Khảo sát tác dụng tăng lực của các chế phẩm từ cây đinh lăng (Polyscias fruticosa (L.) Harms)

Đinh lăng lá nhỏ (Polyscias fruticosa (L.) Harms) thuộc họ Nhân sâm là một trong số

những dược liệu đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong vấn đề chăm sóc sức khỏe cộng

đồng. Bên cạnh những kinh nghiệm chữa trị dân gian, Đinh lăng lá nhỏ cũng đã được

nghiên cứu những thành phần hóa học như saponin, polyphenol, các acid amin, các

vitamin và một số nguyên tố vi lượng (Võ Xuân Minh và ctv., 1991) cho đến những tác dụng

dược lý tương ứng với các hợp chất tự nhiên được tìm thấy như tác dụng tăng lực, tác dụng

bảo vệ gan, tác dụng an thần, tăng trí nhớ (Nguyễn Thị Thu Hương và ctv., 2001). Từ

những cơ sở khoa học và điều kiện thuận lợi nêu trên, tác dụng tăng lực - chống nhược sức

bằng thử nghiệm chuột bơi kiệt sức theo phương pháp Brekhman cải tiến được tiến hành

khảo sát trên hai dạng chế phẩm: viên nang cứng Đinh lăng (100 mg cao chiết cồn phối

hợp rễ - lá Đinh lăng) và trà túi lọc Đinh lăng (1,5 g bột lá tẩm cao chiết nước từ lá Đinh

lăng). Trước khi tiến hành thử nghiệm dược lý, hai chế phẩm viên nang Đinh lăng và trà

Đinh lăng được đánh giá độ an toàn bằng thử nghiệm khảo sát độc tính cấp đường uống,

kết quả khảo sát cho thấy cả hai chế phẩm đều an toàn, không có độc tính cấp đường uống

với liều tối đa có thể cho uống mà không gây độc tính trên chuột (Dmax) của viên nang Đinh

lăng là 50 viên/kg và trà Đinh lăng là 55 gói/kg. Về tác dụng tăng lực, viên nang Đinh lăng

liều 1 viên/kg và 2 viên/kg, trà Đinh lăng liều 1 gói/kg và 2 gói/kg đều thể hiện tác dụng

tương đương nhau sau 7 ngày và 14 ngày dùng.

pdf 10 trang phuongnguyen 320
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tác dụng tăng lực của các chế phẩm từ cây đinh lăng (Polyscias fruticosa (L.) Harms)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tác dụng tăng lực của các chế phẩm từ cây đinh lăng (Polyscias fruticosa (L.) Harms)

