Khảo sát thái độ và sự tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng tại các khoa trọng điểm bệnh viện nhi đồng 2 năm 2010

TÓM TẮT

Mục tiêu: Khảo sát thái độ và sự tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng tại các khoa trọng điểm Bệnh

viện Nhi Đồng 2 năm 2010.

Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang, mô tả và phân tích với mẫu nghiên cứu là 188 Bác sĩ và điều dưỡng

tại các khoa trọng điểm (Hồi sức, Sơ sinh, Tim mạch, Tiêu hóa, Thận nội tiết) của Bệnh viện Nhi Đồng 2. Số liệu

thu thập được xử lý theo phần mềm SPSS 17.0.

Kết quả: Phần lớn nhân viên y tế có thái độ tuân thủ rửa tay rất tốt: 63,8% cho là luôn luôn và 31,4%

cho là thường xuyên phải rửa tay khi có cơ hội. Tuy nhiên, thực tế chỉ có 17,6% là luôn luôn và 13,8% là

thường xuyên thực hành đúng cơ hội rửa tay; Kết quả khảo sát thực hành cho thấy tỉ lệ tuân thủ rửa tay của

điều dưỡng cao hơn bác sĩ (60,4% so với 49,6%); So sánh tỉ lệ tuân thủ rửa tay giữa các khoa nhận thấy tỉ lệ

tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng ở khoa Hồi sức và Sơ sinh cao hơn các khoa khác. Tỉ lệ tuân thủ

rửa tay của bác sĩ ở khoa Hồi sức và Sơ sinh lần lượt là 74,7% và 82%, của điều dưỡng ở khoa Hồi sức và

Sơ sinh lần lượt là 71,9% và 70,3%.

pdf 11 trang phuongnguyen 8020
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát thái độ và sự tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng tại các khoa trọng điểm bệnh viện nhi đồng 2 năm 2010", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát thái độ và sự tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng tại các khoa trọng điểm bệnh viện nhi đồng 2 năm 2010

