Khảo sát thực trạng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị xét nghiệm mô bệnh học tại các trung tâm pháp y cấp tỉnh ở Việt Nam

Mục tiêu: Khảo sát, đánh giá thực trạng về nhân lực,

trang thiết bị xét nghiệm mô bệnh học tại các Trung tâm

Pháp y cấp tỉnh ở Việt Nam. Đối tượng và phương pháp:

Khảo sát các cán bộ làm chuyên môn và các trang thiết bị

thiết yếu hiện có để phục vụ xét nghiệm mô bệnh học tại 63

Trung tâm Pháp y cấp tỉnh. Kết quả và bàn luận: Số lượng

cán bộ chuyên môn nói chung và số lượng bác sĩ làm xét

nghiệm mô bệnh học nói riêng còn thiếu nhiều so với nhu

cầu thực tế. Trong số 773 cán bộ của 63 Trung tâm chỉ có

175 giám định viên, chiếm 22,64%, bác sĩ chiếm 27,03%,

bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bệnh chiếm 4,65%, kỹ thuật

viên 20,31%, nhân viên hỗ trợ 47,99%. Trong số 36 bác sĩ

chuyên khoa giải phẫu bệnh, trình độ chuyên khoa I, thạc

sĩ chiếm tỷ lệ cao nhất 36,21%, tiếp theo là bác sĩ định

hướng chuyên khoa 22,41%, bác sĩ chuyên khoa II 3,45%.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị ở cho công tác xét nghiệm mô

bệnh học còn hạn chế. Trong số 23 đơn vị pháp y triển khai

xét nghiệm mô bệnh học thì số thiết bị thiết yếu đã tương

đối cũ và hư hỏng cần được bổ sung thay thế. Có 50 đơn vị

có máy vi tính dùng để soạn kết quả mô bệnh học, còn lại

13 đơn vị không có máy vi tính cho công tác này, chiếm

20,63%. Trong số 50 đơn vị có máy vi tính thì 22 đơn vị có

kết nối kính hiển vi, chiếm 34,92%, còn 28 đơn vị không

có kết nối kính hiển vi, chiếm 44,45%

pdf 6 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát thực trạng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị xét nghiệm mô bệnh học tại các trung tâm pháp y cấp tỉnh ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát thực trạng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị xét nghiệm mô bệnh học tại các trung tâm pháp y cấp tỉnh ở Việt Nam