Khảo sát tác dụng tăng lực của các chế phẩm từ cây đinh lăng (Polyscias fruticosa (L.) Harms)
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
110 
KHẢO SÁT TÁC DỤNG TĂNG LỰC CỦA CÁC CHẾ PHẨM 
TỪ CÂY ĐINH LĂNG (Polyscias fruticosa (L.) Harms) 
Trần Công Luận1*, Trịnh Minh Thiên2, Hà Quang Thanh2, 
Nguyễn Lĩnh Nhân2 và Nguyễn Thị Thu Hương2 
1 Trường Đại học Tây Đô 
2 Trung tâm Sâm và Dược liệu TP.HCM 
Ngày nhận: 10/11/2017 
Ngày phản biện: 05/12/2017 
Ngày duyệt đăng: 15/12/2017 
TÓM TẮT 
Đinh lăng lá nhỏ (Polyscias fruticosa (L.) Harms) thuộc họ Nhân sâm là một trong số 
những dược liệu đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong vấn đề chăm sóc sức khỏe cộng 
đồng. Bên cạnh những kinh nghiệm chữa trị dân gian, Đinh lăng lá nhỏ cũng đã được 
nghiên cứu những thành phần hóa học như saponin, polyphenol, các acid amin, các 
vitamin và một số nguyên tố vi lượng (Võ Xuân Minh và ctv., 1991) cho đến những tác dụng 
dược lý tương ứng với các hợp chất tự nhiên được tìm thấy như tác dụng tăng lực, tác dụng 
bảo vệ gan, tác dụng an thần, tăng trí nhớ (Nguyễn Thị Thu Hương và ctv., 2001). Từ 
những cơ sở khoa học và điều kiện thuận lợi nêu trên, tác dụng tăng lực - chống nhược sức 
bằng thử nghiệm chuột bơi kiệt sức theo phương pháp Brekhman cải tiến được tiến hành 
khảo sát trên hai dạng chế phẩm: viên nang cứng Đinh lăng (100 mg cao chiết cồn phối 
hợp rễ - lá Đinh lăng) và trà túi lọc Đinh lăng (1,5 g bột lá tẩm cao chiết nước từ lá Đinh 
lăng). Trước khi tiến hành thử nghiệm dược lý, hai chế phẩm viên nang Đinh lăng và trà 
Đinh lăng được đánh giá độ an toàn bằng thử nghiệm khảo sát độc tính cấp đường uống, 
kết quả khảo sát cho thấy cả hai chế phẩm đều an toàn, không có độc tính cấp đường uống 
với liều tối đa có thể cho uống mà không gây độc tính trên chuột (Dmax) của viên nang Đinh 
lăng là 50 viên/kg và trà Đinh lăng là 55 gói/kg. Về tác dụng tăng lực, viên nang Đinh lăng 
liều 1 viên/kg và 2 viên/kg, trà Đinh lăng liều 1 gói/kg và 2 gói/kg đều thể hiện tác dụng 
tương đương nhau sau 7 ngày và 14 ngày dùng. 
Từ khóa: Polyscias fruticosa (L.) Harms, Đinh lăng, viên nang, trà túi lọc, tăng lực. 
Trích dẫn: Trần Công Luận, Trịnh Minh Thiên, Hà Quang Thanh, Nguyễn Lĩnh Nhân và Nguyễn 
Thị Thu Hương, 2017. Khảo sát tác dụng tăng lực của chế phẩm từ Đinh lăng 
(Polyscias fruticosa (L.) Harms). Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế 
Trường Đại học Tây Đô. 02: 110-119. 
*PGS.TS. Trần Công Luận, Hiệu trưởng, Trường Đại học Tây Đô
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
111 
1. GIỚI THIỆU 
Trong thời đại công nghiệp hóa – hiện 
đại hóa ngày nay, khi mà nền kinh tế 
ngày càng phát triển mạnh mẽ thì một 
trong số những vấn đề đáng báo động 
hiện nay là tình trạng suy nhược cả về 
thể chất lẫn tinh thần của con người do 
rất nhiều nguyên nhân như ô nhiễm môi 
trường, thói quen sinh hoạt không hợp 
lý, sức ép từ công việc hoặc từ chính sự 
thờ ơ với sức khỏe của bản thân và 
những người xung quanh. Chính vì thế, 
một trong những xu hướng chăm sóc sức 
khỏe cộng đồng ngày nay là hướng đến 
việc sử dụng các loại dược liệu có tác 
dụng bồi bổ cơ thể, chống nhược sức 
nhưng vẫn an toàn khi sử dụng trong 
thời gian dài. Và Nhân sâm là một trong 
số những vị thuốc bổ với nhiều tác dụng 
dược lý đã được chứng minh và tin dùng 
trên toàn thế giới. Tuy nhiên, đây lại là 
một loại dược liệu quý hiếm, giá thành 
cao, điều kiện chăm trồng khắt khe và 
thời gian thu hoạch lâu. Chính vì vậy, 
Đinh lăng lá nhỏ (Polyscias fruticosa 