Khảo sát thái độ và sự tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng tại các khoa trọng điểm bệnh viện nhi đồng 2 năm 2010
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 1 
KHẢO SÁT THÁI ĐỘ VÀ SỰ TUÂN THỦ RỬA TAY 
CỦA BÁC SĨ VÀ ĐIỀU DƯỠNG TẠI CÁC KHOA TRỌNG ĐIỂM 
BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 NĂM 2010 
Mai Ngọc Xuân* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát thái độ và sự tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng tại các khoa trọng điểm Bệnh 
viện Nhi Đồng 2 năm 2010. 
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang, mô tả và phân tích với mẫu nghiên cứu là 188 Bác sĩ và điều dưỡng 
tại các khoa trọng điểm (Hồi sức, Sơ sinh, Tim mạch, Tiêu hóa, Thận nội tiết) của Bệnh viện Nhi Đồng 2. Số liệu 
thu thập được xử l ý theo phần mềm SPSS 17.0. 
Kết quả: Phần lớn nhân viên y tế có thái độ tuân thủ rửa tay rất tốt: 63,8% cho là luôn luôn và 31,4% 
cho là thường xuyên phải rửa tay khi có cơ hội. Tuy nhiên, thực tế chỉ có 17,6% là luôn luôn và 13,8% là 
thường xuyên thực hành đúng cơ hội rửa tay; Kết quả khảo sát thực hành cho thấy tỉ lệ tuân thủ rửa tay của 
điều dưỡng cao hơn bác sĩ (60,4% so với 49,6%); So sánh tỉ lệ tuân thủ rửa tay giữa các khoa nhận thấy tỉ lệ 
tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng ở khoa Hồi sức và Sơ sinh cao hơn các khoa khác. Tỉ lệ tuân thủ 
rửa tay của bác sĩ ở khoa Hồi sức và Sơ sinh lần lượt là 74,7% và 82%, của điều dưỡng ở khoa Hồi sức và 
Sơ sinh lần lượt là 71,9% và 70,3%. 
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng tại các khoa trọng 
điểm của Bệnh viện Nhi Đồng 2 chưa cao. Để tăng cường sự tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế cần xây dựng 
chiến dịch tăng cường rửa tay. Chiến dịch này cần sự quan tâm và hỗ trợ xuyên suốt của Ban giám đốc; sự phối 
hợp chặt chẽ của Khoa Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn, mạng lưới Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn tại khoa phòng và tất cả 
nhân viên y tế trong bệnh viện. 
Từ khóa: rửa tay, tuân thủ rửa tay, nhiễm khuẩn bệnh viện. 
ABSTRACT 
SURVEY OF HAND HYGIENE ATTITUDE AND COMPLIANCE OF DOCTORS AND NURSES OF 
THE PRINCIPAL DEPARTMENTS AT CHILDREN’S HOSPITAL 2 IN 2010 
Mai Ngoc Xuan* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 218 – 226 
Objectives: To audit hand hygiene attitude and compliance of doctors and nurses in the principal 
departments of Children’s Hospital 2 in 2010. 
Method: A cross-sectional, descriptive and analytical study was conducted on 188 Doctors and Nurses in 
the principal departments of Children’s Hospital No2. Statistical data collection was processed by SPSS 17. 0 for 
Windows. 
Results: Most of HCWs have claimed to have the right attitude towards and comply with hand hygiene 
practice: 63.8% of them has always and 31.4% has often done so when having the opportunities. However, in 
reality, only 17.6% has always and 13.8% has often done so. Compliance audit results found that Nurses’ hand 
hygiene compliance rate is higher than Doctors’ (60.4% as opposed to 49.6%). Hand hygiene compliance rates of 
Doctors and Nurses of the ICU and Newborn Departments are higher than the others; which was recorded at 
* Bệnh viện Nhi Đồng 2 
Tác giả liên lạc: CN Mai Ngọc Xuân, ĐT: 0978032141, Email: xuanngocmai@yahoo.com.vn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 2 
74.7% and 82% for Doctors in the ICU and Newborn Depts and at 71.9% and 70.3% for Nurses. 
Conclusions: This result demonstrates that hand hygiene compliance of HCWs in the principal 
departments at Children’s Hospital 2 is not high. To improve this, a campaign of hand hygiene practice should be 
launched. The hand hygiene campaign needs to be carefully and regularly supported by the hospital Director 
Board and requires a high level of co-operation between the Infection Control Department, Infection Control 
network and all the HCWs in the hospital. 
Key words: hand hygiene (hand washing), hand hygiene compliance, hospital infections. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng 
nguyên nhân gây NKBV phần lớn là do sự lây 
truyền từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác 