Khảo sát thực trạng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị xét nghiệm mô bệnh học tại các trung tâm pháp y cấp tỉnh ở Việt Nam
SỐ 6 (53) - Tháng 11-12/2019
Website: yhoccongdong.vn100
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC, CƠ SỞ VẬT 
CHẤT, TRANG THIẾT BỊ XÉT NGHIỆM MÔ BỆNH HỌC TẠI CÁC 
TRUNG TÂM PHÁP Y CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM
Nguyễn Đức Nhự1, Lưu Sỹ Hùng2
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát, đánh giá thực trạng về nhân lực, 
trang thiết bị xét nghiệm mô bệnh học tại các Trung tâm 
Pháp y cấp tỉnh ở Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: 
Khảo sát các cán bộ làm chuyên môn và các trang thiết bị 
thiết yếu hiện có để phục vụ xét nghiệm mô bệnh học tại 63 
Trung tâm Pháp y cấp tỉnh. Kết quả và bàn luận: Số lượng 
cán bộ chuyên môn nói chung và số lượng bác sĩ làm xét 
nghiệm mô bệnh học nói riêng còn thiếu nhiều so với nhu 
cầu thực tế. Trong số 773 cán bộ của 63 Trung tâm chỉ có 
175 giám định viên, chiếm 22,64%, bác sĩ chiếm 27,03%, 
bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bệnh chiếm 4,65%, kỹ thuật 
viên 20,31%, nhân viên hỗ trợ 47,99%. Trong số 36 bác sĩ 
chuyên khoa giải phẫu bệnh, trình độ chuyên khoa I, thạc 
sĩ chiếm tỷ lệ cao nhất 36,21%, tiếp theo là bác sĩ định 
hướng chuyên khoa 22,41%, bác sĩ chuyên khoa II 3,45%. 
Cơ sở vật chất, trang thiết bị ở cho công tác xét nghiệm mô 
bệnh học còn hạn chế. Trong số 23 đơn vị pháp y triển khai 
xét nghiệm mô bệnh học thì số thiết bị thiết yếu đã tương 
đối cũ và hư hỏng cần được bổ sung thay thế. Có 50 đơn vị 
có máy vi tính dùng để soạn kết quả mô bệnh học, còn lại 
13 đơn vị không có máy vi tính cho công tác này, chiếm 
20,63%. Trong số 50 đơn vị có máy vi tính thì 22 đơn vị có 
kết nối kính hiển vi, chiếm 34,92%, còn 28 đơn vị không 
có kết nối kính hiển vi, chiếm 44,45%.
Từ khóa: Xét nghiệm mô bệnh học, giám định pháp 
y, Trung tâm Pháp y
SUMMARY:
SURVEY THE CURRENT SITUATION OF 
HUMAN RESOURCES, INFRASTRUCTURE 
AND EQUIPMENT FOR HISTOPATHOLOGICAL 
TEST AT PROVINCIAL FORENSIC CENTERS IN 
VIETNAM
Objectives: Surveying and evaluating human resources, 
equipment for histopathology testing at forensic centers in 
Vietnam. Subjects and methods: Survey of staff members 
and existing essential equipment for histopathological 
testing of 63 provincial forensic centers. Results and 
discussion: The number of specialist staff in general and 
the number of physicians doing histopathological tests in 
particular are inadequate compared to the actual needs. 
Among 773 staff of 63 centers, there are only 175 forensic 
experts accounting for 22,64%, medical doctors accounting 
for 27,03%, pathologist doctors accounting for 4,65%, 
technicians and staff 47,99%. Among 36 pathologists, the 
master and specialized level I accounted for the highest 
proportion of 36,21%, followed by the specialist-oriented 
doctor 22,41%, specialized level II, 3,45%. The facilities 
and equipment for histopathological examination are still 
limitation. Out of 23 forensic medicine centers conducting 
histopathological testing, the number of essential 
equipment that is relatively old and damaged needs to 
be replaced. There are 50 units with computers used to 