(L.) Harms), một trong số những dược 
liệu gần gũi với người dân Việt Nam 
thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae) có tên 
trong Dược điển Việt Nam với nhiều tác 
dụng dược lý như tăng lực - chống 
nhược sức, chống oxy hóa, bảo vệ tim 
mạch, chống trầm cảm, đã và đang rất 
được quan tâm nghiên cứu, phát triển và 
ứng dụng. 
Theo nghiên cứu của Võ Xuân Minh 
và ctv., (1991) đã tiến hành khảo sát 
hàm lượng saponin toàn phần trong các 
bộ phận của cây Đinh lăng: Rễ (0,49%), 
vỏ rễ (1,00%), lõi rễ (0,11%) và lá 
(0,38%). Bên cạnh đó, trong Đinh lăng 
còn có các thành phần như alkaloid, 
glycosid, các vitamin B1, B2, B6, 
vitamin C, phytosterol và 20 loại acid 
amin. Năm 1998, Võ Duy Huấn và cộng 
sự đã phân lập được 8 saponin mới từ lá 
và rễ Đinh lăng được đặt tên là 
polysciosid A-H và 3 saponin đã biết từ 
trước: Ladyginosid A, zingibrosid-R1 và 
compound 6. Trong đó 4 saponin: 
Ladyginosid A, compound 6, 
polysciosid A và D có trong lá và rễ. 
Các saponin còn lại chỉ hiện diện trong 
lá như zingibrosid-R1, polysciosid G và 
H hoặc ở trong rễ như polysciosid B, C, 
E và F (Vo Duy Huan et al., 1998). 
Những nghiên cứu khoa học trước đây 
về Đinh lăng tại Trung tâm Sâm và 
Dược liệu TP.HCM cho thấy cao Đinh 
lăng ở khoảng liều nhỏ hơn 180 mg/kg 
có tác dụng làm gia tăng vận động tự 
nhiên và thể hiện tác dụng tăng lực – 
chống nhược sức trên hai thực nghiệm 
chuột bơi kiệt sức của Brekhman và 
chuột leo dây của Cabureb. Cao phối 
hợp rễ và lá Đinh lăng làm gia tăng thể 
trọng của súc vật thử nghiệm, không thể 
hiện những tác dụng phụ gây ảnh hưởng 
đến các chức năng sinh lý của chuột như 
thành phần cấu tạo của hệ tạo máu, chỉ 
số protein toàn phần hoặc không xuất 
hiện những thay đổi bất thường trong 
cấu trúc gan, tim và thận (Nguyễn Thị 
Thu Hương và ctv., 2001; Nguyen Thi 
Thu Huong, 2002). Với tác dụng tốt như 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
112 
đã được nghiên cứu, tuy nhiên thực 
phẩm chức năng được sản xuất từ cây 
Đinh lăng lá nhỏ vẫn còn rất hạn chế. 
Từ những nền tảng y học dân tộc, 
những nghiên cứu khoa học toàn diện và 
đặc biệt là một nguồn dược liệu Đinh 
lăng lá nhỏ dồi dào đã được triển khai 
trồng tại vùng Bảy Núi thuộc huyện Tri 
Tôn, Tịnh Biên, tỉnh An Giang với sản 
lượng khoảng 100 tấn, đề tài hướng đến 
mục tiêu nghiên cứu và sản xuất các 
thực phẩm chức năng bào chế từ Đinh 
lăng lá nhỏ có tác dụng tăng cường sức 
lực, bồi bổ cơ thể. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Vật liệu 
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 
Viên nang cứng Đinh lăng được bào 
chế từ cao chiết cồn phối hợp lá và rễ 
Đinh lăng bằng phương pháp xát hạt ướt 
với hàm lượng cao chiết trong một viên 
nang là 100 mg. Và, trà túi lọc Đinh lăng 
được bào chế từ cao chiết nước lá Đinh 
lăng bằng phương pháp chiết và tẩm lại 
trên bột dược liệu với khối lượng 1,5 g/ 
túi. Đây là những dạng cao chiết bán 
thành phẩm đã từng được nghiên cứu 
chiết xuất và đánh giá tác dụng dược lý 
trong các công trình khoa học trước đây; 
đồng thời, những khảo sát, đánh giá tiền 
sản xuất trên cao bán thành phẩm cũng 
đã được thực hiện nhằm mục đích tạo ra 
các dạng bào chế với liều dùng thích 
hợp, an toàn và hiệu quả. 
2.1.2. Động vật thử nghiệm 
Chuột nhắt trắng đực (chủng Swiss 
albino, 5-6 tuần tuổi, trọng lượng trung 
bình 25 g ± 2 g) được cung cấp bởi Viện 
Vắc xin và Sinh phẩm Y tế Nha Trang, 
được chăm sóc trong điều kiện ổn định 
về chế độ dinh dưỡng trong vòng 7 ngày 