qua bàn tay của NVYT(2,7,10). 
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh 
tật Hoa Kỳ (CDC) và những tổ chức y tế khác đã 
chứng minh rằng rửa tay trước và sau khi tiếp 
xúc bệnh nhân là một trong những biện pháp 
quan trọng nhất trong phòng ngừa NKBV(11). 
Dù có nhiều bằng chứng cho rằng rửa tay là 
biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất để phòng 
ngừa NKBV nhưng tỷ lệ tuân thủ rửa tay của 
NVYT còn rất thấp(1,6,9). 
Những lý do mà NVYT không tuân thủ rửa 
tay là: công việc quá tải, quá bận rộn không có 
thời gian; dung dịch rửa tay làm khô tay, gây 
kích ứng da; không thấy tay dơ; thiếu phương 
tiện rửa tay; rửa tay mất thời gian. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu tổng quát 
Khảo sát thái độ và thực hành rửa tay của 
Bác sĩ và Điều dưỡng tại các khoa trọng điểm 
Bệnh viện Nhi Đồng 2 năm 2010. 
Mục tiêu chuyên biệt 
Xác định tỷ lệ thái độ tuân thủ rửa tay của 
Bác sĩ và Điều dưỡng. 
Xác định tỷ lệ thực hành tuân thủ rửa tay của 
Bác sĩ và Điều dưỡng. 
Xác định tỷ lệ thực hành rửa tay đúng của 
Bác sĩ và Điều dưỡng. 
Xác định mối tương quan giữa tỷ lệ thực 
hành rửa tay của Bác sĩ và Điều dưỡng với các 
yếu tố: giới tính, trình độ chuyên môn, thâm 
niên công tác 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang, mô tả. 
Thời gian 
Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2010. 
Địa điểm 
5 khoa trọng điểm của Bệnh viện Nhi Đồng 
2: Hồi sức, Sơ sinh, Tim Mạch, Tiêu hóa, Thận 
nội tiết. 
* Ghi chú: 5 khoa trọng điểm là 5 khoa có 
tỷ lệ NKBV đứng đầu theo điều tra cắt ngang 
NKBV tại BV Nhi Đồng 2 qua 3 năm liền: 2007, 
2008 và 2009. 
Đối tượng nghiên cứu 
Bác sĩ, điều dưỡng của Bệnh viện Nhi 
Đồng 2 đang công tác lâm sàng tại 5 khoa 
trọng điểm của BV Nhi Đồng 2 từ tháng 4 đến 
tháng 9 năm 2010. 
Cỡ mẫu 
Lấy mẫu toàn bộ. 
Tiêu chí chọn vào 
Bác sĩ, điều dưỡng là nhân viên chính thức 
của BV Nhi Đồng 2 và đang làm việc tại các 
khoa trọng điểm trong thời gian nghiên cứu. Bác 
sĩ, điều dưỡng có làm công tác chuyên môn, tiếp 
xúc với bệnh nhân theo 5 thời điểm của WHO và 
2 thời điểm khuyến cáo của BYT: 
- Trước khi tiếp xúc bệnh nhân. 
- Trước khi làm thủ thuật. 
- Sau khi tiếp xúc bệnh nhân. 
- Sau khi tiếp xúc với máu, dịch tiết. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 3 
- Sau khi tiếp xúc với môi trường xung 
quanh bệnh nhân. 
- Sau khi cởi găng. 
- Khi chuyển từ vùng nhiễm sang vùng sạch 
trên cùng 1 bệnh nhân. 
Tiêu chí loại trừ 
Bác sĩ, điều dưỡng không phải là nhân viên 
của BV Nhi Đồng 2 (nhân viên thực tập) và 
bác sĩ, điều dưỡng làm công tác hành chánh, 
không tiếp xúc trực tiếp bệnh nhân. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Quan sát 
Quan sát và điền vào bảng kiểm. 
Việc khảo sát sự tuân thủ rửa tay được tiến 
hành song song với công tác giám sát kiểm soát 
nhiễm khuẩn thường xuyên, thực hiện bởi giám 
sát viên của khoa KSNK. 
Mỗi bác sĩ/điều dưỡng được quan sát 10 cơ 
hội rửa tay trong 1 hoặc nhiều lần đi giám sát. 
Phỏng vấn gián tiếp 
Sau khi được quan sát đủ 10 cơ hội rửa tay, 
nhân viên trong mẫu nghiên cứu sẽ điền vào 
bảng thăm dò về thái độ rửa tay. 
Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Đặc ñiểm Tần số Tỷ lệ % 
Nam 33 17,6% Giới tính (N=188) 
Nữ 155 82,4% 
Bác sĩ 51 27,1% 
Chức danh (N=188) 
Điều dưỡng 137 72,9% 
Đa khoa 31 60,8% 
CK 1 9 17,6% 
Thạc sĩ 9 3,9% 
Bác sĩ 
(N=51) 
CK 2 2 17,6% 
Sơ cấp 1 0,7% 
Trung cấp 129 94,2% 
Trình ñộ 
chuyên 
môn 
(N=188) Điều 
dưỡng 
(N=137) Cử nhân 7 5,1% 
< 1 năm 8 14,9% 
1 – 5 năm 98 52,1% 
6 – 10năm 34 18,1% 
11 – 15năm 14 7,4% 
16 – 20năm 9 4,8% 
Thâm niên công tác 
tại BVNĐ2 (N=188) 
> 20 năm 5 2,7% 
Công cụ thu thập số liệu 
Sử dụng bảng kiểm để quan sát sự tuân thủ 
rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng. 
Sử dụng bảng câu hỏi để bác sĩ và điều 
dưỡng tự trả lời. 
Phương pháp kiểm soát sai lệch 
Kiểm soát sai lệch: bằng cách tuân thủ tiêu 
chí chọn mẫu và tiêu chí loại trừ. 
Kiểm soát sai lệch của người quan sát: 
bằng cách tập huấn thật kỹ cho giám sát viên; 
khảo sát thử để xem xét, chỉnh sửa bảng khảo 
sát cho phù hợp. 
Phương pháp xử lý số liệu 
Thống kê mô tả và phân tích số liệu bằng 
