Khảo sát quan điểm và trải nghiệm của người dân về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm tại một số xã, phường thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế

Chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm ngày càng trở thành mục tiêu quan trọng của hệ thống CSSK.

Nhiều nghiên cứu cho thấy quan điểm và trải nghiệm của người dân về chăm sóc lấy người bệnh làm trung

tâm liên quan chặt chẽ với các chỉ số lâm sàng và kết quả sức khỏe dài hạn, được sử dụng như một thang đo

cho các nỗ lực cải tiến hệ thống y tế. Mục tiêu nghiên cứu: 1) Khảo sát quan điểm, trải nghiệm của người dân

về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm; 2) Xác định mối liên quan giữa quan điểm trải nghiệm về chăm

sóc lấy người bệnh làm trung tâm với tình hình sử dụng dịch vụ y tế. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu

mô tả cắt ngang tiến hành trên 313 người dân ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Tiến hành khảo sát 4 thành tố chính

của chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm: chia sẻ thông tin, mối quan hệ với bác sĩ/nhân viên y tế khác,

ra quyết định lâm sàng, khuyến khích người bệnh tự chăm sóc. Sử dụng test ANOVA để phân tích mối liên

quan giữa thực trạng chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm với tình trạng sức khỏe và việc sử dụng dịch

vụ CSSK của người dân (p < 0,05).="" kết="" quả:="" tỷ="" lệ="" đạt="" chăm="" sóc="" hướng="" người="" bệnh="" tốt="" (≥="" 3,75="" điểm)="" là="">

(Mean=3,58 (0,57)). Người dân sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến trạm y tế có trải nghiệm về chăm sóc lấy người

bệnh làm trung tâm cao hơn so với tuyến huyện, tỉnh và trung ương (p < 0,005).="" thành="" tố="" khuyến="" khích="">

bệnh tự chăm sóc và mối quan hệ với bác sĩ/NVYT được đánh giá là khá thấp. Có mối liên quan có ý nghĩa

thống kê giữa chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm với cơ sở KCB ban đầu, chất lượng cuộc sống, số lần

khám sức khỏe định kỳ, mức độ tích cực tham gia vào quá trình chăm sóc (p < 0,05).="" kết="" luận:="" kết="" quả="">

thấy quan điểm, trải nghiệm của người dân về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm còn chưa cao. Cần chú

trọng hơn nữa việc nâng cao các kỹ năng giao tiếp, tham vấn, khuyến khích người bệnh tự chăm sóc và sự

phối hợp giữa các nhân viên y tế trong CSSK cho người dân.

pdf 8 trang phuongnguyen 480
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát quan điểm và trải nghiệm của người dân về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm tại một số xã, phường thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát quan điểm và trải nghiệm của người dân về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm tại một số xã, phường thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế

Khảo sát quan điểm và trải nghiệm của người dân về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm tại một số xã, phường thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế
85
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Địa chỉ liên hệ: Ngô Thị Mộng Tuyền, email: [email protected] DOI: 10.34071/jmp.2020.2.14
Ngày nhận bài: 15/3/2020; Ngày đồng ý đăng: 27/4/2020
Khảo sát quan điểm và trải nghiệm của người dân về chăm sóc lấy người 
bệnh làm trung tâm tại một số xã, phường thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế
Ngô Thị Mộng Tuyền, Lê Hồ Thị Quỳnh Anh, Phạm Thị Trâm, 
Nguyễn Thị Phương Anh, Nguyễn Minh Tâm
Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm ngày càng trở thành mục tiêu quan trọng của hệ thống CSSK. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy quan điểm và trải nghiệm của người dân về chăm sóc lấy người bệnh làm trung 
tâm liên quan chặt chẽ với các chỉ số lâm sàng và kết quả sức khỏe dài hạn, được sử dụng như một thang đo 
cho các nỗ lực cải tiến hệ thống y tế. Mục tiêu nghiên cứu: 1) Khảo sát quan điểm, trải nghiệm của người dân 
về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm; 2) Xác định mối liên quan giữa quan điểm trải nghiệm về chăm 
sóc lấy người bệnh làm trung tâm với tình hình sử dụng dịch vụ y tế. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu 
mô tả cắt ngang tiến hành trên 313 người dân ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Tiến hành khảo sát 4 thành tố chính 
của chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm: chia sẻ thông tin, mối quan hệ với bác sĩ/nhân viên y tế khác, 
ra quyết định lâm sàng, khuyến khích người bệnh tự chăm sóc. Sử dụng test ANOVA để phân tích mối liên 
quan giữa thực trạng chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm với tình trạng sức khỏe và việc sử dụng dịch 
vụ CSSK của người dân (p < 0,05). Kết quả: Tỷ lệ đạt chăm sóc hướng người bệnh tốt (≥ 3,75 điểm) là 43,1% 
(Mean=3,58 (0,57)). Người dân sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến trạm y tế có trải nghiệm về chăm sóc lấy người 
bệnh làm trung tâm cao hơn so với tuyến huyện, tỉnh và trung ương (p < 0,005). Thành tố khuyến khích người 
bệnh tự chăm sóc và mối quan hệ với bác sĩ/NVYT được đánh giá là khá thấp. Có mối liên quan có ý nghĩa 
thống kê giữa chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm với cơ sở KCB ban đầu, chất lượng cuộc sống, số lần 
khám sức khỏe định kỳ, mức độ tích cực tham gia vào quá trình chăm sóc (p < 0,05). Kết luận: Kết quả cho 
thấy quan điểm, trải nghiệm của người dân về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm còn chưa cao. Cần chú 
trọng hơn nữa việc nâng cao các kỹ năng giao tiếp, tham vấn, khuyến khích người bệnh tự chăm sóc và sự 
phối hợp giữa các nhân viên y tế trong CSSK cho người dân.
Từ khóa: chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm, chăm sóc ban đầu, tình hình sử dụng dịch vụ y tế.
Abstract
Patients’ perspectives and experiences of patient-centered care in 
some communes of Thua Thien Hue province
Ngo Thi Mong Tuyen, Le Ho Thi Quynh Anh, Pham Thi Tram, 
Nguyen Thi Phuong Anh, Nguyen Minh Tam
Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Patient-centered care is widely acknowledged as an important goal in healthcare delivery. Research 
has demonstrated that patient perceptions of patient-centred care can be linked to clinical and long-term 
outcomes in addition to being a useful metric for quality improvement efforts. Objectives: 1) To identify 
patients’ perspectives and experiences of patient-centerd care in some communes in Thua Thien Hue 
province; 2) To determine the association between the patients’ perspectives, experiences on patient-
