Khảo sát thể tích tồn lưu bàng quang trên bệnh nhân nữ đái tháo đường týp 2

Đặt vấn đề: Rối loạn chức năng đường tiết niệu dưới ở bệnh nhân đái tháo đường là rối loạn phổ biến, lâu dài và tốn kém. Tỷ lệ mắc bệnh lý bàng quang đái tháo đường được ước tính từ 43-87% bệnh nhânđái tháo đường týp 1 và 25% bệnh nhân đái tháo đường týp 2 [10].Siêu âm là phương pháp dễ sử dụng, nhanh chóng, an toàn, không xâm nhập, không đau, dễ chịu và có giá trị trong đánh giá thể tích tồn lưu bàng quang[9]. Mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệcó tồn lưu bàng quang ở bệnh nhân nữ đái tháo đường bằng siêu âm. (2)Đánh giá mối liên quan giữa thể tích tồn lưu bàng quang với một số yếu tố nguy cơ, đặc điểm lâm sàng bệnh bàng quang đái tháo đường. Xác địnhgiá trị dự báo của yếu tố nguy cơvề sự bất thường của thể tíchtồn lưu bàng quang.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là 84 bệnh nhân nữ đái tháo đườngnội trú và ngoại trú Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 8/2017 đến 8/2019, nhóm quy chiếu gồm 84 đối tượng nữ cùng độ tuổi không mắc đái tháo đường. Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp cắt ngang mô tả, bệnh nhân được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm Glucose huyết tương lúc đói, HbA1c, siêu âm đo thể tích tồn lưu bàng quang

pdf 8 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát thể tích tồn lưu bàng quang trên bệnh nhân nữ đái tháo đường týp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát thể tích tồn lưu bàng quang trên bệnh nhân nữ đái tháo đường týp 2

Khảo sát thể tích tồn lưu bàng quang trên bệnh nhân nữ đái tháo đường týp 2
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
30 
KHẢO SÁT THỂ TÍCH TỒN LƯU BÀNG QUANG 
TRÊN BỆNH NHÂN NỮ ĐÁI THÁO ĐƯỜNGTÝP 2 
Hoàng Thị Bích Ngọc, Nguyễn Hải Thủy 
Bộ môn Nội -Trường Đại học Y Dược Huế 
DOI: 10.47122/vjde.2020.38.5 
ABSTRACT 
A study of bladder post-void residual 
volume(PVR) in female type 2 
diabetic patients 
Introduction: Lower urinary tract 
dysfunction is a common, chronic and costly 
disorder in diabetic patients. The prevalence 
of bladder dysfunction was estimated range 
between 43% and 87% of type 1 and 25% of 
type 2 diabetic patients. Ultrasonography is 
an easy-to-use, fast, safe, non-invasive, 
painless, pleasant and valuable method of 
assessingBladder Post-Void Residual Volume 
(PVR). Aim: The aim of our study was to 
investigate the prevalence of bladder 
dysfunction by ultrasonography and evaluate 
the relationshipbetween the PVR with risk 
factors and clinical charateristics of diabetic 
cystopathy in female patients with type 2 
diabetes, and to determine the predicted value 
of the risk factors for abnormal PVR. 
Methods: In a cross sectional descriptive 
study, a cohort of 84 female diabetic 
inpatients and outpatients at Hue University 
Hospital from 08/2017 to 08/2019 and 84 non 
diabetic subjects were enrolled, the diabetic 
patients were carried out clinical 
characteristics, taken blood tests, and 
estimated PVR by using 2D ultrasound. 
Results: The post-void residual bladder 
volume was presented in 67 patients 
(79,80%), the clinical symptoms of diabetic 
cystopathy were reported in 75% of patients. 
Blood glucose, HbA1c, clinical symptoms of 
diabetic cystopathy, postural hypotension and 
diabetic peripheral neuropathy were 
associated with PVR. The HbA1c level had a 
great capability to predict who had abnormal 
PVR, at cutoff value of HbA1c 9,1% (AUC: 
0,811, Se 65,67%, Sp 94,12% and p < 0,001). 
Conclusion: Bladder dysfunction made up a 
highly prevalence in female diabetic patients 
with poor glycemic control. 