trước khi tiến hành thực nghiệm. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Phương pháp khảo sát tác 
dụng độc tính cấp đường uống 
Nghiên cứu độc tính cấp của mẫu thử 
trên động vật thí nghiệm, chủ yếu là xác 
định liều chết trung bình nếu có (liều 
làm chết 50% số con vật thí nghiệm, gọi 
là LD50: lethal dose 50%) trong những 
điều kiện nhất định. Biết LD50 mới xác 
định được chỉ số điều trị TI (Therapeutic 
index) là một thông số rất quan trọng để 
quyết định về việc đưa thuốc vào dùng 
trên người và là một trong những cơ sở 
để suy ra liều để khảo sát tác dụng dược 
lý trên động vật thử nghiệm và suy ra 
liều điều trị ở người, thường là khoảng 
1/10 LD50 hoặc nhỏ hơn. 
 Chỉ số điều trị TI là tỉ số giữa liều 
chết trung bình LD50 và liều hữu hiệu 
trung bình ED50. Nếu chỉ số điều trị càng 
lớn thì phạm vi điều trị càng lớn và độc 
tính càng thấp 
TI = 
50
50
ED
LD
 Điều kiện: TI ≥ 10 
Chuột nhắt chia thành các lô tương tự, 
những chuột ở cùng một lô sẽ nhận cùng 
một liều chất khảo sát. Thể tích cho 
chuột uống là 0,1 ml/10 g thể trọng 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
113 
chuột. Sự đánh giá dựa vào phản ứng 
toàn ứng hay bất ứng (sống hay chết) 
nhận thấy ở mỗi chuột trong nhóm sau 
72 giờ. Chuột được tiếp tục theo dõi sau 
14 ngày uống để ghi nhận những triệu 
chứng bất thường (nếu có). 
Có 3 trường hợp có thể xảy ra: 
- Trường hợp 1: Sau khi cho chuột uống 
mẫu thử, số chuột trong lô thử nghiệm 
vẫn bảo toàn, xác định liều cao nhất có 
thể bơm qua kim mà không làm chết 
chuột. Liều này được ký hiệu là Dmax và 
liều tương đối an toàn DS dùng trong các 
thực nghiệm dược lý có thể bằng 1/5 
Dmax hoặc lớn hơn 1/5 Dmax. 
- Trường hợp 2: Sau khi cho chuột uống 
mẫu thử, tỉ lệ tử vong là 100% thì đây là 
liều chết tuyệt đối – LD100. Tính toán và 
gây lô thử nghiệm để tiếp tục xác định 
được liều không làm chết con vật nào – 
LD0. Từ đó, suy ra liều LD50 được tính 
theo công thức Behrens-Karber. 
- Trường hợp 3: Sau khi cho uống mẫu 
thử, phân xuất tử vong thấp hơn 100%, 
không xác định được liều gây chết tuyệt 
đối. Đối với trường hợp này, không thể 
suy ra liều LD50, nhưng có thể xác định 
được liều tối đa không gây chết chuột, 
gọi là liều dưới liều chết – LD0. Liều 
tương đối an toàn DS dùng cho thực 
nghiệm dược lý có giá trị bằng 1/5 hoặc 
1/10 LD0 (Đỗ Trung Đàm, 1996). 
- Liều tương đối an toàn áp dụng trên 
người 
Liều tương đối an toàn trên người được 
ngoại suy từ liều trên chuột nhắt trắng 
theo cách tính như sau: Liều thử nghiệm 
dược lý trên chuột nhắt trắng x 0,085 (= 
hệ số ngoại suy liều có hiệu quả tương 
đương giữa chuột nhắt trắng và người) x 
thể trọng trung bình ở người trưởng 
thành, khoảng 50-60 kg (Viện Dược 
liệu, 2006). 
2.2.2. Phương pháp khảo sát tác 
dụng tăng lực bằng thực nghiệm 
Brekhman có cải tiến 
Nguyên tắc 
Tác động tăng lực, gia tăng sức bền, 
chống nhược sức là một trong những 
tiêu chuẩn để đánh giá tác dụng bổ khí, 
trị suy nhược cơ thể và chống stress (tác 
dụng sinh thích nghi-adaptogen) của các 
cây thuốc thuộc họ Nhân sâm 
(Araliaceae) hay các cây thuốc có tác 
dụng bổ tương tự như Nhân sâm. 
Nghiệm pháp chuột bơi kiệt sức của 
Brekhman (Swimming test, cải tiến để 
áp dụng trên chuột nhắt trắng) thường 
được chọn lựa để khảo sát tác dụng tăng 
lực của các chế phẩm từ dược liệu 
(Brekhman II, Dardymov IV, 1969; 
Viện Dược liệu, 2006) 
 Phương pháp chuột bơi thuận tiện, 
đơn giản giúp đánh giá tình trạng chống 
mệt mỏi, phục hồi sức lực của động vật 
thử nghiệm sau liều uống duy nhất của 
mẫu thử hay đánh giá tác dụng tăng lực 