phần mềm SPSS 17.0 for Windows. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Khảo sát của chúng tôi được tiến hành từ 
ngày 01 tháng 4 đến ngày 17 tháng 9 năm 2010, 
tại 5 khoa của BVNĐ2 có tỷ lệ NKBV cao nhất 
theo điều tra cắt ngang NKBV 3 năm liền (2007, 
2008 và 2009) của khoa KSNK. Đó là các khoa: 
Hồi sức, Sơ sinh, Tim mạch, Tiêu hóa, Thận nội 
tiết. Tổng cộng tất cả có 188 bác sĩ và điều dưỡng 
được chọn vào trong nghiên cứu. Tỉ lệ chấp 
nhận trả lời phỏng vấn là 100%. 
Nhận xét: Tổng số NVYT trong mẫu 
nghiên cứu là 188, trong đó số ĐD (n=137; 
72,9%) nhiều gần gấp 3 lần số BS (n=51; 27,1%); 
nữ giới gần gấp 5 lần nam giới (82,4% ở nữ so 
với 17,6% ở nam). 
Về trình độ chuyên môn của BS, BS đa khoa 
chiếm 60,8% (n=31) trong tổng số 51 BS; BS 
chuyên khoa (CK) 1 và thạc sĩ chiếm tỉ lệ bằng 
nhau (n=9; 17,6%); Có 2 BSCK2 (3,9%) và không 
có tiến sĩ bác sĩ nào. 
Về trình độ chuyên môn của ĐD, phần lớn là 
ĐD trung cấp (n=129, 94,2%); cử nhân ĐD chiếm 
5,1% (n=7) và có 1 ĐD sơ cấp (0,7%). 
Về thâm niên công tác tại BVNĐ2, thâm 
niên từ 1 đến 5 năm chiếm tỉ lệ cao nhất: 52,1% 
(n=98); thâm niên trên 20 năm chiếm tỉ lệ thấp 
nhất: 2,7% (n=5). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 4 
Bảng 2: Số lượng NV của các khoa trong mẫu nghiên 
cứu 
Khoa Bác sĩ Điều dưỡng Tổng NV 
Hồi sức 17 (28,8%) 42 (71,2%) 59 (31,4%) 
Sơ sinh 10 (21,3%) 37 (78,7%) 47 (25%) 
Tim mạch 7 (28,0%) 18 (72%) 25 (13,3%) 
Tiêu hóa 10 (29,4%) 24 (70,6%) 34 (18,1%) 
Thận nội tiết 7 (30,4%) 16 (69,6%) 23 (12,2%) 
Tổng NV 51 (27,1%) 137 (72,9%) 188 (100%) 
Nhận xét: Về số người tham gia nghiên cứu 
ở mỗi khoa, khoa Hồi sức có số người đông nhất 
(n=59), chiếm gần 1/3 tổng số người nghiên cứu 
(31,4%) và khoa Thận nội tiết có số người nghiên 
cứu thấp nhất (n=23), chiếm tỉ lệ 12,2%. 
Bảng 3: Tỷ lệ thái độ và thực hành rửa tay 
Thái ñộ 
(N=188) 
Thực hành 
(N=188) 
Luôn luôn (100%) 63,8% 17,6% 
Thường xuyên (80%-90%) 31,4% 13,8% 
Thỉnh thoảng (50%-70%) 3,8% 36,2% 
Ít khi (<50%) 0,9% 18,1% 
Không bao giờ (0%) 0,3% 14,4% 
Nhận xét: 2/3 tổng số người cho rằng mình 
luôn luôn rửa tay; khoảng 1/3 cho là thường 
xuyên rửa tay; dưới 1/10 cho là thỉnh thoảng, ít 
khi và không bao giờ rửa tay. 
Tuy nhiên, qua khảo sát thực hành rửa tay, 
chưa tới 1/3 tổng số nghiên cứu luôn luôn và 
thường xuyên rửa tay; trên 1/3 tổng số người là 
thỉnh thoảng rửa tay và khoảng 1/3 là ít khi và 
không bao giờ rửa tay. 
Bảng 4: Tỷ lệ thái độ rửa tay theo từng thời điểm 
TĐ 
Luôn 
luôn 
Thường 
xuyên 
Thỉnh 
thoảng Ít khi 
Không 
bao giờ Tổng 
I 101 (53,7%) 
82 
(43,6%) 
5 
(2,7%) 0 0 
188 
(100%) 
II 172 (91,5%) 
16 
(8,5%) 0 0 0 
188 
(100%) 
III 112 (59,6%) 
72 
(38,3%) 
4 
(2,1%) 0 0 
188 
(100%) 
IV 180 (95,7%) 
8 
(4,3%) 0 0 0 
188 
(100%) 
V 71 (37,8%) 
87 
(46,3%) 
24 
(12,8%) 
4 
(2,1%) 
2 
(1,1%) 
188 
(100%) 
VI 106 (56,4%) 
74 
(39,4%) 
8 
(4,3%) 0 0 
188 
(100%) 
VII 99 (52,7%) 
71 
(37,8%) 
9 
(4,8%) 
7 
(3,7%) 
2 
(1,1%) 
188 
(100%) 
TĐ 
Luôn 
luôn 
Thường 
xuyên 
Thỉnh 
thoảng Ít khi 
Không 
bao giờ Tổng 
TC 841 (63,9%) 
410 
(31,2%) 
50 
(3,8%) 
11 
(0,8%) 
4 
(0,3%) 
1316 
(100%) 
I: Trước khi tiếp xúc bệnh nhân 
II: Trước khi làm thủ thuật 
III: Sau khi tiếp xúc bệnh nhân 
IV: Sau khi tiếp xúc máu, dịch tiết 
V: Sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân 
VI: Sau khi cởi găng 
VII: Khi di chuyển từ vùng dơ sang vùng sạch trên cùng một bệnh 
nhân 
*Nhận xét: Kết quả khảo sát thái độ rửa tay 
theo thời điểm (bảng 4) cho thấy: 
Thời điểm sau khi tiếp xúc máu, dịch tiết có 
tỉ lệ thái độ luôn luôn rửa tay chiếm tỉ lệ cao nhất 
95,7% (n=180); thời điểm trước khi làm thủ thuật 
cũng có tỉ lệ thái độ luôn luôn rửa tay khá cao là 
91,5% (n=172). Đặc biệt, ở cả 2 thời điểm này 
không có tỉ lệ thái độ nào cho là thỉnh thoảng, ít 
khi, không bao giờ rửa tay. 
Tuy nhiên, thời điểm sau khi tiếp xúc môi 
trường xung quanh bệnh nhân có 3,3% (n=6) thái 
độ cho là ít khi và không bao giờ rửa tay; cũng 
vậy, đối với thời điểm khi di chuyển từ vùng dơ 
sang vùng sạch trện cùng 1 bệnh nhân có tới 
4,8% (n=9) thái độ cho là ít khi và không bao giờ 
rửa tay. 
Bảng 5: Tỷ lệ thực hành rửa tay theo từng thời điểm 
Thời ñiểm Có 