Key words: bladder dysfunction, diabetic 
cystopathy, bladder post-void residual 
volume.(PVR) 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Rối loạn chức năng đường tiết 
niệu dưới ở bệnh nhân đái tháo đường là rối 
loạn phổ biến, lâu dài và tốn kém. Tỷ lệ mắc 
bệnh lý bàng quang đái tháo đường được ước 
tính từ 43-87% bệnh nhânđái tháo đường týp 
1 và 25% bệnh nhân đái tháo đường týp 2 
[10].Siêu âm là phương pháp dễ sử dụng, 
nhanh chóng, an toàn, không xâm nhập, 
không đau, dễ chịu và có giá trị trong đánh 
giá thể tích tồn lưu bàng quang[9]. Mục tiêu: 
(1) Xác định tỷ lệcó tồn lưu bàng quang ở 
bệnh nhân nữ đái tháo đường bằng siêu âm. 
(2)Đánh giá mối liên quan giữa thể tích tồn 
lưu bàng quang với một số yếu tố nguy cơ, 
đặc điểm lâm sàng bệnh bàng quang đái tháo 
đường. Xác địnhgiá trị dự báo của yếu tố 
nguy cơvề sự bất thường của thể tíchtồn lưu 
bàng quang.Đối tượng và phương pháp 
nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của chúng 
tôi là 84 bệnh nhân nữ đái tháo đườngnội trú 
và ngoại trú Bệnh viện Trường Đại học Y 
Dược Huế từ tháng 8/2017 đến 8/2019, nhóm 
quy chiếu gồm 84 đối tượng nữ cùng độ tuổi 
không mắc đái tháo đường. Nghiên cứu được 
tiến hành theo phương pháp cắt ngang mô tả, 
bệnh nhân được khám lâm sàng, làm các xét 
nghiệm Glucose huyết tương lúc đói, HbA1c, 
siêu âm đo thể tích tồn lưu bàng quang. Kết 
quả: 67 bệnh nhân (79,80%) có bất thường 
tồn lưu bàng quang, 63 bệnh nhân (75%) có 
triệu chứng lâm sàng bệnh bàng quang đái 
tháo đường. Thể tích tồn lưu bàng quang liên 
quan với nồng độ HbA1c, Glucose máu, triệu 
chứng lâm sàng bệnh lý bàng quang, hạ huyết 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
31 
áp tư thế, bệnh lý thần kinh ngoại biên trong 
đó nồng độ HbA1c có khả năng phân tích rất 
tốt trong chẩn đoán có tồn lưu bàng quang, tại 
điểm cắt HbA1c là 9,1% (AUC 0,811, Se 
65,67%, Sp 94,12% vàp < 0,001). Kết luận: 
Rối loạn chức năng bàng quangchiếm tỷ lệ 
khá cao ở bệnh nhân nữ đái tháo đường kiểm 
soát đường máu kém. 
Từ khóa: rối loạn chức năng bàng quang, 
bệnh lý bàng quang đái tháo đường, thể tích 
tồn lưu bàng quang. 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Hải Thủy 
Ngày nhận bài: 7/01/2020 
Ngày phản biện khoa học:12/01/2020 
Ngày duyệt bài: 27/02/2020 
Email: [email protected] 
ĐT: 0903574457 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tỷ lệ mắc bệnh lý bàng quang đái tháo 
đường được ước tính nằm trong khoảng từ 
43% đến 87% cho đái tháo đường týp 1 và 
25% cho bệnh đái tháo đường týp 2 [10]. Các 
triệu chứng của bệnh lý bàng quang đái tháo 
đường bắt đầu bằng việc thiếu khả năng cảm 
nhận được sự đầy bàng quang và không thể 
bài tiết hoàn toàn nước tiểu. Khi sự co bóp 
của bàng quang trở nên kém hơn, sức chứa 
bàng quang và nước tiểu tồn lưu tăng, dẫn đến 
các triệu chứng tiểu ngắt quãng, giảm tần suất 
đi tiểu, tiểu không kiểm soát và nhiễm trùng 
đường tiết niệu tái phát, các vấn đề này ít 
được chú ý đến mặc dù nó gây ảnh hưởng rất 
lớn đến chất lượng cuộc sống và mang đến 
nhiều nguy cơ cho sức khỏe người bệnh [7]. 
