Khảo sát thực trạng thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng đối với người bệnh tại Bệnh viện Quân Y 87
Tiến cứu, mô tả, cắt ngang 500 bệnh nhân đến khám và điều trị tại
Bệnh viện Quân y 87 từ tháng 8/2015-4/2016 cho thấy:
- Thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng với bệnh nhân giữa hai khối khám
bệnh và điều trị tương đối ngang nhau. Khối khám bệnh trung bình tốt và rất tốt chiếm
70,88%; khối điều trị trung bình tốt và rất tốt chiếm 70,48%; trung bình toàn viện đạt
70,68%. Thực hành quy chế giao tiếp ở mức chưa tốt còn chiếm tỉ lệ cao (khối khám
bệnh chiếm 29,1%; khối điều trị chiếm 29,5%; trung bình toàn bệnh viện chiếm 29,3%).
- Sự hài lòng của bệnh nhân với điều dưỡng tại Khoa Khám bệnh: rất hài lòng
45,6%, hài lòng 50%, không hài lòng 4,4%; tại khối điều trị: rất hài lòng 22%, hài lòng
77,6%, không hài lòng 0,4%.
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát thực trạng thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng đối với người bệnh tại Bệnh viện Quân Y 87", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát thực trạng thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng đối với người bệnh tại Bệnh viện Quân Y 87
HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A 113 KHẢO SÁT THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUY CHẾ GIAO TIẾP CỦA ĐIỀU DƯỠNG ĐỐI VỚI NGƯỜI BỆNH TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 87 Lê Bá Vĩnh1, Nguyễn Minh Thắng1, Đào Quang Ánh1 TÓM TẮT: Tiến cứu, mô tả, cắt ngang 500 bệnh nhân đến khám và điều trị tại Bệnh viện Quân y 87 từ tháng 8/2015-4/2016 cho thấy: - Thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng với bệnh nhân giữa hai khối khám bệnh và điều trị tương đối ngang nhau. Khối khám bệnh trung bình tốt và rất tốt chiếm 70,88%; khối điều trị trung bình tốt và rất tốt chiếm 70,48%; trung bình toàn viện đạt 70,68%. Thực hành quy chế giao tiếp ở mức chưa tốt còn chiếm tỉ lệ cao (khối khám bệnh chiếm 29,1%; khối điều trị chiếm 29,5%; trung bình toàn bệnh viện chiếm 29,3%). - Sự hài lòng của bệnh nhân với điều dưỡng tại Khoa Khám bệnh: rất hài lòng 45,6%, hài lòng 50%, không hài lòng 4,4%; tại khối điều trị: rất hài lòng 22%, hài lòng 77,6%, không hài lòng 0,4%. Từ khóa: Quy chế giao tiếp của điều dưỡng, thực trạng. SURVEY THE PRACTICE OF COMMUNICATIVE REGULATIONS OF NURSING SITUATION WITH THE PATIENTS IN 87 MILITARY HOSPITAL ABSTRACT: A prospective, cross-sectional study on the 500 patients, who had examined and treated at the Military hospital 87 from August 2015 to April 2016. The results showed that: - The practice of communicative regulations of nursing with the patients between two blocks: medical examination unit and treatment block relatively equal. At the medical examination unit: the average of good and exellence accounted for 70.88%; at the treatment block: the average of good and exellence accounted for 70.48%; the average of the whole hospital reached 70.68%. The practice of communicative regulations of poor also accounted for a high proportion (medical examination unit - 29.1%, treatment block - 29.5% and the average of the whole