rửa tay 
Không 
rửa tay Tổng 
Trước khi tiếp xúc bệnh 
nhân 
274 
(25,4%) 
282 
(35,3%) 
556 
(29,6%) 
Trước khi làm thủ thuật 169 (15,6%) 
118 
(14,8%) 
287 
(15,3%) 
Sau khi tiếp xúc 
bệnh nhân 
322 
(29,8%) 
246 
(30,8%) 
568 
(30,2%) 
Sau khi tiếp xúc máu, dịch 
tiết 
50 
(4,6%) 
25 
(3,1%) 
75 
(4%) 
Sau khi tiếp xúc môi trường 
xung quanh bệnh nhân 
158 
(14,6%) 
53 
(6,6%) 
211 
(11,2%) 
Sau khi cởi găng 91 (8,4%) 
65 
(8,1%) 
156 
(8,3%) 
Khi di chuyển từ vùng dơ 
sang vùng sạch trên cùng 
một bệnh nhân 
16 
(1,5%) 
11 
(1,4%) 
27 
(1,4%) 
Tổng 1080 (100%) 
800 
(100%) 
1880 
(100%) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 5 
Nhận xét: Qua thực tế khảo sát thực hành 
rửa tay, ta thấy: 
Thời điểm trước và sau khi tiếp xúc với bệnh 
nhân có tỉ lệ cơ hội tuân thủ rửa tay cao nhất, 
29,8% (n=322) đối với thời điểm sau khi tiếp xúc 
bệnh nhân và 25,4% (n=274) đối với thời điểm 
trước khi tiếp xúc bệnh nhân. 
Thời điểm khi di chuyển từ vùng dơ sang 
vùng sạch trên cùng 1 bệnh nhân có tỉ lệ cơ hội 
tuân thủ rửa tay thấp nhất là 1,5% (n=16). 
Ngoài ra, thời điểm sau khi tiếp xúc với máu, 
dịch tiết có tỉ lệ cơ hội tuân thủ rửa tay cũng 
rất thấp 4,6% (n=50). 
Bảng 6: Tỷ lệ thực hành tuân thủ rửa tay của Bác sĩ 
và điều dưỡng ở các khoa 
 Bác sĩ Điều dưỡng 
Hồi sức 127 (74,7%) 302 (71,9%) 
Sơ sinh 82 (82%) 260 (70,3%) 
Tim mạch 22 (31,4%) 62 (34,4%) 
Tiêu hóa 9 (9%) 145 (60,4%) 
Thận nội tiết 13 (18,6%) 58 (36,3%) 
Tổng 253 (49,6%) 827 (60,4%) 
Nhận xét: Tỷ lệ tuân thủ rửa tay chung và ở 
từng khoa của BS thấp hơn ĐD: tỉ lệ tuân thủ rửa 
tay chung của BS chiếm 49,6% trong khi tỉ lệ 
tuân thủ rửa tay chung của ĐD là 60,4%. 
Về thực hành rửa tay của BS, có tới 3/5 khoa 
có tỉ lệ cơ hội tuân thủ rửa tay của bác sĩ thấp 
hơn 50%: khoa Tiêu hóa có tỉ lệ BS tuân thủ rửa 
tay thấp nhất (9%) trong khi khoa Sơ sinh có tỉ lệ 
BS tuân thủ rửa tay cao nhất (82%). 
Về thực hành rửa tay của ĐD, 2 khoa Thận 
nội tiết và Tim mạch có tỉ lệ ĐD tuân thủ rửa 
tay thấp hơn 50%; Khoa Tim mạch có tỉ lệ ĐD 
tuân thủ rửa tay thấp nhất (34,4%) trong khi 
khoa Hồi sức có tỉ lệ ĐD tuân thủ rửa tay cao 
nhất (71,9%). 
Bảng 7: Tỷ lệ thực hành rửa tay với Softa-man v ... 
rửa tay 
Kỹ thuật rửa tay 
Chức danh Đúng 
quy trình 
Không ñúng 
quy trình 
Tổng 
Bác sĩ 14 239 253 
Điều dưỡng 132 695 827 
Tổng 146 934 1080 
χ2 = 18,019; p < 0,01 
Nhận xét: Bảng 9 cho thấy có mối liên quan 
có ý nghĩa về mặt thống kê giữa chức danh 
(BS/ĐD) với kỹ thuật rửa tay đúng quy trình 
(χ2= 18,019; p < 0,01): BS rửa tay không đúng qui 
trình hơn ĐD. 
Bảng 10: Mối tương quan giữa việc mang găng và 
thực hành rửa tay 
Có 
rửa tay 
Không 
rửa tay Tổng 
Mang găng 159 94 253 
Không mang găng 779 619 1398 
Tổng 938 713 1.651 
χ2= 4,431; p=0,035 
Nhận xét: Chúng ta thấy có mối liên quan 
có ý nghĩa về mặt thống kê giữa việc mang 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 6 
găng tay với tuân thủ rửa tay ( 2χ = 4,431; p = 
0,035): mang găng làm NVYT không rửa tay 
nhiều hơn vì “yên tâm” với sự bảo vệ của găng 
tay, cho rằng việc mang găng tay sẽ giúp tránh 
lây nhiễm. 
Bảng 11: Mối tương quan giữa thực hành rửa tay 
với các yếu tố khác 
Yếu tố xã hội Rửa tay Tổng 
 Có Không 
Nam 6 27 33 
Nữ 27 128 155 Giới tính 
Tổng 33 155 188 
χ2 = 0,011; p = 0,917 
BS 9 42 51 
ĐD 24 113 137 
Chức 
danh 
Tổng 33 155 188 
χ2 =0,000; P=0,984 
BS 4 27 31 
BSCK1 4 5 9 
BSCK2 0 2 2 
ThS BS 1 8 9 
ĐDSC 0 1 1 
ĐDTC 24 105 129 
CNĐD 0 7 7 
Trình ñộ 
chuyên 
môn 
Tổng 33 155 188 
χ2 =7,446; P=0,282 
< 1 năm 6 22 28 
1–5 năm 14 84 98 
6–10 năm 8 26 34 
11–15 năm 2 12 14 
16–20 năm 2 7 9 
> 20năm 1 4 5 
Thâm 
niên 
công tác 
Tổng 33 155 188 
 χ2 =27,162; P=0,205 
Nhận xét: Bảng 11 cho chúng ta thấy không 
có mối liên quan về mặt thống kê giữa sự tuân 
thủ rửa tay với các đặc điểm của mẫu nghiên 
cứu (giới tính, chức danh, trình độ chuyên môn, 
thâm niên công tác tại BV NĐ2). 
Bảng 12: Lý do không luôn luôn & không thường 
xuyên rửa tay 
 I II III IV V TC 
Bệnh ñông 3 7 1 5 16 
Quên 2 3 8 3 7 23 
Lây nhiễm thấp 1 7 3 2 13 
Không cần rửa 5 1 1 7 
Khô tay 2 1 3 
 I II III IV V TC 
Kích ứng da 1 1 
Mang găng 2 2 
Tổng cộng 5 4 30 8 18 65 
I: Trước khi tiếp xúc bệnh nhân 