Để khảo sát rối loạn chức năng bàng 
quang, về phương diện lâm sàng có thang 
điểm AUA - SI đánh giá độ nặng của các triệu 
chứng đường tiểu dưới [8], về phương diện 
cận lâm sàng có nhiều phương pháp như đo 
thể tích tồn lưu bàng quang, niệu dòng đồ, 
bàng quang đồ, đo điện cơ đồ đánh giá hoạt 
động cơ co thắt của bàng quang [6]. Sử dụng 
siêu âm để đánh giá thể tích tồn lưu bàng 
quang là phương pháp nhanh chóng, an toàn, 
không xâm nhập, ít đau, dễ chịu đối với bệnh 
nhân [9]. Rối loạn chức năng bàng quang trên 
bệnh nhân đái tháo đường rất phổ biến, nhưng 
ở nước ta vẫn còn ít nghiên cứu về biến 
chứng này, nhất là nghiên cứu trên bệnh nhân 
đái tháo đường nữ giới. Vì vậy chúng tôi thực 
hiện đề tài “Nghiên cứu rối loạn chức năng 
bàng quang trên bệnh nhân nữ đái tháo 
đường” với mục tiêu: 
1. Xác định tỷ lệ có tồn lưu bàng quang 
bằng siêu âm ở bệnh nhân nữ đái tháo đường. 
2. Đánh giá mối liên quan giữa thể tích 
tồn lưu bàng quang và các yếu tố nguy cơ, 
đặc điểm lâm sàng bệnh lý bàng quang đái 
tháo đường, qua đó xác định bất thường tồn 
lưu bàng quang của bệnh nhân dựa vào 
ngưỡng của các yếu tố nguy cơ. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi gồm 
bệnh nhân nữ đái tháo đường điều trị nội trú 
Khoa Nội Tổng hợp - Nội tiết, Khoa Nội 
Tim mạch và bệnh nhân điều trị ngoại trú tại 
Phòng khám Nội - Bệnh viện Trường Đại 
học Y Dược Huế, nhóm quy chiếu gồm 84 
đối tượng nữ cùng độ tuổi không mắc đái 
tháo đường. 
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Tiêu chuẩn chọn bệnh của chúng tôi là 
những bệnh nhân nữ đái tháo đường được 
chẩn đoán dựa theo theo tiêu chí của ADA 
2017, đồng ý tham gia nghiên cứu, được thăm 
khám lâm sàng, làm đầy đủ các xét nghiệm 
cận lâm sàng cần thiết và không có tiêu chuẩn 
loại trừ. 
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ 
* Nhóm bệnh nhân ĐTĐ 
Các bệnh nhân nữ đái tháo đường nhưng 
có các biểu hiện sau [8]: 
- Bệnh lí thực thể gây tắc nghẽn trong lòng 
bàng quang (sỏi bàng quang, sỏi niệu đạo, u 
cổ bàng quang, xơ cổ bàng quang, xơ cơ vòng 
bàng quang, polyp bàng quang). 
- Viêm bàng quang cấp, nhiễm trùng tiết 
niệu tiến triển. 
- U xơ tử cung, u nang buồng trứng. 
- Dùng thuốc làm ảnh hưởng trương lực 
bàng quang như lợi tiểu, chẹn kênh Canxi, 
thuốc an thần. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
32 
- Các trường hợp suy thận. 
- Có các bệnh lí thần kinh khác phối hợp 
như đột quỵ, Parkinson, tổn thương dây thần 
kinh gai sống, xơ cứng rải rác. Tiền sử phẫu 
thuật vùng chậu. 
* Nhóm quy chiếu 
Đối tượng không bị đái tháo đường có 
cùng độ tuổi đồng thời không có các yếu tố 
ảnh hưởng trương lực bàng quang như sau: 
- Yếu tố gia đình: loại các bệnh lí thần 
kinh do di truyền. 
- Yếu tố tiền sử ngộ độc hóa chất.Tiền sử 
nghiện rượu. 
- Sử dụng thuốc gây tổn thương thần kinh 
ngoại biên (INH, Metronidazol). 
- Các bệnh lí ác tính kèm theo (ung thư, 
bệnh máu). 