hospital - 29.3%). - The satisfaction level of patients with nursing at the Department of medical 1 Bệnh viện Quân y 87 Người phản hồi (Corresponding): Lê Bá Vĩnh ([email protected]) Ngày nhận bài: 14/10/2018, ngày phản biện: 07/11/2018 Ngày bài báo được đăng: 30/12/2018 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018 114 examination: very satisfied 45.6%, satisfied 50%, dissatisfied 4.4%; at the treatment block: very satisfied 22%, satisfied 77.6%, dissatisfied 0.4%. Keywords: Nursing communicative regulations, real situation. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, điều dưỡng là người đầu tiên tiếp xúc với bệnh nhân (BN), theo dõi, chăm sóc trong suốt quá trình khám bệnh và điều trị cho tới khi người bệnh ra viện. Ngoài phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn thì việc thực hành chế độ giao tiếp của điều dưỡng với BN là rất quan trọng, góp phần quyết định đến chất lượng thu dung điều trị, chăm sóc người bệnh, tạo được sự hài lòng cũng như uy tín của bệnh viện. Bên cạnh đó, giao tiếp cũng là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sự hài lòng của người bệnh. Theo kết quả nghiên cứu của Đinh Ngọc Toàn tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình năm 2012, phần lớn bệnh nhân đánh giá tốt và cảm thấy hài lòng với việc thực hiện quy chế giao tiếp của điều dưỡng, tỉ lệ hài lòng và rất hài lòng đạt trên 89%. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít bệnh nhân không hài lòng do điều dưỡng thực hiện chưa tốt một số vấn đề như: thái độ khi trả lời các câu hỏi của người bệnh, điều dưỡng không giới thiệu hoặc giới thiệu không đầy đủ tên mình cũng như các nội quy, quy định của bệnh viện, của khoa phòng, thái độ của điều dưỡng khi bệnh nhân lo sợ, đau đớn [3]. Nghiên cứu của Đinh Ngọc Toàn cũng dẫn cứ kết quả đánh giá thực trạng giao tiếp của điều dưỡng tại Bệnh viện Bạch Mai tháng 9/2004; Ngô Thị Ngoãn và cộng sự thấy đa số người bệnh đến khám và điều trị đều cho rằng thái độ của điều dưỡng đối với BN trong quá trình đến khám và nhập viện là chu đáo (82,7% trong tổng số 300 phiếu), tuy nhiên, vẫn còn một số BN cho rằng thái độ g iao tiếp của người điều dưỡng ở mức bình thường (17%) và còn thái độ thờ ơ lạnh nhạt (0,3%). Trong số BN được phỏng vấn, có tới 81,7% cảm thấy hài lòng về thái độ ứng xử của nhân viên y tế khi nằm điều trị tại bệnh viện, 16,7% trả lời là bình thường và 1% không có được sự hài lòng. Cabe M (2004) chỉ nghiên cứu về giao tiếp giữa điều dưỡng và BN dựa trên những trải nghiệm của BN cho thấy, có 4 chủ đề liên quan tới việc giao tiếp giữa điều dưỡng và người bệnh, đó là: sự thiếu thông tin, sự quan tâm, sự cảm thông và thái độ thân thiện của điều dưỡng. Nghiên cứu chỉ ra rằng có sự ảnh hưởng lớn từ mô hình chăm sóc đến sự giao tiếp của điều dưỡng với người bệnh. Từ những ý nghĩa trên, chúng tôi tiến hành khảo lấy ý kiến của người bệnh về thực trạng thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng với người bệnh tại Bệnh viện Quân y 87 với 2 mục tiêu: 1. Khảo sát thực trạng thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng đối với BN; đánh giá sự hài lòng của BN đối với điều dưỡng trong suốt quá trình đến khám và điều trị tại bệnh viện. 2. Đề xuất các giải pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp của điều dưỡng. 2. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: 500 BN bao gồm 250 người được khám tại Khoa Khám bệnh và 250 người được thu dung điều trị tại các khoa lâm sàng của Bệnh viện Quân y 87 từ tháng HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A 115 8/2015 đến tháng 4/2016. - Các chỉ tiêu lựa chọn: BN tới khám tại Khoa Khám bệnh và BN điều trị nội trú tại các khoa lâm sàng từ 3 ngày trở lên. - Tiêu chuẩn loại trừ: BN hôn mê hoặc rối loạn ý thức, BN điều trị nội trú dưới 3 ngày, BN dưới 18 tuổi, BN là người nước ngoài. 2.2. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu: mô tả, cắt ngang. - Phương tiện và dụng cụ nghiên cứu: sử dụng bộ câu hỏi điều tra theo mục đích nghiên cứu. - Các bước tiến hành: + Tiến hành phát phiếu khảo sát. + Thu phiếu khảo sát, tổng hợp kết quả, xử lý số liệu, đánh giá kết quả. - Chỉ tiêu đánh giá: rất tốt, tốt, bình thường và chưa tốt dựa theo tiêu chuẩn quy định tại Thông tư số 07/2014-BYT của Bộ Y tế. + Đánh giá chất lượng phục vụ của điều dưỡng viên khi BN đến khoa khám bệnh. + Đánh giá chất lượng phục vụ của điều dưỡng viên khi BN vào các khoa lâm sàng. + Đánh giá chất lượng phục vụ của điều dưỡng viên khi BN đang điều trị tại các khoa lâm sàng. + Đánh giá chất lượng phục vụ của điều dưỡng viên khi cho BN dùng thuốc và làm các thủ thuật. + Đánh giá sự hài lòng của BN về thái độ và cách chăm sóc của điều dưỡng viên. - Phương pháp xử lý số liệu: theo phương pháp thống kê y học. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: 3.1.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi (n = 500): Tuổi Số lượng Tỉ lệ % Từ 18-25 191 38,2 Từ 26-45 182 36,4 Từ 46-65 84 16,8 Trên > 65 43 8,6 3.1.3. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo đối tượng BN (n = 500): Đối tượng BN Số lượng Tỉ lệ % Quân 204 40,8 Bảo hiểm y tế 250 50 Dịch vụ y tế 46 9,2 3.1.2. Phân bố đối tượng theo giới tính (n = 500): Giới tính Số lượng Tỉ lệ % Nam 285 57 Nữ 215 43 3.1.4. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nghề nghiệp (n = 500): Nghề nghiệp Số lượng Tỉ lệ % Quân nhân tại ngũ 204 40,8 Nông dân, ngư dân 97 19,4 Công nhân 139 27,8 Công chức 28 5,6 Hưu trí 13 2,6 Lao động tự do 19 3,8 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018 116 3.2. Đánh giá chất lượng phục vụ bệnh nhân của điều dưỡng: 3.2.1. Đánh giá chất lượng phục vụ khi bệnh nhân đến Khoa Khám bệnh (n = 250): Các tiêu chí đánh giá Số lượng Tỉ lệ % Điều dưỡng chủ động tiếp đón với thái độ niềm nở và sẵn sàng giúp đỡ Có 229 91,6 Không 21 8,4 Điều dưỡng trả lời các câu hỏi của người bệnh Có 218 87,2 Chưa 32 12,8 Thái độ của điều dưỡng khi trả lời các câu hỏi của người bệnh Ân cần, quan tâm, lịch sự 130 52 Cáu gắt, không nhiệt tình 18 7,2 Bình thường 102 40,8 Bệnh nhân được điều dưỡng hướng dẫn làm thủ t ục khám bệnh, nhập viện Đầy đủ 207 82,8 Chưa đầy đủ 43 17,2 Không 0 0 Trung bình các chỉ tiêu khảo sát được đánh giá tốt và rất tốt chiếm 70,88%. 