II: Sau khi tiếp xúc bệnh nhân 
III: Sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân 
IV: Sau khi cởi găng 
V: Khi di chuyển từ vùng dơ sang vùng sạch trên cùng một bệnh 
nhân 
Nhận xét: Khảo sát này cho biết nguyên 
nhân có thái độ không luôn luôn và thường 
xuyên rửa tay (bảng 12). 
Lý do quên có tần số cao nhất (n=23/65); lý 
do bệnh đông, áp lực công việc, không có thời 
gian có tần số cao thứ 2 (n=16/65); có 13/65 ý kiến 
cho là khả năng lây nhiễm thấp và có l lý do là 
dung dịch rửa tay gây kích ứng da. 
Bảng 13: Các biện pháp tăng cường tuân thủ rửa tay 
 Tần số Tỷ lệ % 
Dán poster nhắc nhở rửa tay 100 41,2 
Tập huấn rửa tay thường xuyên 63 25,9 
Giám sát và nhắc nhở 64 26,3 
Khen thưởng 1 0,4 
Dung dịch rửa tay không gây kích ứng da 14 5,8 
Phân bổ công việc hợp lý 1 0,4 
TỔNG 243 100 
Nhận xét: Trong 243 ý kiến của 188 BS và ĐD 
về các biện pháp tăng cường tuân thủ rửa tay 
(bảng 13), chúng tôi nhận thấy: 
Ý kiến dán poster để nhắc nhở rửa tay là ý 
kiến được đồng tình nhất 41,2%; Giám sát nhắc 
nhở và tập huấn thường xuyên là các ý kiến 
chiếm tỉ lệ cao thứ 2 (26,3% và 25,9%) ; Ý kiến 
khen thưởng, phân bổ công việc hợp lý cũng 
được đề nghị xem xét. 
BÀN LUẬN 
Trong những năm gần đây, NKBV là mối 
quan tâm rất lớn ở các nước đã và đang phát 
triển nói chung và ở Bệnh viện Nhi đồng 2 nói 
riêng. Bệnh nhân bị NKBV phần lớn là do sự lan 
truyền vi khuẩn hiện diện trên bàn tay NVYT 
thông qua quá trình chăm sóc, điều trị. Các khoa 
Hồi sức, Sơ sinh, Tim mạch, Tiêu hóa, Thận nội 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 7 
tiết là các khoa trong BV có nguy cơ xảy ra 
NKBV cao hơn so với các khoa khác vì bệnh 
nhân thường rất nặng, nằm viện dài ngày, sử 
dụng nhiều thủ thuật xâm lấn(4,10).. Chính vì vậy, 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu ban đầu về sự 
tuân thủ rửa tay của BS và ĐD tại 5 khoa trọng 
điểm trên, nơi có tỉ lệ NKBV cao nhất trong BV 
(dựa trên kết quả điều tra cắt ngang NKBV tại 
BVNĐ2 của 3 năm liền 2007, 2008 và 2009) nhằm 
biết được tỉ lệ tuân thủ rửa tay là bao nhiêu cũng 
như xem xét các yếu tố quan trọng ảnh hưởng 
đến sự tuân thủ rửa tay để tìm ra biện pháp tăng 
cường tuân thủ rửa tay và phòng ngừa NKBV. 
Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu: 
Mẫu nghiên cứu là 188 BS và ĐD công tác 
tại các khoa Hồi sức, Sơ sinh, Tim mạch, Tiêu 
hóa, Thận nội tiết trong đó tỉ lệ ĐD (n=137; 
72,9%) nhiều gần gấp 3 lần BS (n=51; 27,1%) và 
nữ giới gần gấp 5 lần nam giới (82,4% ở nữ so 
với 17,6% ở nam). Điều này phù hợp với tình 
hình nhân sự ở đa số các bệnh viện và nhân 
lực ở BVNĐ2; Phần lớn là nhân lực trẻ nên 
thâm niên từ dưới 1 năm đến 5 năm chiếm tỉ lệ 
khá cao 67%. 
Về trình độ chuyên môn của BS, BS đa khoa 
chiếm đa số (n=31; 60,8%); chuyên khoa 1 và thạc 
sĩ chiếm tỉ lệ thấp (n=9; 17,6%); chuyên khoa 2 rất 
ít (n=2; 3,9%) vì các BS có trình độ chuyên môn 
cao phần lớn làm công tác quản lý, rất ít người 
trực tiếp điều trị cho bệnh nhân nên chúng tôi 
không khảo sát được. 
Về trình độ chuyên môn của ĐD, phần lớn 
là ĐD trung cấp (n=129) chiếm tỉ lệ 94,2%; cử 
nhân ĐD chỉ chiếm 5,1% (n=7) và có 1 điều 
dưỡng sơ cấp (0,7%). Điều này hoàn toàn phù 
hợp với tình hình nhân lực tại BVNĐ2, ĐD 
làm công tác chuyên môn tại các khoa trọng 
điểm đa số là ĐD trung cấp được tuyển chọn 
và có kết quả học tập khá giỏi; tuy có 1 ĐD sơ 
cấp nhưng thâm niên công tác đã trên 30 năm 
kinh nghiệm; 7 cử nhân ĐD đa số là ĐD trẻ, có 
thâm niên công tác dưới 1 năm. 
Kết quả nghiên cứu 
Phần lớn NVYT có thái độ tuân thủ rửa tay 
rất tốt: 63,8% cho là luôn luôn và 31,4% cho là 
thường xuyên phải rửa tay khi có cơ hội. Tuy 
nhiên, thực tế chỉ có 17,6% là luôn luôn và 13,8% 
là thường xuyên thực hành đúng cơ hội rửa tay; 
Có đến 32,5% là ít khi và không bao giờ rửa tay. 
Điều này cho thấy từ nhận thức đến thái độ và 
thực hành rửa tay vẫn còn khoảng cách khá lớn. 
Về thái độ rửa tay theo từng thời điểm, phần 
lớn cho là luôn rửa tay sau khi tiếp xúc máu, 
dịch tiết và trước khi làm thủ thuật (95,7% và 
91,5%), không ai cho là thỉnh thoảng, ít khi, 
không bao giờ rửa tay ở 2 thời điểm này. Tuy 
nhiên, thực tế khảo sát thực hành rửa tay cho 