prepare histopathological results, the remaining 13 units do 
not have computers for this work, accounting for 20,63%. 
Of the 50 units with computers, 22 units had a microscope 
connection, accounting for 34,92%, while 28 units did not 
have a microscope connection, accounting for 44,45%.
Key words: Histopathology test, forensic medicine 
examination, forensic medicine center.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục đích của khám nghiệm tử thi pháp y là xác định 
và phân loại các trường hợp tử vong bằng cách chứng minh 
logic khoa học từ các dữ liệu thu thập được nhằm giúp các 
cơ quan hành pháp giải thích được những vấn đề đặt ra khi 
điều tra vụ án có người chết như xác định nguyên nhân tử 
Ngày nhận bài: 04/10/2019 Ngày phản biện: 10/10/2019 Ngày duyệt đăng: 17/10/2019
1. Viện Pháp y quốc gia,
Email: [email protected]. ĐT 0912083969
2. Đại học Y Hà Nội 
SỐ 6 (53) - Tháng 11-12/2019
Website: yhoccongdong.vn 101
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
vong, cơ chế hình thành thương tích[1]. Trên thực tế, đã 
có nhiều trường hợp giám định viên không thể xác định 
nguyên nhân và cơ chế tử vong ngay tại thời điểm khám 
nghiệm tử thi như những trường hợp chết do bệnh lý, biến 
chứng của chấn thương hoặc biến chứng trong điều trị 
bệnh... Vì vậy, để có kết luận chính xác nguyên nhân tử 
vong của nạn nhân, giám định viên pháp y phải nghiên 
cứu, tham khảo các tài liệu liên quan, tiền sử bệnh, hoàn 
cảnh, môi trường và các xét nghiệm bổ sung, trong đó đặc 
biệt quan trọng là xét nghiệm mô bệnh học. 
Trong nhiều vụ việc giám định pháp y, xét nghiệm 
mô bệnh học (xét nghiệm giải phẫu bệnh vi thể) đóng vai 
trò quyết định như xác định nguyên nhân chết đột ngột của 
nạn nhân do bệnh tim mạch, xác định thương tích vùng 
cổ hình thành khi nạn nhân còn sống, tổn thương gây tử 
vong do dập não, phù não Chính vì tầm quan trọng của 
xét nghiệm mô bệnh học trong giám định pháp y mà trong 
nhiều thập kỷ gần đây, hầu hết các quốc gia tiên tiến trên 
thế giới đã có luật quy định bắt buộc phải có kết quả xét 
nghiệm mô bệnh học trong kết luận giám định pháp y khi 
điều tra các vụ việc liên quan tới người chết. 
 Ở Việt Nam, trong những năm qua, vấn đề xét nghiệm 
mô bệnh học trong giám định pháp y còn rất nhiều tồn tại, 
bất cập, được thể hiện rất rõ qua thực tế các vụ việc giám 
định pháp y tử thi. Đã có rất nhiều vụ việc phức tạp xảy ra 
nhưng khi khám nghiệm tử thi, giám định viên không thực 
hiện xét nghiệm mô bệnh học do nhiều nguyên nhân, trong 
đó phải kể đến vấn đề nhân lực chuyên môn, cơ sở vật chất 
trang thiết bị chưa đảm bảo để thực hiện dẫn đến khó khăn 
cho việc nhận định nguyên nhân chết của nạn nhân, làm 
ảnh hưởng không nhỏ tới công tác điều tra, tố tụng.
Thực tế cho thấy sự cần thiết phải tiến hành khảo sát, 
đánh giá thực trạng về nhân lực, trang thiết bị xét nghiệm 
mô bệnh học tại các trung tâm pháp y trên toàn quốc. Trên 
cơ sở đó đề xuất, khuyến nghị một số vấn đề liên quan đến 
đầu tư về nhân lực, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho công 
tác xét nghiệm mô bệnh học ở các đơn vị pháp y trên toàn 
quốc, đề ra những giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu 
quả của xét nghiệm mô bệnh học góp phần nâng cao chất 
