ chẩn đoán khác nhau (trên tử thi, trên 
xương sọ khô, phim Xquang 2 chiều, phim Xquang 3 chiều), 
cộng đồng khác nhau (độ tuổi, giới tính, chủng tộc, tình 
trạng nha khoa khác nhau) và các phương pháp đo đạc khác 
nhau (đo đạc trực tiếp bằng cách sử dụng cây thăm, thước 
cặp, phương pháp khác nhau của việc đọc kết quả Xquang). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, giá trị chiều dài quai trước 
của 40 đối tượng trên phim CBCT (80 nửa cung hàm) là 3.27 
± 1.38mm. Điều này cũng tương ứng với hầu hết các nghiên 
cứu trên tử thi mà sử dụng phép đo trực tiếp. 
Nghiên cứu của Arzouman và cộng sự (4), Kaya và cộng 
sự (5), Misch và cộng sự (9) đã thấy giá trị trung bình của 
chiều dài quai trước tương ứng là 3.45 mm, 3.75mm, 5mm. 
1 lý do có thể để các trung bình chiều dài quai trước này 
được so sánh với nghiên cứu này có thể là do trên thực tế các 
nhà nghiên cứu trước kia sử dụng phim Xquang 2 chiều là 
công cụ đo đạc. Kuzmanovic và cộng sự (3) đã kết luận rằng 
Xquang toàn cảnh là không đáng tin cậy và có tỷ lệ xuất hiện 
dương tính giả và âm tính giả cao trong việc xác định sự hiện 
diện của quai trước. Họ nhận thấy rằng chiều dài trên phim 
Xquang của quai trước ở ống cằm có thể chỉ được đo trên 
phim Xquang nơi mà toàn bộ đường đi của ống cằm có thể 
được nhìn thấy rõ ràng, từ ống hàm dưới tới lỗ cằm. Chúng 
tôi áp dụng khái niệm này trên hình ảnh CBCT. Chúng tôi 
nghĩ rằng cách chính xác nhất để đo đạc quai trước là khi ống 
hàm dưới, quai trước, ống răng cửa, và lỗ cằm có thể được 
nhìn thấy rõ ràng một cách liên tục trong cùng 1 tầm nhìn.
Chụp cắt lớp vi tính Cone beam (CBCT) được đưa vào từ 
đầu những năm 2000 với liều lượng bức xạ ít hơn đáng kể so 
với CT thông thường. Nhiều tác giả cũng đã nhận thấy CBCT 
chính xác như chụp cắt lớp vi tính nhiều lát thông thường với 
việc sử dụng của nó trong phẫu thuật cấy ghép implant được 
hướng dẫn bởi hình ảnh. Mặc dù CBCT đã được chứng minh 
là chính xác, các nghiên cứu sử dụng CBCT để phân tích chiều 
dài trung bình của quai trước vẫn thể hiện kết quả trái ngược từ 
0.89mm (Apostolakis và cộng sự (10)) tới 6.92mm (Chen và 
cộng sự (8)). Chúng tôi đã thấy rằng phương pháp đo đạc chiều 
dài quai trước trên CBCT là khác nhau. Chen và cộng sự (8) đã 
nói rằng họ đã tái tạo một phần của tầm nhìn toàn cảnh dọc theo 
ống thần kinh ổ răng dưới, nhưng không có điểm tham chiếu 
cho việc đo đạc quai trước được tìm thấy. Apostolakis và cộng 
sự (10) đã đếm các lát mặt cắt lát đứng dọc 0.3mm để đánh giá 
chiều dài của quai trước, và chúng tôi đã thấy sự khó khăn để 
xác định hầu hết các phần phía trước của dây thần kinh cằm 
trên tầm nhìn mặt cắt ngang đặc biệt khi mật độ xương xấu (5). 