sau 7-14 liều uống liên tục của mẫu thử. 
 Tiến hành thí nghiệm 
Chuột được mang vào đuôi gia trọng 
bằng 5% thể trọng, cho chuột bơi trong 
thùng nước có dung tích 20 lít, đường 
kính 30 cm, chiều cao cột nước 25 cm, 
nhiệt độ 29 1oC. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
114 
Chuột được cho bơi lần 1, thời gian 
bơi tính từ khi chuột được thả vào thùng 
nước, bơi đến khi chìm khỏi mặt nước 
20 giây và không trồi lên được nữa, lúc 
đó vớt chuột ra lau khô. Ghi nhận thời 
gian bơi lần 1 (T0). Cho chuột nghỉ 5 
phút, chia ngẫu nhiên các lô thí nghiệm 
(mỗi lô 10 con) như sau: 
Lô đối chứng 1: cho uống nước cất. 
Lô thử 1: cho uống viên nang Đinh lăng 
liều 1 viên/kg 
Lô thử 2: cho uống viên nang Đinh lăng 
liều 2 viên/ kg 
Lô đối chứng 2: cho uống nước cất 
Lô thử 3: cho uống trà Đinh lăng liều 
1gói/kg. 
Lô thử 4: cho uống trà Đinh lăng liều 2 
gói/kg. 
Một giờ sau khi cho chuột uống mẫu 
thử nghiệm, ghi nhận thời gian bơi lần 2 
(T60 phút). Chuột cho uống nước cất, viên 
nang Đinh lăng hoặc trà Đinh lăng liên 
tục (mỗi ngày vào một giờ nhất định) 
đến ngày thứ 7 và ngày thứ 14 tiến hành 
cho chuột bơi lần 3 (T7 ngày) và lần 4 
(T14ngày). Thể tích cho chuột uống là 0,1 
ml/ 10 g thể trọng chuột. 
Chuẩn bị mẫu thử 
Viên nang Đinh lăng: bột thuốc trong 
viên nang được phân tán vào nước cất 
theo liều thích hợp (1 – 2 viên pha thành 
10 ml). Khuấy đều trước khi cho chuột 
uống. Trà túi lọc Đinh lăng: túi trà được 
ngâm trong nước nóng khoảng 60 oC 
trong vòng 15 phút theo liều thích hợp 
(1 – 2 gói pha thành 10 ml). Để nguội 
trước khi cho chuột uống. Mẫu thử 
được pha cho mỗi ngày uống, không trữ 
qua đêm và dùng lại. 
Đánh giá kết quả 
Đánh giá tác dụng tăng lực bằng so 
sánh tỉ lệ phần trăm của thời gian bơi 
giữa các lô thử so với lô đối chứng sau 
khi dùng liều uống duy nhất, sau 7 liều 
uống và sau 14 liều uống. Trong đó 
không tính theo thời gian bơi tuyệt đối 
của chuột mà tính tỷ lệ % thời gian bơi 
của chuột sau khi uống viên nang Đinh 
lănghoặc trà Đinh lăng (lô thử) và nước 
cất (lô chứng) (T60 phút, T7 ngày, T14 ngày) 
gọi chung là Tt so với thời gian bơi lần 1 
(T0) theo công thức: 
X% = (Tt/T0) × 100 
T60 phút / T0 (%) của lô thử lớn hơn T60 phút 
/ T0 (%) của lô chứng: viên Đinh lăng 
hoặc trà Đinh lăng thử nghiệm có tác 
động tăng lực tức thời (Tác dụng hồi 
phục sức). 
T7 ngày / T0 (%) của lô uống viên nang 
Đinh lăng hoặc trà Đinh lăng lớn hơn T7 
ngày / T0 (%) của lô chứng: viên nang 
Đinh lăng hoặc trà Đinh lăng thử nghiệm 
có tác động tăng lực sau 7 ngày. 
T14 ngày / T0 (%) của lô uống viên nang 
Đinh lăng hoặc trà Đinh lăng lớn hơn 
T14 ngày / T0 (%) của lô chứng: viên nang 
Đinh lăng hoặc trà Đinh lăng thử nghiệm 
có tác động tăng lực sau 14 ngày. 
2.2.3. Phân tích số liệu 
 Số liệu thu thập được biểu thị bằng trị 
số trung bình: M ± SEM (Standard Error 
of the Mean – sai số chuẩn của giá trị 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
115 
trung bình) và xử lý thống kê dựa vào 
phép kiểm One–Way ANOVA và t test 
hay Dunnett test (phần mềm SigmaStat-
3.5). Kết quả thử nghiệm đạt ý nghĩa 
thống kê với độ tin cậy 95% khi P < 0,05 
so với lô đối chứng. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Kết quả độc tính cấp đường 
uống 
3.1.1. Viên nang Đinh lăng 
Với liều 50 viên/ kg thể trọng chuột là 
liều cao nhất có thể bơm qua kim mà 
không làm chết chuột, còn gọi là Dmax, 
có nghĩa là, viên nang Đinh lăng không 
có độc tính cấp trên đường uống, an toàn 
khi sử dụng một lần duy nhất với liều 