lượng giám định pháp y.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: 
- Các bác sỹ giám định viên và kỹ thuật viên pháp y 
và kỹ thuật viên xét nghiệm mô bệnh học thuộc các Trung 
tâm Pháp y cấp tỉnh ở Việt Nam.
- Các trang thiết bị thiết yếu hiện có để phục vụ xét 
nghiệm mô bệnh học tại các Trung tâm Pháp y. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
- Cỡ mẫu: Chọn toàn bộ Trung tâm Pháp y tại 63 tỉnh, 
thành phố
- Phương pháp thu thập số liệu:
	Bước 1: Lập phiếu khảo sát về thực trạng nguồn 
nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hiện xét nghiệm 
mô bệnh học gửi 63 Trung tâm Pháp y cấp tỉnh.
	Bước 2: Thu thập và thống kê nguồn nhân lực, cơ 
sở vật chất, trang thiết bị thực hiện xét nghiệm mô bệnh 
học tại 63 Trung tâm Pháp y cấp tỉnh.
	Bước 3: Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0.
	Bước 4: Phân tích, đánh thực trạng về nhu cầu con 
người, trang thiết bị, thực hiện xét nghiệm mô bệnh học tại 
các Trung tâm Pháp y cấp tỉnh.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Kết quả kháo sát về nguồn nhân lực
Kết quả khảo sát nhân lực chuyên môn tại các trung 
tâm pháp y cho thấy có 773 cán bộ chuyên môn, được phân 
bố như sau:
Bảng 1. Nhân lực chuyên môn trực tiếp tham gia hoạt động của đơn vị
Nhân lực Số lượng Tỷ lệ %
Giám định viên 175/773 22,64
Bác sĩ của đơn vị 209/773 27,03
Bác sĩ giải phẫu bệnh 36/773 4,65
Kỹ thuật viên 157/773 20,31
Nhân viên hỗ trợ 371/773 47,99
SỐ 6 (53) - Tháng 11-12/2019
Website: yhoccongdong.vn102
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
Bảng 2. Bác sĩ làm xét nghiệm mô bệnh học
Trình độ chuyên môn Số lượng Tỷ lệ %
Chuyên khoa II, tiến sĩ 2 3,45
Chuyên khoa I, thạc sĩ 21 36,21
Bác sĩ định hướng chuyên khoa 13 22,41
Chưa được đào tạo 22 37,93
Tổng 58 100
Bảng 3. Diện tích mặt bằng hoạt động của các trung tâm pháp y
Diện tích Số lượng đơn vị Tỷ lệ %
≤ 50 m2 6 9,52
Từ 51 đến < 100 m2 7 11,11
Từ 100 đến < 200 m2 15 23,81
Từ 200 đến < 500 m2 20 31,75
Từ 500 đến < 1000m2 10 15,87
≥ 1000 m2 5 7,94
Tổng 63 100
Bảng 4. Diện tích sử dụng cho công tác xét nghiệm mô bệnh học
Diện tích Số lượng đơn vị Tỷ lệ %
Không có 40 63,50
≤ 20 m2 7 11,11
Từ 21 đến ≤ 40 m2 11 17,46
Trên 40m2 6 9,53
Tổng 63 100
Nhận xét: Trong tổng số 773 cán bộ chuyên môn 
được khảo sát tại các đơn vị pháp y địa phương có 175 
giám định viên, chiếm 22,64%, bác sĩ chiếm 27,03%, bác 
sĩ chuyên khoa giải phẫu bệnh chiếm 4,65%, kỹ thuật viên 
20,31%, nhân viên hỗ trợ 47,99%.
Nhận xét: Trong số 58 bác sĩ làm công tác mô bệnh 
học thì có 22 bác sĩ chưa được đào tạo về chiếm 37,93%, 
chỉ có 36 bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bệnh. Trong đó, 
chuyên khoa I, thạc sĩ chiếm tỷ lệ cao nhất 36,21%, tiếp 
theo là bác sĩ định hướng chuyên khoa chiếm 22,41%, bác 
sĩ chuyên khoa II chiếm 3,45%.
3.2. Kết quả khảo sát về cơ sở vật chất, trang thiết 
bị phục vụ xét nghiệm mô bệnh học
Nhận xét: Các trung tâm có diện tích mặt bằng hoạt 
động từ 200 đến 500 m2 chiếm tỷ lệ lớn nhất là 31,75%, 
tiếp theo là các trung tâm có diện tích từ 100 đến 200 m2 
chiếm 23,81%, từ 500 đến 1000 m2 chiếm 15,87%, từ 51 
đến < 100 m2 đều chiếm 11,11%, ≤ 50 m2 chiếm 9,52% và 
lớn hơn 1000 m2 chiếm tỷ lệ ít nhất là 7,94%.
SỐ 6 (53) - Tháng 11-12/2019
Website: yhoccongdong.vn 103