Phương pháp chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu của mình là 
để định vị lỗ cằm và quai trước trên 1 tầm nhìn xiên ngang đơn 
lẻ. Chúng tôi tin rằng khi ống hàm dưới, quai trước, ống răng 
cửa và lỗ cằm có thể được quan sát rõ ràng có thể được hình 
dung đồng thời trong cùng một tầm nhìn thì phép đo sẽ chính 
xác hơn. Sự hiện diện của quai trước thần kinh cằm được xác 
định khi bất cứ phần nào của thần kinh cằm nằm ở phía gần 
(hoặc phía trước) của lỗ cằm. Trong nghiên cứu này, tỉ lệ lên tới 
96.25% quai trước được ghi nhận. Trong nghiên cứu của Neiva 
và cộng sự (11) đã phát hiện 88% quai trước trên xương sọ bằng 
cách sử dụng cây thăm, và Kieser và cộng sự (12) đã phát hiện 
thấy 84% trên tử thi. Nguyên nhân mà một số nghiên cứu đã 
thể hiện tỉ lệ xuất hiện thấp (7 tới 55%) (7) có thể là do sự khác 
nhau trên việc xác định rõ ràng các phần phía trước nhất của 
thần kinh cằm. Trong khi đó, kết quả của chúng tôi cao hơn hẳn 
so với các kết quả trước đây, đây có lẽ chính là do cỡ mẫu n=40 
còn quá nhỏ. Tuy nhiên, kết quả này có thể cho thấy rằng tỉ lệ 
xuất hiện của quai trước thần kinh cằm ở người trưởng thành 
Việt Nam là rất cao.
Các biến chứng của chấn thương phẫu thuật hoặc áp lực 
lên dây thần kinh cằm có thể gây ra các rối loạn thần kinh 
cảm giác, và sự thay đổi cảm giác ở môi dưới và cằm sau khi 
cấy ghép implant. Ellies và Hawker (13) đã báo cáo trong 1 
phân tích hồi cứu của 1 nghiên cứu đa tâm. Họ đã thấy sự 
thay đổi cảm giác của thần kinh ổ răng dưới ở 36% bệnh 
nhân sau 2 tuần và 13% sau 1 năm. Nó đã được đề xuất trong 
tài liệu rằng các mặt xa nhất của 1 implant nên ở tối thiểu 1 
mm (7), 4mm (3), hoặc 6mm (14) về phía trước của lỗ cằm 
để tránh gây tổn thương thần kinh ổ răng dưới và/hoặc thần 
kinh cằm trong quá trình mở xương dựa trên các phát hiện 
của họ trong tỉ lệ xuất hiện của quai trước thần kinh cằm. Ở 
nghiên cứu này, chiều dài quai trước lớn nhất là 7.45mm. 
Hơn nữa, quai trước dài nhất trong tài liệu được báo cáo bởi 
Neiva và cộng sự (11) là 11mm, tiếp theo là của Uchida và 
cộng sự (6) là 9mm. Với những trường hợp này, quy tắc 1, 
4 hoặc 6mm sẽ khiến chúng ta làm tổn thương thần kinh khi 
cấy ghép implant gần sát với lỗ cằm.
Ngoài ra, việc đặt implant ở bệnh nhân còn răng ở hàm 
dưới liên quan tới vùng răng hàm nhỏ và răng hàm lớn, các 
bó mạch thần kinh cằm thường là điểm tham chiếu quan 
trọng trong việc lên kế hoạch điều trị. Do đó, vị trí chính xác 
của quai cằm phải được xác định trước khi phẫu thuật bằng 
các kỹ thuật Xquang thích hợp. Chúng tôi đề nghị sử dụng 
phương thức tái hiện xiên ngang trên CBCT để định vị và đo 
đạc chính xác chiều dài quai trước trước khi tiến hành phẫu 
thuật implant.
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SỐ 34 - Tháng 9+10/2016
Website: yhoccongdong.vn24
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tyndall DA, Price JB, Tetradis S, Ganz SD, Hildebolt C, Scarfe WC; American Academy of Oral and Maxillofacial 
Radiology. Position statement of the American Academy of Oral and Maxillofacial Radiology on selection criteria for the 
use of radiology in dental implantology with emphasis on cone beam computed tomography. Oral Surg Oral Med Oral 
Pathol Oral Radiol. 2012 Jun;113(6):817-26.
2. DuBrul EL. Sicher's oral anatomy 7th ed. Mosby 1980.
3. Kuzmanovic DV, Payne AGT, Kieser JA, Dias GJ. Anterior loop of the mental nerve: A morphological and radiographic 
study. Clin Oral Implants Res 2003;14:464–471.