3.2.2. Đánh giá chất lượng phục vụ khi bệnh nhân vào điều trị tại các khoa lâm sàng (n = 250): Các tiêu chí đánh giá Số lượng Tỉ lệ (%) Điều dưỡng tiếp nhận và xếp giường ngay khi BN vào khoa điều trị Rất tốt 119 47,6 Tốt 124 49,6 Trung bình 7 2,8 Điều dưỡng giới thiệu các quy định cụ thể của bệnh viện, của khoa Đầy đủ 203 81,2 Chưa đầy đủ 42 16,8 Không 5 2 Điều dưỡng phụ trách giới thiệu tên và chức danh, thăm hỏi, làm quen với bệnh nhân khi vào khoa điều trị Đầy đủ 185 74 Chưa đầy đủ 55 22 Không 10 4 Trung bình các chỉ tiêu khảo sát được đánh giá tốt và rất tốt chiếm 68,24%. HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A 117 3.2.3. Đánh giá chất lượng phục vụ khi bệnh nhân điều trị tại các khoa lâm sàng (n = 250): Các tiêu chí đánh giá Số lượng Tỉ lệ (%) Điều dưỡng xưng hô lịch sự, phù hợp với tuổi hoặc quan hệ xã hội Rất tốt 61 24,4 Tốt 178 71,2 Chưa tốt 09 3,6 Không xưng hô 02 0,8 Điều dưỡng phụ trách giáo dục sức khỏe Có, rất đầy đủ 104 41,6 Có, chưa đầy đủ 103 41,2 Không 43 17,2 Hướng dẫn bệnh nhân thực hiện chế độ điều trị, chăm sóc Có 230 92 Không 20 8,0 Điều dưỡng trong giờ trực (buổi trưa và buổi tối) có mặt ngay tại giường bệnh khi được bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân gọi Có 248 99,2 Không 2 0,8 Điều dưỡng giải quyết kịp thời các vấn đề chuyên môn cần thiết khi được yêu cầu như thay dịch truyền, đo huyết áp, lấy nhiệt độ Rất tốt 193 77,2 Tốt 45 18 Chưa tốt 12 4,8 Điều dưỡng có những cử chỉ, lời nói thể hiện sự gợi ý nhận tiền, quà biếu của người bệnh Không 240 96 Có 10 4 Trung bình các chỉ tiêu khảo sát được đánh giá tốt và rất tốt chiếm 64,95%. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018 118 3.2.4. Đánh giá chất lượng phục vụ khi cho bệnh nhân dùng thuốc và làm các thủ thuật tại các khoa lâm sàng (n = 250): Các tiêu chí đánh giá Số lượng Tỉ lệ (%) Điều dưỡng hướng dẫn cho bệnh nhân cách dùng thuốc, những vấn đề cần theo dõi và chú ý trong quá trình dùng thuốc Có, rất đầy đủ 157 62,8 Có, chưa đầy đủ 88 35,2 Không 5 2,0 Điều dưỡng công khai số lượng thuốc, loại thuốc dùng cho bệnh nhân mỗi lần và hằng ngày Có, rất đầy đủ 142 56,8 Có, chưa đầy đủ 96 38,4 Không 12 4,8 Điều dưỡng thông báo và hướng dẫn những điều cần thiết trước khi làm thủ thuật Có 226 90,4 Không 24 9,6 Điều dưỡng giải thích cho người bệnh, người nhà bệnh nhân khả năng rủi ro có thể xảy ra khi làm thủ thuật Có 240 96 Không 10 4,0 Thái độ của điều dưỡng khi bệnh nhân lo sợ, đau đớn Cảm thông, động viên 213 85,2 Thờ ơ, lạnh nhạt 00 00 Không tỏ thái độ 37 14,8 Trung bình các chỉ tiêu khảo sát được đánh giá tốt và rất tốt chiếm 78,24%. 3.2.5. Thực trạng thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng đối với người bệnh. Nội dung Rất tốt và tốt Chưa tốt Tại khoa khám bệnh 70,88% 29,1% Tại các khoa lâm sàng 70,48% 29,5% Trung bình toàn bệnh viện 70,68% 29,3% 3.2.6. Đánh giá sự hài lòng của bệnh nhân về thái độ, cách chăm sóc bệnh nhân của điều dưỡng: Nội dung Rất hài lòng Hài lòng Chưa hài lòng Tại khoa khám bệnh (n = 250) 114 (45,6%) 125 (50%) 11 (4,4%) Tại các khoa lâm sàng (n = 250) 55 (22%) 194 (77,6%) 1 (0,4%) 4. BÀN LUẬN 4.