2.2. Phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, cỡ mẫu thuận 
tiện. 
Các bước tiến hành nghiên cứu: 
- Hỏi và khám xét các thông tin về bệnh 
nhân theo nội dung nghiên cứu. 
- Glucose huyết tương tĩnh mạch lúc đói 
- HbA1c. 
- Siêu âm đo thể tích tồn lưu bàng quang. 
- Hình ảnh mặt cắt ngang (chiều cao và rộng)và cắt dọc (chiều dài) bàng quang. 
- Kỹ thuật đo thể tích tồn lưu bàng quang sau khi tiểu xong bằng siêu âm với đầu dò 3,5 MHz 
- Thể tích (ml)= chiều dài (cm) x chiều rộng (cm) x chiều cao (cm) xΠ/6 (# 0,52). 
Tồn lưu bàng quang (+) khi giá trị khi thể tích tồn lưu bàng quang đo được ≥ thể tích tồn lưu 
bàng quang của nhóm quy chiếu ở bách phân vị 90. 
2.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 08/2017 đến 08/2019. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1. Thể tích tồn lưu bàng quang của nhóm quy chiếu theo độ tuổi 
Độ tuổi V (ml) ± SD (ml) 
V tồn lưu ở bách 
phân vị 90 (ml) 
< 60 0,62 ± 1,38 3,16 
≥ 60 1,62 ± 2,08 4,50 
Chung 1,00 ± 1,72 4,05 
Ở nhóm bệnh nhân ≥60 tuổi, xác định có tồn lưu bàng quang khi thể tích tồn lưu ≥ 4,50 ml. 
Nhóm bệnh nhân <60 tuổi có tồn lưu bàng quang khi thể tích tồn lưu bàng quang ≥ 3,16 ml. 
Bảng 2. Kết quả thể tích tồn lưu bàng quang trên nhóm ĐTĐ 
Tỷ lệ 
V Tồn lưu bàng quang 
n % 
Không có tồn lưu 
< 3,16(< 60 tuổi) 
< 4,50(≥ 60 tuổi) 
17 20,20 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
33 
Có tồn lưu 
(67 trường hợp, 
79,80%) 
3,16 - < 10 ml (< 60 tuổi) 
4,50 - < 10 ml (≥ 60 tuổi) 
23 27,40 
10 - < 20 ml 24 28,60 
20 - < 50 ml 16 19,05 
50 - < 100 ml 3 3,60 
≥ 100 ml 1 1,15 
67 bệnh nhân (79,80%) có tồn lưu bàng quang. Bệnh nhân có thể tích tồn lưu bàng quang 
dưới 10 ml chiếm tỷ lệ 27,40%, 28,60% số bệnh nhân có thể tích tồn lưu trong khoảng 10 - <20 
ml,19,05% số bệnh nhân có thể tích tồn lưu 20 - < 50 ml, 4,75% có thể tích tồn lưu ≥ 50 ml. 
Bảng 3. Liên quan giữa thể tích tồn lưu bàng quang và các yếu tố nguy cơ, triệu chứng lâm sàng 
bệnh lý bàng quang đái tháo đường 
Đặc điểm 
Có tồn lưu Không tồn lưu 
p 
n % n % 
Tuổi 
< 60 31 46,30 11 64,70 
> 0,05 
≥ 60 36 53,70 6 35,30 
Thời gian phát hiện bệnh 
< 5 38 74,50 13 25,50 
> 0,05 
≥ 5 29 87,90 4 12,10 
BMI 
<23 47 77,00 14 23,00 
>0,05 
≥ 23 20 87,00 3 13,00 
Vòng bụng 
<80 34 72,30 13 27,70 
>0,05 
≥80 33 89,20 4 10,80 
Glucose máu trung bình 15,05 ± 8,11 11,03 ± 5,71 < 0,05 
HbA1c trung vị 9,90 7,60 < 0,05 
Triệu chứng lâm sàng 
bệnh lý bàng quang 
ĐTĐ 
Có TCLS 56 88,90 7 11,10 
< 0,05 Không 
TCLS 
11 52,40 10 47,60 
Nhóm bệnh nhân có tồn lưu bàng quang có nồng độ glucose máu trung bình là 15,05 ± 8,11 
mmol/l, nhóm không có tồn lưu có nồng độ glucose máu trung bình là 11,03 ± 5,71 mmol/l, có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ glucose máu trung bình giữa hai nhóm. 