centered care and utilization of the health services. Methods: A cross sectional descriptive study was 
conducted in 313 patients living in Thua Thien Hue province. A structured questionnaire was use to investigate 
4 main domains of patient-centered care: Information and Education, Relationships with doctors and other 
health professionals, making decisions, motivate patients about self-management. We used test ANOVA to 
analyze the association between patient-centered care and health care utilization among participants (p < 
0.05). Results: The percentage of good patient-centered care (≥ 3.75 points) was 43.1% (Mean = 3.58 (0.57)). 
Patients using health services at the commune health centers had a higher experience in patient-centered 
care compared to district, province and central hospitals (p < 0.005). Domains “Encourage patients to take care 
of themselves” and “Relationship factor with doctors” were evaluated low. There were statistically significant 
associations between patient-centered care and primary health care facilities, quality of life utilization of 
86
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
periodic health checkup, and patient activation in health care (p <0.05). Conclusion: Out study illustrates 
that patients’ perspectives and experiences of patient-centered care are still low. There is a need to improve 
communication and counseling skills of health care providers and increase patient motivation for self-care.
Keywords: patient-centered care, primary care, health care utilization.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã 
hội, nhu cầu chăm sóc sức khỏe (CSSK) của người 
dân ngày càng tăng cao, người dân có xu hướng sử 
dụng những dịch vụ chăm sóc toàn diện, liên tục 
và chất lượng cao. Điều này đòi hỏi ngành y tế cần 
có những nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ khám 
chữa bệnh (KCB) cũng như các chiến lược cải thiện 
sự hài lòng của người dân đối với các dịch vụ chăm 
sóc sức khỏe. Bên cạnh các chỉ số sức khỏe, mức 
độ hài lòng và đánh giá của người dân là một trong 
những thước đo chất lượng dịch vụ [6],[8]. Mặc dù 
vậy, các nghiên cứu cũng cho thấy để đánh giá chất 
lượng dịch vụ y tế một cách hiệu quả và khách quan 
nhất thì khái niệm sự hài lòng của người bệnh nên 
được mở rộng hơn so với truyền thống và cần nắm 
bắt các khía cạnh khác theo hướng chăm sóc lấy 
người bệnh làm trung tâm [1],[2].
Chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm ngày 
nay được xem như là một giá trị cốt lõi của chuyên 
ngành Y học gia đình chú trọng đến trải nghiệm của 
người bệnh, giá trị, nhu cầu và sở thích của người 
bệnh khi lập kế hoạch chăm sóc cũng như đảm bảo 
cung cấp các dịch vụ chăm sóc liên tục và phối hợp 
[8],[9]. Khái niệm chăm sóc lấy người bệnh làm trung 
tâm thường được định nghĩa với các khía cạnh: (1) 
tôn trọng các giá trị, sở thích và nhu cầu chăm sóc 
của người bệnh, (2) cung cấp thông tin và giáo dục 
người bệnh, (3) khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, 
(4) hỗ trợ về mặt cảm xúc cho người bệnh, (5) sự 
tham gia của người thân trong quá trình chăm sóc, 
(6) chuyển tuyến và chăm sóc liên tục giữa các cơ 
sở y tế, (7) sự thoải mái về thể chất và (8) chăm sóc 
phối hợp [2],[4],[5]. Chăm sóc hướng người bệnh 
được chứng minh có mối quan hệ mật thiết với các 
chỉ số lâm sàng và kết quả CSSK dài hạn. Stewart.M 
thực hiện quan sát 315 buổi thăm khám tại tuyến 
chăm sóc ban đầu về kỹ năng giao tiếp và tương 
tác giữa bác sĩ và người bệnh cho thấy giao tiếp lấy 
người bệnh làm trung tâm có liên quan với khả năng 
hồi phục về thể chất và tinh thần tốt hơn [5]. Những 
người được chăm sóc theo hướng lấy người bệnh 
làm trung tâm hơn thì ít sử dụng các xét nghiệm 
chẩn đoán, giảm chi phí cho các lần khám chuyên 
khoa và chuyển tuyến hơn [5],[6],[8].