thấy chỉ có 4,6% rửa tay sau khi tiếp xúc máu, 
dịch tiết và 15,6% rửa tay trước khi làm thủ 
thuật, có thể vì họ nghĩ mang găng nên không 
cần rửa tay. Điều đáng ngại là vẫn có một số ít 
thái độ cho là ít khi và không bao giờ rửa tay sau 
khi tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân 
(3,2%) và khi di chuyển từ vùng dơ sang vùng 
sạch trên cùng một bệnh nhân (4,8%) vì cho rằng 
thời điểm này không cần thiết phải rửa tay, khả 
năng lây nhiễm thấp từ môi trường xung quanh 
BN, mang găng có thể bảo vệ được NVYT nên 
không cần thiết phải rửa tay. Vì vậy, thực tế 
khảo sát cho thấy chỉ có 14,6% rửa tay sau khi 
tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân và 
1,5% rửa tay khi di chuyển từ vùng dơ sang 
vùng sạch trên cùng một bệnh nhân. Điều này 
chứng tỏ sự cần thiết phải tập huấn lại kiến thức 
về các thời điểm rửa tay cho NVYT và phải có sự 
giám sát, nhắc nhở thường xuyên của mạng lưới 
KSNK tại chỗ. Thực tế khảo sát còn cho thấy, tỉ lệ 
tuân thủ rửa tay trước và sau khi tiếp xúc bệnh 
nhân đạt cao nhất cũng chỉ dừng lại lần lượt ở 
con số 25,4% và 29,8%; Tỉ lệ tuân thủ ở các thời 
điểm này cao nhất có thể là do NVYT không 
mang găng và sử dụng dung dịch rửa tay 
nhanh. 
So sánh tỉ lệ tuân thủ rửa tay giữa các 
khoa, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ tuân thủ rửa 
tay của BS và ĐD ở khoa Hồi sức và Sơ sinh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 8 
cao hơn các khoa còn lại và cao hơn 50%; Tỉ lệ 
tuân thủ rửa tay của BS ở khoa Hồi sức và Sơ 
sinh lần lượt là 74,7%, 82%, của ĐD ở khoa Hồi 
sức và Sơ sinh lần lượt là 71,9% và 70,3%. Điều 
này phù hợp với các nghiên cứu trong và 
ngoài nước vì bệnh nhân ở 2 khoa này phần 
lớn là bệnh nhân nhỏ tuổi, bệnh nặng, thời 
gian nằm viện kéo dài, sức đề kháng kém, 
kháng với nhiều loại kháng sinh, sử dụng 
nhiều thủ thuật xâm lấn nên BS và ĐD điều 
trị, chăm sóc cho bệnh nhân ở 2 khoa này nhận 
thức về nguy cơ NKBV của bệnh nhân cao hơn 
nên thói quen rửa tay có cao hơn các khoa 
khác(4). Tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT của 3 
khoa còn lại khá thấp: tỉ lệ BS tuân thủ rửa tay 
cao nhất trong 3 khoa này là BS ở khoa Tim 
mạch cũng chỉ có 31,4% và tỉ lệ tuân thủ rửa 
tay của ĐD cao nhất là ở khoa Tiêu hóa cũng 
chỉ có 60,4%. 
Kết quả khảo sát thực hành cũng cho thấy ở 
một số khoa, tỉ lệ tuân thủ rửa tay của ĐD cao 
hơn BS (60,4% so với 49,6%), điển hình là tỉ lệ 
tuân thủ rửa tay của ĐD ở khoa Tiêu hóa và 
Thận nội tiết lần lượt là 60,4% và 36,3% trong khi 
của BS là 9% và 18,6% (!...) nhưng nhìn chung, tỉ 
lệ tuân thủ rửa tay của 2 đối tượng này không 
khác nhau (17,6% và 17,5%). Bệnh nhân đông có 
thể là một lý do để làm giảm sự tuân thủ của các 
BS (8), một lý do khác có thể là do nhận thức về 
nguy cơ lây lan bệnh qua bàn tay NVYT ở phòng 
bệnh thường thấp hơn phòng cấp cứu nên sự 
tuân thủ của các BS có kém hơn. 
Một nghiên cứu khác cho thấy tỉ lệ tuân thủ 
rửa tay với dung dịch rửa tay nhanh cao gấp 
hơn 2 lần dung dịch xà bông (40% so với 17,4%) 
và sự khác biệt này có nghĩa thống kê (χ2 = 
203,205; p < 0,01); Điều này, một lần nữa khẳng 
định sự chọn lựa dung dịch rửa tay phù hợp có 
vai trò quan trọng trong việc tuân thủ rửa tay 
của NVYT. 
Ngoài ra, chúng tôi còn ghi nhận một số mối 
tương quan có ý nghĩa thống kê khi thực hành 
rửa tay của NVYT ở 5 khoa nghiên cứu: 
- Có mối tương quan chặt chẽ giữa chức 
danh và kỹ thuật rửa tay: ĐD rửa tay đúng quy 
trình kỹ thuật hơn BS (χ2 = 18,019; p < 0,01). 
- Dung dịch rửa tay và kỹ thuật rửa tay cũng 
có mối liên quan có ý nghĩa: khi rửa tay với 
dung dịch xà bông thì rửa tay đúng quy trình kỹ 
thuật hơn là với dung dịch rửa tay nhanh sát 
khuẩn (χ2 = 203,205; p < 0,01). 
- Có mối tương quan có ý nghĩa thống kê 
giữa việc sử dụng găng và tuân thủ rửa tay: khi 
mang găng, NVYT ít tuân thủ rửa tay hơn (χ2 = 
4,431; p = 0,035). 
Các yếu tố khác: giới tính, chức danh, trình 
độ chuyên môn, thâm niên công tác chưa cho 
thấy mối tương quan rõ rệt với sự tuân thủ rửa 
tay của NVYT trong nghiên cứu của chúng tôi 
(p > 0,05). 
Qua khảo sát các lý do không tuân thủ rửa 
tay, lý do “quên” chiếm tỉ lệ cao nhất (35,4%); 