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: Trong số 500 bệnh nhân được khảo sát, nam giới chiếm 57%, nữ giới chiếm 43%. Về tuổi có hai nhóm tuổi 18-25 và 26-45 chiếm tỉ lệ cao nhất (38,5% và 36,4%), nhóm tuổi trên 65 chiếm 8,6%. 4.2. Đánh giá chất lượng phục vụ bệnh nhân của điều dưỡng viên: Tại Khoa Khám bệnh, kết quả tương đối khả quan. Hầu hết các tiêu chí tốt đều đạt gần 80%, tuy nhiên thái độ ân cần, quan tâm, lịch sự của nhân viên y tế khi trả lời các câu hỏi của bệnh nhân chỉ đạt HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG MỞ RỘNG LẦN I BỆNH VIỆN QUÂN Y 7A 119 52%, trong khi đó thái độ bình thường là 40,8% và vẫn còn tới 7,2% cáu gắt, không nhiệt tình với người bệnh. Các tiêu chí không đạt chiếm tỉ lệ nhỏ (từ 7,2-8,4%), tuy nhiên lại ảnh hưởng rất lớn tới sự hài lòng của bệnh nhân cũng như uy tín của bệnh viện. Điều này cần được khắc phục sớm và triệt để, từ đó tạo sự hài lòng cho thương bệnh binh và nhân dân tới khám, điều trị tại bệnh viện, cũng như thực hiện tốt bộ quy tắc ứng xử đang được bệnh viện áp dụng theo Thông tư 07/2014-BYT. Khi bệnh nhân vào các khoa lâm sàng điều trị, việc giới thiệu chưa đầy đủ và không giới thiệu các nội quy, quy định của bệnh viện, của khoa còn ở mức cao (16,8%). Điều dưỡng viên phụ trách giới thiệu tên và chức danh, thăm hỏi làm quen với bệnh nhân chưa đầy đủ chiếm 22%, không giới thiệu chiếm 4%. Điều này cần được khắc phục ngay để tạo nên sự gần gũi giữa điều dưỡng với thương bệnh binh và nhân dân, góp phần vào sự hài lòng của người bệnh. Khi bệnh nhân điều trị tại các khoa lâm sàng, điều dưỡng tiếp xúc đều xưng hô tốt và rất tốt ở mức cao (95,6%). Bên cạnh vẫn còn điều dưỡng chưa thật sự chú trọng cách xưng hô với bệnh nhân (xưng hô chưa tốt chiếm 3,6%, không xưng hô 0,8%), tạo cho bệnh nhân có ấn tượng không tốt. Phần lớn bệnh nhân đang điều trị tại các khoa được giáo dục sức khỏe, hướng dẫn thực hiện chế độ điều trị, chăm sóc, được giải quyết kịp thời các vấn đề chuyên môn. Tuy nhiên vẫn có đánh giá thấp như giáo dục sức khỏe chưa đầy đủ chiếm 41,2%, không giáo dục sức khỏe 17,2%. Điều này có thể được lý giải là do nhân lực điều dưỡng phục vụ còn thiếu, khối lượng công việc lớn, mô hình chăm sóc lạc hậu (chăm sóc theo công việc), nên vẫn có một tỉ lệ không nhỏ bệnh nhân chưa được chăm sóc đầy đủ. Đặc biệt vẫn có 4% bệnh nhân cho rằng điều dưỡng có những cử chỉ, lời nói thể hiện sự gợi ý nhận tiền, quà biếu. Thực tế có thể điều dưỡng không có chủ ý như vậy nhưng những hành động, lời nói không tốt, sự khác biệt về văn hóa vùng miền sẽ làm cho bệnh nhân hiểu sai vấn đề. Việc này cần khắc phục triệt để trong thời gian sớm nhất. Khi bệnh nhân dùng thuốc và làm các thủ thuật, bệnh nhân được công khai và hướng dẫn cách dùng thuốc đầy đủ đạt tỉ lệ chưa cao (56,8% và 62,8%), không công khai và không hướng dẫn (2% và 4,8%). Tỉ lệ bệnh nhân không được thông báo hướng dẫn, giải thích trước khi làm thủ thuật cũng chiếm 9,6%. Điều này dẫn tới sự hoài nghi, lo lắng, mất tin tưởng cho người bệnh. Có 14,8% bệnh nhân cho rằng điều dưỡng không tỏ thái độ khi bệnh nhân lo sợ, đau đớn, kết quả này cho thấy vẫn còn những điều dưỡng chưa thực sự thấu hiểu được BN, chưa cảm nhận được nỗi đau của bệnh, chưa xem nỗi đau của bệnh nhân như chính nỗi đau