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nhận xét: Các trung tâm không có diện tích để cho bộ 
phận xét nghiệm mô bệnh học chiếm tỷ lệ 63,5%, trung tâm 
có diện tích từ 21 đến ≤ 40 m2 chiếm tỷ lệ 17,46%, diện tích 
≤ 20 m2 chiếm 11,11% và trên 40 m2 chiếm 9,53%.
Nhận xét: Trong số 23 đơn vị triển khai mô bệnh học 
thì có 10 đơn vị có máy đúc mới sử dụng, chiếm tỷ lệ 
43,48%, có 11 đơn vị đang sử dụng chiếm 47,82%, còn 2 
đơn vị đã bị hỏng chiếm 8,7%. Có 10 đơn vị có máy cắt 
mới sử dụng, chiếm 43,48%, còn lại là 13 đơn vị có máy 
cắt đang sử dụng, chiếm 56,52%. Có 14 đơn vị có máy cắt 
cũ đang sử dụng, chiếm 60,87%, có 8 đơn vị có máy mới 
sử dụng, chiếm 34,78%, còn 1 đơn vị máy cắt đã hỏng, 
chiếm 4,35%. Có 13 đơn vị có bộ dụng cụ chuyển đã cũ 
đang sử dụng, chiếm tỷ lệ 56,52%, có 8 đơn vị có bộ dụng 
cụ chuyển mới, chiếm 34,78%, còn 2 đơn vị bộ dụng cụ đã 
hỏng, chiếm 8,7%.
Nhận xét: Có 40/63 đơn vị có kính hiển vi. Trong 
đó, có 18 đơn vị có kính hiển vi mới sử dụng, chiếm 
28,57%, có 20 đơn vị kính hiển vi cũ còn đang sử 
dụng, chiếm 31,75%, còn 2 đơn vị kính hiển vi đã 
hỏng, chiếm 3,17%, có 23 đơn vị chưa có kính hiển vi 
chiếm 36,51%. 
Nhận xét: Trong số 63 trung tâm pháp y thì chỉ có 50 
đơn vị có máy vi tính dùng cho mô bệnh học, còn lại 13 
đơn vị không có máy vi tính dùng cho mô bệnh học, chiếm 
20,63%. Trong số 50 đơn vị có máy vi tính thì 22 đơn vị có 
kết nối kính hiển vi, chiếm 34,92%, còn 28 đơn vị không 
có kết nối kính hiển vi, chiếm 44,45%.
IV. BÀN LUẬN
Bảng 5. Trang thiết bị cơ bản cho xét nghiệm mô bệnh học
Trang thiết bị Cũ (số lượng, %) Mới (số lượng, %) Hỏng (số lượng, %) Tổng
Máy đúc 10 (43,48) 11 (47,2) 2 (8,7) 23 (100)
Máy cắt 10 (43,48) 13 (56,52) 0 (0) 23 (100)
Bàn dàn 8 (34,78) 14 (60,87) 1 (4,35) 23 (100)
Bộ dụng cụ chuyển 8 (34,78) 13 (56,52) 2 (8,7) 23 (100)
Bảng 6. Kính hiển vi
Kính hiển vi Số lượng đơn vị Tỷ lệ %
Mới sử dụng 18 28,57
Đang sử dụng cũ 20 31,75
Đã hỏng 2 3,17
Chưa có 23 36,51
Tổng 63 100
Bảng 7. Máy vi tính dành cho mô bệnh học
Máy tính Số lượng đơn vị Tỷ lệ %
Có
Có kết nối kính hiển vi 22 34,92
Không kết nối kính hiển vi 28 44,45
Không có 13 20,63
Tổng 63 100
SỐ 6 (53) - Tháng 11-12/2019
Website: yhoccongdong.vn104
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
4.1. Về nguồn nhân lực tại các trung tâm pháp y
Kết quả nghiên cứu ở bảng 1 cho thấy trong hệ thống 
các đơn vị pháp y ngành Y tế hiện nay chỉ có 773 cán 
bộ chuyên môn. Trong đó có 175 giám định viên, chiếm 
22,64%, số bác sĩ chiếm 27,03%, bác sĩ chuyên khoa làm 
xét nghiệm mô bệnh học chiếm 4,65%, kỹ thuật viên 
20,31%, nhân viên hỗ trợ 47,99%.
Như vậy số lượng cán bộ chuyên môn còn tương đối 
hạn chế đối với cả hệ thống các đơn vị pháp y tại 63 tỉnh, 
thành phố. Đặc biệt bác sĩ pháp y làm công tác xét nghiệm 
mô bệnh học chỉ có 36 bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bệnh 
trên cả 63 đơn vị pháp y, chiếm 4,65% là quá ít so với nhu 
cầu thực tế và không đủ số lượng 2 giám định viên trong 
một vụ giám định theo quy định [2].
Kết quả nghiên cứu ở bảng 2 cho thấy, trong số 58 bác 
sĩ làm công tác xét nghiệm mô bệnh học thì có 22 bác sĩ 
chưa được đào tạo chuyên khoa chiếm 37,93%. Trong số 
36 bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bệnh, bác sĩ chuyên khoa 