Lý do thứ 2 là bệnh đông, áp lực công việc, 
không có thời gian cũng là một nguyên nhân 
làm giảm sự tuân thủ rửa tay (24,6%). Điều 
này cũng phù hợp với ghi nhận của Tổ chức y 
tế thế giới về các nguyên nhân của tỉ lệ tuân 
thủ rửa tay thấp: quên, áp lực thời gian và 
công việc, mang găng, NVYT không nhận thấy 
vi khuẩn trên bàn tay của họ, sự tuân thủ rửa 
tay còn phụ thuộc vào dung dịch rửa tay Vì 
vậy, để NVYT tuân thủ rửa tay cao hơn, cần có 
nhiều biện pháp nhắc nhở tuân thủ rửa tay 
(tập huấn, giám sát, tranh ảnh cổ động, động 
viên, khen thưởng, ) và phải có sự phân bổ 
công việc hợp lý, tránh quá tải. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Từ tháng 4 đến tháng 9/2010, tỉ lệ tuân thủ 
rửa tay của BS và ĐD tại 5 khoa trọng điểm của 
BVNĐ2 là 49,6% và 60,4% và còn khoảng cách 
lớn giữa thái độ đúng về rửa tay với tuân thủ 
rửa tay của NVYT. Vì rửa tay là biện pháp cơ 
bản, rẻ tiền và hiệu quả nhất trong phòng ngừa 
NKBV nên việc rửa tay thường xuyên và đúng 
quy trình kỹ thuật được xem là bước ngoặc quan 
trọng trong công tác KSNKBV. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 9 
Để tăng cường sự tuân thủ rửa tay của 
NVYT, cần xây dựng chiến dịch tăng cường rửa 
tay, bao gồm: 
- Sự quan tâm và hỗ trợ thường xuyên của 
Ban giám đốc BV. 
- Xây dựng kế hoạch tăng cường rửa tay của 
khoa KSNK và mạng lưới 
- Tập huấn những kiến thức mới về rửa tay 
(thực hiện định kỳ bởi khoa KSNK và mạng lưới 
KSNK tại chỗ). 
- Có bảng kiểm khảo sát sự tuân thủ rửa tay 
và phản hồi cho NVYT của giám sát viên KSNK. 
- Cung cấp đầy đủ dung dịch rửa tay nhanh 
phù hợp. 
- Có biện pháp động viên, khen thưởng kịp 
thời đối với các khoa và cá nhân tuân thủ tốt rửa 
tay cũng như phê bình, xử phạt các khoa hoặc cá 
nhân còn xao lãng việc rửa tay trong chăm sóc 
và điều trị bệnh nhân. 
TỪ VIẾT TẮT 
CDC (The Centers for Disease Control and 
Prevention): Trung tâm kiểm soát và phòng 
ngừa bệnh tật của Hoa Kỳ. 
HCW (Health Care Worker): nhân viên y tế. 
WHO (World Health Organization): Tổ chức 
Y tế thế giới. 
HH (Hand Hygience): rửa tay. 
BS: bác sĩ. 
BV: bệnh viện. 
BYT: Bộ Y tế. 
CK: chuyên khoa. 
ĐD: điều dưỡng. 
KSNK: kiểm soát nhiễm khuẩn. 
NKBV: nhiễm khuẩn bệnh viện. 
NĐ2: Nhi đồng 2. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Albert RK., and CondieF (1981). Handwashing patterns in 
medical intensive care units. N. Engl. J. Med. 304:1465-1466. 
2. Black RE, DykesAC, Anderson KE , Wells JG, Sinclair SP, 
Gary GW, Jr., Hatch MH, and Gangarosa. EJ (1981). 
Handwashing to prevent diarrhea in day-care centers. Am. J. 
Epidemiol. 113: 445-451. 
3. Bộ y tế (2003) .Tài liệu hướng dẫn quy trình chống nhiễm 
khuẩn bệnh viện., tập I. Nhà xuất bản y học Hà Nội 
4. Donowitz LG. (1987). Handwashing technique in a pediatric 
intensive care unit. Am. J. Dis. Child. 141:683-685. 
5. Hà Mạnh Tuấn, Bạch Văn Cam (1994). Các điều kiện gây 
nhiễm khuẩn bệnh viện tại khoa hồi sức cấp cứu trẻ và biện 
pháp phòng ngừa. Tài liệu huấn luyện kiểm soát nhiễm trùng 
bệnh viện. Bệnh viện nhi đồng 1, 10-17 
6. Pittet D, Hugonnet S, Harbarth S, et al (2000). Effectiveness of 
a hospital-wide programme to improve compliance with 
hand hygience. The lancet 2000; 356 (9238): 1307-1312. 
7. Reybrouck, G. (1986). Handwashing and hand disinfection. J. 
Hosp. Infect. 8:5-23. 
8. Samadi AR., Huq M.I, and Ahmed QS (1983). Detection of 
rotavirus in the handwashings of attendants of children with 
diarrhea. Br. Med. J. 286:188. 
9. Schurmann W and Eggers HJ (1985). An experimental study 
on the epidemiology of enteroviruses: water and soap 
washing of poliovirus 1-contaminated hands, its effectiveness 
and kinetics. Med. Microbiol. Immunol. 174:221-236. 
10. Steer AC, and Mallison GF (1975). Handwashing practices for 
the prevention of nosocomial infections. Ann. Intern. Med. 
83:683-690. 
11. WHO (2006) Who Guidelines on Hand Hygience in Health 
Care (Advanced Draft World Alliance for Patient Safety; Who, 
Geneva. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 10 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 11 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_thai_do_va_su_tuan_thu_rua_tay_cua_bac_si_va_dieu_d.pdf