Trong nhóm bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng của bệnh lý bàng quang ghi nhận 88,9% có 
tồn lưu bàng quang, 11,1% không có tồn lưu bàng quang. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
tỷ lệ có tồn lưu bàng quang giữa 2 nhóm có và không có TCLS. 
Bảng 4. Tương quan giữa thể tích tồn lưu bàng quang và yếu tố liên quan 
Tương quan giữa thể tích tồn lưu với 
yếu tố liên quan 
r p 
Tuổi -0,107 0,331 
Thời gian phát hiện bệnh 0,129 0,243 
BMI 0,066 0,550 
Vòng bụng 0,061 0,584 
HbA1c 0,482 < 0,001 
Glucose 0,264 0,015 
Có mối tương quan giữa thể tích tồn lưu bàng quang với HbA1c (r = 0,482, p < 0,001) và 
nồng độ glucose máu (r = 0,264, p = 0,015) nhưngkhông có mối tương quan giữa thể tích tồn lưu 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
34 
bàng quang với tuổi (r = -0,107, p = 0,331), thời gian phát hiện bệnh (r = 0,129, p = 0,243), BMI 
(r = 0,066, p = 0,550) và vòng bụng (r = 0,061, p = 0,584). 
Bảng 5.Hồi quy đa biến giữa thể tích tồn lưu bàng quang và các yếu tố nguy cơ 
Các yếu tố nguy cơ B β hiệu chỉnh p 
Hằng số -10,836 0,719 
Tuổi 0,095 0,560 0,604 
Thời gian phát hiện bệnh 0,932 0,275 0,013 
BMI -0,865 -0,104 0,506 
Vòng bụng 0,005 0,001 0,993 
HbA1c 4,555 4,299 0,001 
Glucose -0,739 -2,029 0,046 
R= 0,482 𝑅2= 0,233. Mức ý nghĩa của mô hình p < 0,05. 
Có mối tương quan đa biến giữa thời gian phát hiện bệnh, glucose máu và HbA1c với thể tích 
tồn lưu bàng quang. Phương trình hồi quy đa biến là: y = 0,275 x thời gian phát hiện bệnh + 
4,299 x HbA1c – 2,029 x glucose, với p thời gian phát hiện bệnh = 0,013, p HbA1c = 0,001, p Glucose = 0,046. 
Biểu đồ 1. Chỉ số dự báo có tồn lưu bàng quang của HbA1c 
HbA1c có khả năng phân tích rất tốt trong chẩn đoán có tồn lưu bàng quang, tại điểm cắt 
HbA1c là 9,10% ( AUC 0,811, Se 65,67%, Sp 94,12%, với p < 0,001). 
Biểu đồ 2. Chỉ số dự báo có tồn lưu bàng quang của Glucose 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
35 
Glucose có khả năng phân tích không tốt 
trong chẩn đoán có tồn lưu bàng quang, tại 
điểm cắt Glucose máu là 13,50 mmol/l ( AUC 
0,665,Se 53,73%, Sp 82,35%, với p = 0,030). 
4. BÀN LUẬN 
Bệnh lý thần kinh tự động bàng quang là 
một trong những biến chứng thần kinh tự 
động ở bệnh nhân ĐTĐ phần lớn biểu hiện ở 
giai đoạn tiền lâm sàng, cũng như thiếu máu 
cơ tim im lặng. Những biểu hiện này rất đặc 
thù cho biến chứng thần kinh tự động ở bệnh 
nhân đái tháo đường. Những bất thường về 
rối loạn chức năng co bóp bàng quang là một 
trong những biểu hiện bệnh lý của hệ thống 
thần kinh tự động ở bệnh nhân đái tháo 
đường. Trong đó rối loạn độ vơi bàng quang 
là tiền đề cho nhiễm trùng đường tiểu thấp 
cũng như viêm thận bể thận ngược dòng, lâu 
dài có thể bị suy thận [4]. 