I, thạc sĩ chiếm tỷ lệ cao nhất 36,21%, tiếp theo là bác 
sĩ định hướng chuyên khoa chiếm 22,41%, bác sĩ chuyên 
khoa II chiếm 3,45%. Với kết quả này có thể thấy rằng vẫn 
có tỷ lệ khá lớn (37,98%) bác sĩ làm công tác xét nghiệm 
mô bệnh học nhưng chưa được đào tạo về chuyên ngành 
này. Mặt khác sỗ lượng bác sĩ chuyên khoa được đào tạo 
ở bậc cao như tiến sĩ, chuyên khoa II cũng chiếm tỷ lệ rất 
ít, 3,45%.
Nguyên nhân của tình trạng thiếu hụt bác sĩ pháp y 
nói chung và bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bệnh trong 
chuyên ngành pháp y nói riêng chính là do sức kém thu 
hút của chuyên ngành khó khăn, vất vả và chịu áp lực cao, 
chế độ chính sách đãi ngộ chưa tương xứng.
4.2. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ xét 
nghiệm mô bệnh học
Về diện tích hoạt động của các Trung tâm pháp y từ 
200 đến 500 m2 chiếm tỷ lệ lớn nhất là 31,75%, tiếp theo 
là các trung tâm có diện tích từ 100 đến 200 m2 chiếm 
23,81%, từ 500 đến 1000 m2 chiếm 15,87%, từ 51 đến < 
100 m2 đều chiếm 11,11%, ≤ 50 m2 chiếm 9,52% và lớn 
hơn 1000 m2 chiếm tỷ lệ ít nhất là 7,94% (bảng 3). Phần 
lớn các Trung tâm pháp y không có diện tích để cho bộ 
phận xét nghiệm mô bệnh học chiếm tỷ lệ 63,5%, trung 
tâm có diện tích cho bộ phận xét nghiệm mô bệnh học từ 
21 đến ≤ 40 m2 chiếm tỷ lệ 17,46%, diện tích ≤ 20 m2 
chiếm 11,11% và trên 40 m2 chiếm 9,53% (bảng 4).
Vấn đề nêu trên xuất phát từ thực tế nhiều đơn vị pháp 
y còn chưa có trụ sở độc lập, còn phải đặt nhờ vào bệnh 
viện đa khoa tỉnh nên chưa được quan tâm đúng mức. Mặt 
khác, nhiều trung tâm chưa triển khai công tác xét nghiệm 
mô bệnh học nên trung tâm không bố trí diện tích làm việc 
cho bộ phận này.
Trong số 63 đơn vị pháp y cấp tỉnh chỉ có 23 Trung 
tâm pháp y có triển khai công tác xét nghiệm mô bệnh học. 
Kết quả khảo sát một số trang thiết bị thiết yếu ở các đơn 
vị này cho thấy: Có 10 đơn vị có máy đúc mới sử dụng, 
chiếm tỷ lệ 43,48%, có 11 đơn vị đang sử dụng chiếm 
47,82%, còn 2 đơn vị đã bị hỏng chiếm 8,7%; Có 10 đơn 
vị có máy cắt mới sử dụng, chiếm 43,48%, còn lại là 13 
đơn vị có máy cắt đang sử dụng, chiếm 56,52%; có 14 đơn 
vị có máy cắt cũ đang sử dụng, chiếm 60,87%, có 8 đơn vị 
có máy mới sử dụng, chiếm 34,78%, còn 1 đơn vị máy cắt 
đã hỏng, chiếm 4,35%; có 13 đơn vị có bộ dụng cụ chuyển 
đã cũ đang sử dụng, chiếm tỷ lệ 56,52%, có 8 đơn vị có bộ 
dụng cụ chuyển mới, chiếm 34,78%, còn 2 đơn vị bộ dụng 
cụ đã hỏng, chiếm 8,7% (bảng 5).
Với kết quả trên có thể thấy rằng, nhiều đơn vị được 
đầu tư trang thiết bị để xét nghiệm mô bệnh học nhưng 
số thiết bị đã tương đối cũ và hư hỏng cần được bổ sung 
thay thế.
Kính hiển vi là một thiết bị bắt buộc phải có để đọc 
kết quả xét nghiệm mô bệnh học. Tuy nhiên, kết quả cho 
thấy chỉ có 40/63 đơn vị có kính hiển vi. Trong đó, có 18 
đơn vị có kính hiển vi mới sử dụng, chiếm 28,57%, có 20 
đơn vị kính hiển vi cũ còn đang sử dụng, chiếm 31,75%, 
còn 2 đơn vị kính hiển vi đã hỏng, chiếm 3,17%, có 23 đơn 
vị chưa có kính hiển vi chiếm 36,51% (bảng 6). 
Trong số 63 trung tâm pháp y thì chỉ có 50 đơn vị có 
máy vi tính dùng để soạn kết quả mô bệnh học, còn lại 
13 đơn vị không có máy vi tính cho công tác này, chiếm 
20,63%. Trong số 50 đơn vị có máy vi tính thì 22 đơn vị có 