đậm đặc nhất. 
Bảng 1. Kết quả độc tính cấp đường uống của viên nang Đinh lăng 
Lần thử nghiệm I II 
Số viên thử nghiệm (viên) 10 10 
Tổng thể tích cho uống (ml) 4,1 4,0 
Liều cho uống (viên/kg) 48,78 50,00 
Số chuột thử nghiệm 5 5 
Số chuột tử vong sau 72 giờ 0 0 
Số chuột tử vong sau 14 ngày 0 0 
Dmax (viên/kg) 50 
Theo dõi chuột thử nghiệm trong 
vòng 72 giờ sau khi cho uống, kết quả 
ghi nhận được là chuột không có biểu 
hiện hành vi bất thường, và vẫn sinh 
hoạt bình thường. Sau 14 ngày tiếp tục 
theo dõi, thể trạng chuột vẫn phát triển 
bình thường, hành vi sinh lý không có 
biểu hiện bất thường. 
3.1.2. Trà Đinh lăng 
Với liều dùng 55 gói/ kg thể trọng 
chuột là liều cao nhất có thể bơm qua 
kim mà không làm chết chuột, còn gọi là 
Dmax, có nghĩa là, trà Đinh lăng an toàn, 
không có độc tính cấp trên đường uống. 
Bảng 2. Kết quả độc tính cấp đường uống của trà Đinh lăng 
Lần thử nghiệm I II 
Số gói trà thử nghiệm (gói) 10 10 
Tổng thể tích cho uống (ml) 3,65 3,6 
Liều cho uống (gói /kg) 54,79 55,56 
Số chuột thử nghiệm 5 5 
Số chuột tử vong sau 72 giờ 0 0 
Số chuột tử vong sau 14 ngày 0 0 
Dmax (gói/kg) 55 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
116 
Qua theo dõi chuột thử nghiệm trong 
vòng 72 giờ sau khi cho uống, cho thấy 
tỷ lệ sống sót là 100%, không nhận thấy 
dấu hiệu bất thường về hành vi so với 
trước khi dùng mẫu thử nghiệm. Sau 14 
ngày tiếp tục theo dõi, thể trạng chuột 
vẫn phát triển bình thường, hành vi sinh 
lý không có biểu hiện bất thường. 
3.2. Kết quả về tác dụng tăng lực – 
chống nhược sức 
Kết quả trình bày ở Bảng 3 cho thấy 
sau liều uống duy nhất, cả bốn lô thử 
nghiệm cho uống viên nang Đinh lăng 
liều 1 viên/kg, liều 2 viên/kg và trà Đinh 
lăng liều 1 gói/kg, 2 gói/kg có thời gian 
bơi T60 phút không khác biệt đạt có ý 
nghĩa thống kê so với lô đối chứng. 
Sau 7 ngày thử nghiệm, cả bốn lô cho 
uống viên nang Đinh lăng liều 1 viên/kg, 
liều 2 viên/kg và trà Đinh lăng liều 1 
gói/kg, 2 gói/kg có thời gian bơi tăng so 
với lô đối chứng và so với thời điểm bơi 
lần 1 (T0), khác biệt có ý nghĩa thống kê; 
đồng thời, giữa các lô thử nghiệm không 
có sự khác biệt đạt ý nghĩa thống kê. 
Sau 14 ngày thử nghiệm, thời gian 
bơi ở cả bốn lô cho uống viên nang Đinh 
lăng liều 1 viên/kg, liều 2 viên/kg và trà 
Đinh lăng liều 1 gói/kg, 2 gói/kg có thời 
gian bơi tăng đạt ý nghĩa thống kê so với 
lô chứngvà so với thời điểm bơi lần 1 
(T0); đồng thời, giữa các nghiệm thức 
thử nghiệm không có sự khác biệt đạt ý 
nghĩa thống kê. 
Bảng 3. Thời gian bơi của chuột (phút) tại các thời điểm ở các lô thử nghiệm 
Lô 
(n = 10) 
Liều 
(gói/kg) 
T0 T60 phút T7 ngày T14 ngày 
Đối chứng - 33,20 ±3,49 21,80 ± 3,14 27,40 ± 4,30 24,50 ± 4,43 
Viên nang 
Đinh lăng 
1 30,30±3,14 21,30±3,16 116,00 ± 26,15*# 104,22± 24,44*# 
2 33,70 ± 3,92 26,80 ± 7,83 88,22± 23,37*# 92,67± 27,67*# 
Đối chứng - 31,20 ± 2,68 22,30 ± 3,02 25,10 ± 1,40 27,50 ± 2,00 
Trà Đinh 
lăng 
1 30,30 ± 3,67 28,20 ± 5,66 91,60 ± 13,72*# 90,8 ± 17,27*# 
2 33,60 ± 2,65 21,20 ± 3,28 85,20 ± 14,60*# 90,10 ± 14,18*# 
*: p < 0,05 so với lô đối chứng trong cùng thời điểm 
#: p <0,05 so với thời điểm bơi lần 1(T0) trong cùng nghiệm thức thử nghiệm 
Số liệu được ghi nhận trên là cơ sở 
cho việc tính toán tỷ lệ thời gian bơi của 
chuột ở từng nghiệm thức. Kết quả trình 
bày ở Bảng 4 giúp đánh giá về tác dụng 
tăng lực – chống nhược sức của các mẫu 
thử nghiệm như sau: 
Sau liều uống duy nhất, cả bốn lô thử 
nghiệm cho uống viên nang Đinh lăng 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