4.1.Thể tích tồn lưu bàng quang của đối 
tượng nghiên cứu 
Qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy đối tượng được gọi là có tồn lưu bàng 
quang khi giá trị thể tích tồn lưu bàng quang 
đo được: ≥ 3,16 ml đối với nhóm tuổi < 60 
tuổi và≥ 4,50 ml đối với nhóm tuổi ≥ 60 tuổi. 
Khi so sánh với giá trị thể tích tồn lưu 
bàng quang để xác định có tồn lưu bàng 
quang trong nghiên cứu của Phan Thanh Bính 
và cộng sự ghi nhận đối tượng được gọi là có 
thể tích tồn lưu bàng quang khi giá trị thể tích 
tồn lưu đo được ≥ 3,88 ml ở đối tượng < 40 
tuổi, ≥ 3,54 ml đối với độ tuổi 40 - 60 tuổi, ≥ 
4,01 ml đối với độ tuổi > 60 tuổi [2] thì kết 
quả của chúng tôi cũng tương đương với kết 
quả này.Trong tổng số 84 bệnh nhân nữ ĐTĐ 
tham gia nghiên cứu, chúng tôi xác định có 67 
bệnh nhân (79,8%) có tồn lưu bàng quang, 
bệnh nhân chủ yếu có thể tích tồn lưu bàng 
quang < 50 ml, 75% số bệnh nhân có triệu 
chứng lâm sàng bệnh lý bàng quang đái tháo 
đường, tỷ lệ bệnh nhân có tồn lưu bàng quang 
trong nghiên cứu của chúng tôi khi so sánh 
với các nghiên cứu khác đều có sự khác biệt. 
Khi so sánh với kết quả nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Nhạn (2000) được thực hiện 
trên 44 bệnh nhân đái tháo đường (18 bệnh 
nhân đái tháo đường týp 1 và 26 bệnh nhân 
đái tháo đường týp 2), có kết quả là ở bệnh 
nhân đái tháo đường týp 1 có 72,22% có ứ 
trệ nước tiểu trong bàng quang, bệnh nhân 
đái tháo đường týp 2 có 53,84% có ứ trệ 
nước tiểu trong bàng quang, so với kết quả 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Nhạn thì tỷ lệ 
bệnh nhân có ứ trệ nước tiểu trong bàng 
quang của chúng tôi cao hơn, có thể lý giải 
điều này bởi vì có sự khác nhau về mẫu 
nghiên cứu, thời gian mắc bệnh và kiểm soát 
glucose máu của chúng tôi và đối tượng 
nghiên cứu của tác giả trên. 
Phan Thanh Bính, Nguyễn Hải Thủy 
(2005) nghiên cứu thể tích tồn lưu bàng 
quang ở 144 bệnh nhân đái tháo đường ghi 
nhận kết quả 94,44% số bệnh nhân đái tháo 
đường týp 1 có tồn lưu bàng quang và 
87,69% bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có 
tồn lưu bàng quang [2], tỷ lệ bệnh nhân có tồn 
lưu bàng quang theo kết quả trên thấp hơn so 
với tỷ lệ tồn lưu bàng quang trong nghiên cứu 
của Phan Thanh Bính. Đinh Công Mạnh, Vũ 
Thị Bích Nga (2014) ghi nhận tỷ lệ bệnh 
nhân đái tháo đường có tồn lưu bàng quang 
là trong số 86 bệnh nhân nghiên cứu, có 25 
bệnh nhân, chiếm 29,1%, kết quả nghiên cứu 
của Đinh Công Mạnh thấp hơn kết quả tỷ lệ 
có tồn lưu bàng quang trong nghiên cứu của 
chúng tôi [3]. 
Sự khác biệt về tỷ lệ này chúng tôi nhận 
thấy là do nghiên cứu của Đinh Công Mạnh 
đánh giá có tồn lưu bàng quang khi lượng 
nước tiểu trong bàng quang sau khi đi tiểu ≥ 
50 ml, còn nghiên cứu của chúng tôi chọn 
mốc thể tích xác định có tồn lưu bàng quang 
bàng quang là 3,16 ml. 