của mình. Về thái độ và cách chăm sóc của điều dưỡng, mức độ hài lòng và rất hài lòng của bệnh nhân ở mức cao (các khoa điều trị: rất hài lòng 22%, hài lòng 77,6%; Khoa Khám bệnh: rất hài lòng 45,6%, hài lòng 50%). Mặc dù trung bình rất hài lòng và hài lòng cao, nhưng các tiêu chí đánh giá được nhận xét không đồng đều, có những yếu tố không đạt ở mức cao. Từ kết quả trên, chúng tôi thiết nghĩ, để làm giảm sự đau đớn, lo lắng, khó chịu cho người bệnh, các điều dưỡng cần làm thật tốt khâu giải thích trước khi tiến hành TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 16 - 12/2018 120 thủ thuật xâm lấn, cũng như làm các xét nghiệm, hướng dẫn tận tình và chu đáo. Sớm và từng bước áp dụng mô hình chăm sóc lấy bệnh nhân làm trung tâm. Trong quá trình lập KHCS cho người bệnh cần ưu tiên việc giáo dục sức khỏe lên trước. Ngoài ra cũng cần phải cải thiện thái độ, cách giao tiếp ứng xử để tạo sự hài lòng cao nhất cho bệnh nhân tới khám, điều trị, từ đó tạo được lòng tin và uy tín của bệnh viện. 5. KẾT LUẬN Qua kết quả khảo sát 500 BN đến khám và điều trị tại Bệnh viện Quân y 87 từ tháng 8/2015 đến tháng 4/2016, chúng tôi rút ra kết luận: 5.1. Đối với thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng với BN: - Thực trạng thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng với BN giữa hai khối khám bệnh và điều trị là tương đương nhau. Mức tốt và rất tốt của khối khám bệnh đạt 70,88%; của khối điều trị đạt 70,48%; trung bình toàn bệnh viện đạt 70,68%. - Thực hành quy chế giao tiếp ở mức trung bình và chưa tốt còn chiếm tỉ lệ cao: khối khám bệnh chiếm 29,1%; khối điều trị chiếm 29,5%. 5.2. Đối với sự hài lòng của BN với điều dưỡng: - Tại Khoa Khám bệnh: rất hài lòng 45,6%; hài lòng 50%; không hài lòng 4,4%. - Khối điều trị: rất hài lòng 22%; hài lòng 77,6%; không hài lòng 0,4%. Từ kết quả nghiên cứu này, chúng tôi kiến nghị: - Thủ trưởng bệnh viện và đội ngũ quản lý điều dưỡng tạo điều kiện cho lực lượng điều dưỡng được học tập về kỹ năng giao tiếp, quy chế giao tiếp theo quy định; ngoài ra cần làm tốt công tác kiểm tra, giám sát chế độ bệnh viện, giám sát chặt chẽ việc thực hành chế độ giao tiếp trong điều trị và chăm sóc BN. - Các điều dưỡng viên không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như những kỹ năng ứng xử, giao tiếp; phải nắm chắc các chế độ quy định của bệnh viện, quy định của ngành, nhất là thực hiên tốt quy tắc ứng xử đã được ban hành. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Lợi và cộng sự (2014), Đánh giá thực trạng điều dưỡng và y đức tại Bệnh viện Quân y 6, Quân khu 2”. 2. Nguyễn Bá Quỳnh, Lê Minh Tuất (2013), Đánh giá sự hài lòng của bệnh nhân đến khám tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Quân y 87. 3. Đinh Ngọc Toàn (2012), Khảo sát thực trạng thực hành quy chế giao tiếp của điều dưỡng viên đối với bệnh nhân tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình. 4. Thông tư số 07/2014/TT-BYT ngày 25 tháng 2 năm 2014 của Bộ Y tế ban hành Quy tắc ứng xử tại các cơ sở y tế. 5. Tài liệu Hội nghị khoa học điều dưỡng toàn quân năm 2014.
File đính kèm:
khao_sat_thuc_trang_thuc_hanh_quy_che_giao_tiep_cua_dieu_duo.pdf