117 
liều 1 viên/kg, liều 2 viên/kg và trà Đinh 
lăng liều 1 gói/kg, 2 gói/kg có ti lệ thời 
gian bơi T60 phút/T0 không khác biệt có ý 
nghĩa thống kê so với lô đối chứng. Do 
đó, cả bốn mẫu thử là viên nang Đinh 
lăng liều 1 – 2 viên/kg và trà Đinh lăng 
liều 1 – 2 gói/kg không thể hiện tác dụng 
hồi phục sức. 
Kết quả sau 7 ngày hay 14 ngày thử 
nghiệm, cả bốn lô thử nghiệm cho uống 
viên nang Đinh lăng liều 1 viên/kg, liều 
2 viên/kg và trà Đinh lăng liều 1 gói/kg, 
2 gói/kg có ti lệ thời gian bơi T7 ngày/T0 
tăng đạt ý nghĩa thống kê so với đối 
chứng. Như vậy, cả hai dạng chế phẩm 
từ Đinh lăng trên các liều thử nghiệm 
khác nhau (viên nang Đinh lăng liều 1-2 
viên/kg và trà Đinh lăng liều 1-2 gói/kg) 
đều thể hiện tác dụng tăng lực sau 7 
ngày hay 14 ngày uống. Đồng thời, thời 
điểm sau 7 ngày hay 14 ngày cho uống 
không khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
tỉ lệ % thời gian bơi. Như vậy, cả hai 
loại chế phẩm thử nghiệm đều có tác 
dụng tăng lực tương đương nhau ở các 
liều 1-2 viên/kg và 1-2 gói/kg trong thời 
gian sau 7 ngày và 14 ngày cho uống. 
Bảng 4. Tỉ lệ % thời gian bơi ở các thời điểm T60 phút, T7 ngày, T14 ngày so với T0 ở các lô thử 
nghiệm. 
Lô 
(n = 10) 
Liều 
(gói/kg) 
T60 phút/T0 T7 ngày/T0 T14 ngày/T0 
Đối chứng - 69,44 ± 9,88 88,76 ± 11,80 77,88 ± 12,53 
Viên nang 
Đinh lăng 
1 89,74 ± 23,14 468,00 ± 130,30* 411,52± 118,20* 
2 76,37 ± 17,60 297,62± 94,75* 322,73± 115,23* 
Chứng - 74,08 ± 9,08 87,20 ± 10,08 100,18 ± 8,06 
Trà Đinh 
lăng 
1 100,93 ± 18,79 314,82 ± 46,06* 317,68 ± 64,01* 
2 65,23 ± 12,40 278,39 ± 70,74* 289,36 ± 63,19* 
*: p < 0,05 so với lô đối chứng 
Từ kết quả thực nghiệm trên cho thấy 
cả hai dạng thực phẩm chức năng từ Đinh 
lăng với liều sử dụng nhất định (viên nang 
Đinh lăng liều 1-2 viên/kg và trà Đinh 
lăng liều 1-2 gói/kg) thể hiện tác dụng 
tăng lực – chống nhược sức phù hợp với 
nghiên cứu khoa học về tác dụng tăng lực 
trên thực nghiệm chuột bơi kiệt sức của 
Brekman theo kết quả nghiên cứu của Ngô 
Ứng Long (1977) và Nguyễn Thị Thu 
Hương và ctv., (2001). Theo kết quả 
nghiên cứu trước đây, các hoạt chất tự 
nhiên thuộc nhóm saponin (đặc biệt là 
saponin trong các dược liệu họ 
Araliaceae) thường thể hiện tác dụng tăng 
lực – chống nhược sức, đồng thời, các 
vitamin B1, B2, B6 và vitamin C cũng 
như các acid amin có tác dụng tăng lực, 
bồi bổ cơ thể. Nghiên cứu của Ngô Ứng 
Long, thuộc Viện Y học Quân sự (1986) 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
118 
đã kết luận là rễ và lá Đinh lăng chứa 
saponin, alkaloid, acid hữu cơ, đường, 
tinh dầu, các vitamin, acid amin và 
nhiều nguyên tố vi lượng. Thành phần 
hóa học của Đinh lăng là cơ sở cho việc 
lý giải về tác dụng tăng lực - chống 
nhược sức của các thực phẩm chức năng 
từ Đinh lăng. 
4. KẾT LUẬN 
Hai loại chế phẩm là viên nang Đinh 
lăng bào chế từ cao cồn phối hợp rễ - lá 
Đinh lăng và trà túi lọc Đinh lăng bào 
chế từ cao nước lá Đinh lăng đều an 
toàn, không có biểu hiện gây độc tính 
cấp đường uống với một liều duy nhất 
đậm đặc nhất có thể qua kim cho uống. 
Viên nang Đinh lăng có Dmax là 50 
viên/kg và trà Đinh lăng có Dmax là 55 
gói/kg. 
Tất cả các liều thử nghiệm 1-2 
viên/kg đối với viên nang Đinh lăng và 
1-2 gói/kg đối với trà Đinh lăng đều thể 
hiện tác dụng tăng lực – chống nhược 
sức tương đương nhau sau 7 ngày và 14 
ngày dùng. Như vậy, hai loại sản phẩm 
này có thể được ứng dụng vào vấn đề 
chăm sóc sức khỏe cộng đồng về mặt 