Lê Văn An, Lê Lam Hương (2016) nghiên 
cứu trên 124 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 
có 76 trường hợp, chiếm 61,3% có tồn lưu 
bàng quang [1], tỷ lệ này thấp hơn kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi, có thể do Lê Văn 
An lấy mốc thể tích tồn lưu 50ml để chẩn 
đoán có tồn lưu bàng quang. 
4.2.Liên quan giữa thể tích tồn lưu bàng 
quang với các yếu tố nguy cơ và lâm sàng 
Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận 
thấy có mối liên quan giữa HbA1c, Glucose 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
36 
máu với thể tích tồn lưu bàng quang, không 
có mối liên quan rõ giữa thời gian mắc bệnh, 
tuổi bệnh nhân, BMI, vòng bụng với thể tích 
tồn lưu bàng quang. Có mối tương quan thuận 
giữa thể tích tồn lưu bàng quang với glucose 
máu (r = 0,264, p = 0,015), HbA1c (r = 0,482, 
p < 0,001). Có mối tương quan đa biến giữa 
thời gian mắc bệnh, glucose máu và HbA1c 
với thể tích tồn lưu bàng quang. Phương trình 
hồi quy đa biến là: y = 0,275 x thời gian mắc 
bệnh + 4,299 x HbA1c – 2,029 x glucose, với 
p thời gian mắc bệnh = 0,013, p HbA1c = 0,001, p Glucose 
= 0,046. Các nghiên cứu trong nước cũng cho 
kết quả tương tự với kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi như nghiên cứu của Phan Thanh 
Bính, Nguyễn Hải Thủy (2005) [2], 
Đinh Công Mạnh, Vũ Bích Nga (2014) 
[3], Lê Văn An, Lê Lam Hương (2016) [1]. 
Tuy nhiên nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị 
Nhạn (2000) ghi nhận ứ trệ nước tiểu trong 
bàng quang không có tương quan với glucose 
máu [4], sự khác biệt này có lẽ do số lượng 
bệnh nhân trong hai nghiên cứu khác nhau. 
Khi so sánh với các nghiên cứu trên thế giới, 
như nghiên cứu của tác giả Ayesha A. Appa 
và cộng sự (2013) kết luận rằng kiểm soát 
đường máu kém có nhiều khả năng làm tăng 
thể tích tồn lưu bàng quang [5], kết quả này 
cũng tương đương với kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi. Nan Xiao và cộng sự (2013) 
nghiên cứu vai trò của đa niệu và tăng 
glucose máu với rối loạn chức năng bàng 
quang đái tháo đường, nghiên cứu tiến hành 
trên 72 con chuột cái Sprague - Dawley, ghi 
nhận kết quả sự tăng glucose máu thúc đẩy 
tress oxy hóa ở bàng quang, điều này có thể 
đóng vai trò bệnh sinh quan trọng trong rối 
loạn chức năng bàng quang ở giai đoạn muộn 
[11]. Vì vậy để hạn chế các biến chứng của 
bệnh đái tháo đường nói chung và biến chứng 
về thận tiết niệu nói riêng, việc kiểm soát tốt 
glucose máu là một trong những mục tiêu cơ 
bản luôn được đặt ra trong quá trình điều trị 
thuộc bất cứ đối tượng đái tháo đường nào. 
Về ngưỡng giá trị dự báo tồn lưu bàng 
quang của các yếu tố nguy cơ, kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi cho thấy HbA1c có khả 
năng phân tích rất tốt trong chẩn đoán có tồn 
lưu bàng quang, tại điểm cắt HbA1c 9,1%, 
tương ứng với độ nhạy 65,67%, độ đặc hiệu 
94,12%, diện tích dưới đường cong ROC của 
HbA1c 0,811, với p < 0,0001, Glucose có khả 
năng phân tích không tốt trong chẩn đoán có 
tồn lưu bàng quang, tại điểm cắt Glucose máu 
13,50 mmol/l, tương ứng Se 53,73%, Sp 
82,35%, AUC 0,665, với p = 0,030. Như vậy 
chúng tôi nhận thấy có sự tương quan rõ rệt 
giữa HbA1c và thể tích tồn lưu bàng quang. 
So sánh với nghiên cứu của Lê Văn An, Lê 
Lam Hương (2016) ghi nhận được kết quả 
khác so với kết quả của chúng tôi, theo như 
ghi nhận trong nghiên cứu của tác giả này thì 
tỷ lệ HbA1c không thấy có mối tương quan rõ 
rệt với thể tích tồn lưu bàng quang [1]. 