kết nối kính hiển vi, chiếm 34,92%, còn 28 đơn vị không 
có kết nối kính hiển vi, chiếm 44,45% (bảng 7).
Đối chiếu về danh mục trang thiết bị tối thiểu cho 
Trung tâm pháp y cấp tỉnh được quy định tại Thông tư 
53/2015/TT-BYT ngày 28/12/2015 của Bộ Y tế thì phần 
lớn Trung tâm pháp y chưa được đầu tư đủ theo quy định 
[3]. Nguyên nhân của vấn đề này trước tiên phải kể đến 
vấn đề khó khăn về kinh phí, sự quan tâm chưa đầy đủ 
địa phương về công tác xét nghiệm mô bệnh học trong 
giám định pháp y. Tiếp đó là nguyên nhân số lượng các vụ 
việc giám định tử thi do cơ quan trưng cầu ít yêu cầu xét 
nghiệm mô bệnh học để bổ sung cho kết luận giám định. 
Cuối cùng là thực trạng thiếu nhân lực làm công tác xét 
nghiệm mô bệnh học ở các địa phương nên chưa đủ điều 
kiện để đầu tư trang thiết bị và triển khai xét nghiệm.
SỐ 6 (53) - Tháng 11-12/2019
Website: yhoccongdong.vn 105
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
V. KẾT LUẬN
1. Kết quả khảo sát thực trang nhân lực ở 63 Trung 
tâm pháp y cấp tỉnh cho thấy số lượng cán bộ chuyên môn 
nói chung và số lượng bác sĩ làm xét nghiệm mô bệnh học 
nói riêng đều thiếu nhiều so với nhu cầu thực tế. Trong 
số 773 cán bộ của 63 Trung tâm chỉ có 175 giám định 
viên, chiếm 22,64%, bác sĩ chiếm 27,03%, bác sĩ giải phẫu 
bệnh chiếm 4,65%, kỹ thuật viên 20,31%, nhân viên hỗ trợ 
47,99%. Trong số 36 bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bệnh, 
trình độ chuyên khoa I, thạc sĩ chiếm tỷ lệ cao nhất 36,21%, 
tiếp theo là bác sĩ định hướng chuyên khoa 22,41%, bác sĩ 
chuyên khoa II 3,45%.
2. Cơ sở vật chất, trang thiết bị ở cho công tác xét 
nghiệm mô bệnh học còn hạn chế. Trong số 23 đơn vị 
pháp y triển khai xét nghiệm mô bệnh học thì số thiết bị 
thiết yếu đã tương đối cũ và hư hỏng cần được bổ sung 
thay thế. Có 50 đơn vị có máy vi tính dùng để soạn kết 
quả mô bệnh học, còn lại 13 đơn vị không có máy vi tính 
cho công tác này, chiếm 20,63%. Trong số 50 đơn vị có 
máy vi tính thì 22 đơn vị có kết nối kính hiển vi, chiếm 
34,92%, còn 28 đơn vị không có kết nối kính hiển vi, 
chiếm 44,45%.
VI. KIẾN NGHỊ
1. Đối với những Trung tâm pháp y có triển khai xét 
nghiệm mô bệnh học cần bổ sung giám định viên và bác 
sĩ chuyên khoa giải phẫu bệnh để đáp ứng được yêu cầu 
và quy định.
2. Các giám định viên giám định mô bệnh học cần 
tăng cường đào tạo bài bản sau đại học và bồi dưỡng kiến 
thức chuyên sâu chuyên ngành giải phẫu bệnh.
3. Các Trung tâm đang triển khai xét nghiệm mô bệnh 
học cần đề nghị được tăng cường thêm diện tích đủ lớn để 
triển khai thiết bị và quy trình xét nghiệm mô bệnh học. 
Cần được đầu tư thêm trang thiết bị thiết yếu thay thế cho 
những trang thiết bị đã cũ, hư hỏng và bổ sung những trang 
thiết bị mới như: máy cắt, dụng cụ chuyển đúc, kính hiển 
vi, dụng cụ lưu trữ tiêu bản, máy ảnh kỹ thuật số
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Liễu, 1991. Bài giảng Y pháp. Nhà xuất bản Y học.
2. Bộ Y tế, Thông tư số 47/2013/TT-BYT ngày 32/12/2013 ban hành quy trình giám định pháp y.
3. Bộ Y tế, Thông tư 53/2015/TT-BYT ngày 28/12/2015 quy định điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương 
tiện giám định cho tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_thuc_trang_nguon_nhan_luc_co_so_vat_chat_trang_thie.pdf