tăng cường thế lực, chống nhược sức. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Brekhman II, Dardymov IV, 1969. 
"Pharmacological investigation of 
glycosides from Ginseng and 
Eleutherococcus", Lioydia. 32(1), 46 – 
51. 
2. Đỗ Trung Đàm, 1996. Phương pháp 
xác định độc tính cấp của thuốc, Nhà xuất 
bản Y học, Hà Nội, 7-24, 50-57. 
3. Ngô Ứng Long, 1977. Tác dụng 
tăng lực và bổ chung của Đinh lăng, 
Tóm tắt công trình Đinh lăng 1964 – 
1974. Nội san Đại học Quân Y, 41-45. 
4. Ngô Ứng Long, 1986. Cây Đinh 
lăng, NXB Nông nghiệp. 
5. Nguyễn Thị Thu Hương, Lương 
Kim Bích, Nguyễn Thới Nhâm, 2001. 
Tác dụng Dược lý của Cao toàn phần 
chiết xuất từ rễ và lá Đinh lăng 
(Polyscias fruticosa Harms. Araliaceae), 
Công trình nghiên cứu Khoa học 1987-
2000, Chủ biên: Viện Dược liệu, Nhà 
Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 241-
244. 
6. Nguyen Thi Thu Huong, 2002. 
Adaptogenic Effect of Vietnamese 
Medicinal Plants, Proceeding of 2002 
International Symposium of Traditional 
Korean Medicine, 116-130. 
7. Võ Xuân Minh, 1991. Góp phần 
tìm hiểu về thành phần hóa học và dạng 
bào chế của cây Đinh lăng, Tạp chí 
Dược học, 3, 19-21. 
8. Viện Dược liệu, 2006. Phương 
pháp nghiên cứu tác dụng dược lý của 
thuốc từ dược thảo, NXB Khoa học và 
Kỹ thuật, 295-296, 377-387. 
9. Vo Duy Huan, 1998. Study on the 
Saponin Composition of Vietnamese 
Medicinal Plants: Polyscias fruticosa 
and Achyranthes aspera, Master thesis – 
Institute of Pharmaceutical Sciences, 
Hiroshima University School of 
Medicine, 2 - 24. 
10. Vo Duy Huan, Yamamura S., 
Ohtani K., Kasai R., Yamasaki K., 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 
119 
Nguyen Thoi Nham, Hoang Minh Chau, 
1998. Oleane saponins from Polyscias 
fruticosa, Phytochemistry, 47 (3), 451-
457. 
STUDYING ON ANTIFATIGUE EFFECT OF PRODUCTS FROM 
POLYSCIAS FRUTICOSA (L.) HARMS 
Tran Cong Luan1, Trinh Minh Thien2, Ha Quang Thanh2, 
Nguyen Linh Nhan2 and Nguyen Thi Thu Huong2 
1Tay Do University 
2Research Center of Ginseng and Medicinal Materials 
ABSTRACT 
Polyscias fruticosa (L.) Harms of Araliaceae is one of the medicinal herbs that have been 
popular application in the public health care. Besides the traditional use, Polyscias 
fruticosa (L.) Harms has been studied comprehensively both in chemical components such 
as saponins, polyphenols, amino acids, vitamins and some trace elements (Vo Xuan Minh et 
al., 1991), and the pharmacological effects like antifatigue, protect liver by antioxidant 
way, sedative effect, memory enhancement (Nguyen Thi Thu Huong et al., 2001). Based on 
the scientific basic data, the antifatigue effect of this plant was investigated by using the 
improved Brekhman mouse swimming test on two products: Polyscias hard capsule (100 
mg ethanol root – leaf extract) and Polyscias filter bag tea (1.5 g leaf powder). Before the 
pharmacological study, Polycias capsules and Polycias tea were tested the safe level by 
using an acute toxicity test. Results showed that both products were safe and had no 
occurrence of acute toxicity with Dmax dose in the Polycias capsules 50 capsules/kg and 
Polycias tea 55 packages / kg. Results of this study also showed that 1 capsule/kg and 2 
capsules/kg doses of Polyscias capsules, and Polyscias tea in doses of 1 bag /kg and 2 bags 
/kg showed similar effect of antifatigue after 7 days and 14 days used. 
Key words: Polyscias fruticosa (L.) Harms, capsule, filter bags tea, antifatigue. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_tac_dung_tang_luc_cua_cac_che_pham_tu_cay_dinh_lang.pdf