5. KẾT LUẬN 
Tỷ lệ bệnh nhân nữ đái tháo đường type 2 
có tồn lưu bàng quang phát hiện qua siêu âm 
là 79,80% trong số đó 27,40% cóthể tích tồn 
lưu bàng quang dưới 10 ml,28,60% có thể 
tích tồn lưu trong 10 - < 20 ml, 19,05% thể 
tích tồn lưu 20 - < 50 ml, 4,75%thể tích tồn 
lưu ≥ 50 ml. 
Có mối liên quan giữa thể tích tồn lưu 
bàng quang với nồng độ HbA1c, Glucose 
máu và triệu chứng lâm sàng bệnh lý bàng 
quang đái tháo đường. 
Nồng độ HbA1c có khả năng phân tích rất 
tốt trong chẩn đoán có tồn lưu bàng quang, 
với giá trị dự báo tại điểm cắt HbA1c là 9,1% 
(AUC 0,811, Se 65,67%, Sp 94,12%, p < 
0,001). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Văn An, Lê Lam Hương (2016), 
"Nghiên cứu tổn thương bàng quang ở 
bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh 
viện Trường Đại học Y Dược Huế", Kỷ 
yếu hội nghị Nội tiết - Đái tháo đường - 
Rối loạn chuyển hóa miền Trung& Tây 
Nguyên mở rộng lần thứ X, Tạp chí Nội 
tiết - Đái tháo đường. 21, tr. 380 - 387. 
2. Phan Thanh Bính (2005), Khảo sát thể 
tích tồn lưu bàng quang ở bệnh nhân đái 
tháo đường bằng siêu âm 2 bình diện, 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
37 
Luận văn Thạc sỹ Y học, Đại học Y 
Dược Huế. 
3. Đinh Công Mạnh (2014), Nghiên cứu 
đánh giá lượng nước tiểu tồn dư trong 
bàng quang bằng siêu âm ở bệnh nhân 
đái tháo đường týp 2, Luận văn Thạc sĩ 
Y học, Đại học Y Hà Nội. 
4. Nguyễn Thị Nhạn (2000), "Nghiên cứu 
bệnh lý thần kinh tự động bàng quang ở 
bệnh nhân đái tháo đường", Kỷ yếu toàn 
văn công trình nghiên cứu khoa học Nội tiết 
và Chuyển hóa, Hội nghị Khoa học Toàn 
quốc chuyên ngành Nội tiết và các rối loạn 
chuyển hóa lần thứ nhất, tr. 499-503. 
5. Appa A. A.et al (2013), "Clinical 
predictors and significance of postvoid 
residual volume in women with 
diabetes", Diabetes research and clinical 
practice. 101(2), pp. 164-169. 
6. Goldman H. B. & Appell R. A. (1999), 
"Voiding dysfunction in women with 
diabetes mellitus", International 
Urogynecology Journal. 10(2), pp. 130-
133. 
7. Jameson J. L.et al (2018), "Neuropathy 
and diabetes mellitus", Harrison's 
Principles of Internal Medicine, 
Twentieth Edition, McGraw-Hill 
Education, pp. 7066 - 7068. 
8. Karoli R. et al (2014), "A study of 
bladder dysfunction in women with type 
2 diabetes mellitus", Indian journal of 
endocrinology and metabolism. 18(4), 
pp. 552. 
9. Leerasiri P. & Puttanapitak B. (2017), 
"Measurement of Post Void Residual 
Urine Volume Using Portable 3D 
Ultrasound Compared with Urinary 
Catheterization", Siriraj Medical 
Journal. 69(3), pp. 110-113. 
10. Luc W. et al (2019), "Diabetic Bladder 
Dysfunction: A Review", UROLOGY 
123, pp. 1-6. 
11. Xiao N.et al (2013), "Roles of polyuria 
and hyperglycemia in bladder 
dysfunction in diabetes", The Journal of 
urology. 189(3), pp. 1130-1136. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_the_tich_ton_luu_bang_quang_tren_benh_nhan_nu_dai_t.pdf