4. Arzouman MJ, Otis L, Kipnis V, Levine D. Observations of the anterior loop of the inferior alveolar canal. Int J Oral 
Maxillofac Implants. 1993;8(3):295-300
5. Kaya Y, Sencimen M, Sahin S, Okcu KM, Dogan N, Bahcecitapar M. Retrospective Radiographic Evaluation of the 
Anterior Loop of the Mental Nerve:Comparison Between Panoramic Radiography and Spiral Computerized Tomography. 
Int J Oral Maxillofac Implants. 2008 Sep-Oct;23(5):919-25.
6. Uchida Y, Noguchi N, Goto M, Yamashita Y, Hanihara T, Takamori H, Sato I, Kawai T, Yosue T. Measurement of 
anterior loop length for the mandibular canal and diameter of the mandibular incisive canal to avoid nerve damage when 
installing endosseous implants in the interforaminal region: a second attempt introducing cone beam computed tomography. 
J Oral Maxillofac Surg. 2009 Apr;67(4):744-50.
7. Bavitz JB, Harn SD, Hansen CA, Lang M. An anatomical study of mental neurovascular bundle-implant relationships. 
Int J Oral Maxillofac Implants. 1993;8(5):563-7.
8. Chen JC, Lin LM, Geist JR, Chen JY, Chen CH, Chen YK. A retrospective comparison of the location and diameter of 
the inferior alveolar canal at the mental foramen and length of the anterior loop between American and Taiwanese cohorts 
using CBCT. Surg Radiol Anat. 2013 Jan;35(1):11-8
9. Misch CE, Crawford EA. Predictable mandibular nerve location--a clinical zone of safety. Int J Oral Implantol. 
1990;7(1):9-17
10. Apostolakis D, Brown JE. The anterior loop of the inferior alveolar nerve: prevalence, measurement of its length and 
a recommendation for interforaminal implant installation based on cone beam CT imaging. Clin Oral Implants Res. 2012 
Sep;23(9):1022-30.
11. Neiva RF, Gapski R, Wang HL. Morphometric analysis of implant-related anatomy in caucasian skulls. J Periodontol. 
2004 Aug;75(8):1061-7.
12. Kieser J, Kuzmanovic D, Payne A, Dennison J, Herbison P. Patterns of emergence of the human mental nerve. Arch 
Oral Biol. 2002 Oct;47(10):743-7.
13. Ellies LG, Hawker PB. The prevalence of altered sensation associated with implant surgery. Int J Oral Maxillofac 
Implants 1993;8:674-9
14. Solar P, Ulm C, Frey G, et al: A classification of the intraosseous path of the mental nerve. Int J Oral Maxillofac 
Implants 9:339, 1994
V. KẾT LUẬN
Sau khi đánh giá 40 hình ảnh CBCT của bệnh nhân:
(1) 96,25% hình ảnh cho thấy sự hiện diện của quai 
trước thần kinh cằm.
(2) 1 phạm vi rộng của phép đo chiều dài quai trước từ 
0mm tới 7.45mm với giá trị trung bình là 3.27mm
(3) Không có khác biệt ý nghĩa thống kê được tìm thấy 
giữa phép đo bên phải và bên trái, giữa nam và nữ. 
Khi cấy ghép implant ở gần sát với lỗ cằm, điều thận 
trọng được khuyến cáo để tránh gây tổn thương thần kinh 
cằm và bó mạch thần kinh của nó. Quai trước của thần kinh 
cằm trở thành một điểm tham chiếu phẫu thuật quan trọng 
trong quá trình lên kế hoạch điều trị. Bởi vì phạm vi rộng của 
chiều dài quai trước được quan sát thấy trong nghiên cứu của 
chúng tôi, nên không có khoảng cách cố định về phía gần 
hoặc phía trước so với lỗ cằm nên được coi là 1 khoảng cách 
“an toàn” mà không sử dụng hình ảnh ba chiều. Việc phân 
tích hình ảnh CBCT bằng phương pháp được mô tả trong bài 
này có thể là một công cụ hữu dụng để tránh các biến chứng 
phẫu thuật implant tại vùng cằm.

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_ti_le_hien_dien_va_chieu_dai_quai_truoc_cua_than_ki.pdf