Trong Báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới năm 
2008 và mới đây nhất là tuyên ngôn Astana năm 
2018, Tổ chức Y tế thế giới cũng đã kêu gọi chú trọng 
đến việc đánh giá trải nghiệm của người dân đối với 
chăm sóc hướng người bệnh làm trung tâm nhằm 
đạt được mục tiêu tổng quát của CSSK ban đầu - 
Sức khỏe cho tất cả mọi người [8]. Nghiên cứu của 
chúng tôi được tiến hành với 2 mục tiêu chính: 1) 
Khảo sát quan điểm, trải nghiệm của người dân về 
chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm tại một số 
xã/phường thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế; 2) Xác định 
mối liên quan giữa quan điểm trải nghiệm về chăm 
sóc lấy người bệnh làm trung tâm với tình hình sử 
dụng dịch vụ y tế của người dân tại tỉnh Thừa Thiên 
Huế.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian nghiên cứu: 2/2019-12/2019
2.2. Đối tượng nghiên cứu: Người dân từ 18 
tuổi trở lên đang sinh sống tại tỉnh T.T. Huế.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
- Phương pháp chọn mẫu: Sử dụng phương 
pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn, chia các huyện/
thành phố/thị xã thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế thành 
2 nhóm thành thị và nông thôn. Chọn ngẫu nhiên 
thành phố Huế và Huyện Phú Vang. Ở mỗi huyện/ 
thành phố đã được chọn ở giai đoạn 1 chọn ngẫu 
nhiên ra 3 xã, phường làm địa bàn nghiên cứu. Dựa 
vào sổ KCB A1/YTCS và phần mềm quản lý KCB, chọn 
ngẫu nhiên người dân tham gia nghiên cứu. Thực 
tế, nghiên cứu của chúng tôi thu thập được thông 
tin của 313 người.
- Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn đối 
tượng nghiên cứu theo bộ câu hỏi đã soạn sẵn. Trải 
nghiệm chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm 
được phân tích dựa trên 4 thành tố bao gồm: chia 
sẻ thông tin (PCC1), mối quan hệ với bác sĩ/nhân 
viên y tế khác (PCC2), ra quyết định lâm sàng (PCC3), 
khuyến khích người bệnh tự chăm sóc (PCC4) theo 
thang đểm Likert 5 mức độ. Sử dụng bộ câu hỏi 
đánh giá mức độ tham gia tích cực vào CSSK (Patient 
Activation Measure) với 13 câu hỏi để khảo sát sự 
tham gia của người dân trong quá trình CSSK. Các 
thông tin về chỉ số sức khỏe, tình trạng ốm đau/
chấn thương, tình hình sử dụng dịch vụ trong vòng 
12 tháng qua, bao gồm KCB ban đầu, chăm sóc cấp 
cứu, số lần nhập viện, được khảo sát.
87
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
2.4. Phân tích và xử lý số liệu 
Sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để nhập, làm sạch 
và phân tích số liệu. Trải nghiệm chăm sóc lấy người 
bệnh làm trung tâm được đánh giá là tốt khi đạt 
≥3,75 điểm (75% tổng điểm), mức độ tham gia vào 
quá trình chăm sóc được đánh giá là tích cực khi đạt 
>75% tổng số điểm. 
Sử dụng test ANOVA để phân tích mối liên quan 
giữa thực trạng chăm sóc lấy người bệnh làm trung 
tâm với tình trạng sức khỏe và việc sử dụng dịch vụ 
CSSK của người dân, sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,05.
3. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Thông tin chung (n=313) Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Giới
Nam 98 31,3
Nữ 215 68,7
Tuổi
Mean (SD): 59,53 (13,6)
Dưới 40 25 8,0
40 – 59 127 40,6
≥ 60 161 51,4
Trình độ học vấn
Tiểu học và dưới tiểu học 169 54,0
Tốt nghiệp THCS, THPT 130 41,5
Cao đẳng, ĐH, SĐH 14 4,5
Nghề nghiệp
Nông dân/ công nhân 38 12,2
Cán bộ/nhân viên 20 6,4
Thợ thủ công/buôn bán dịch vụ 92 29,4
Nghỉ hưu 23 7,3
Già yếu/thất nghiệp 140 44,7
Tình trạng kinh tế
Nghèo/cận nghèo 66 21,1
Không thuộc 2 diện trên 247 78,9
Thẻ bảo hiểm y tế
Thẻ BHYT bắt buộc 30 9,6
Được BHXH, NSNN đóng và hỗ trợ 
mức đóng
145 46,3
BHYT theo hộ gia đình 138 44,1
Nơi đăng ký KCBBĐ Trạm Y tế xã/phường 237 75,5
Phòng khám đa khoa khu vực 34 10,9
BV tuyến huyện/thành phố 31 9,9
Phòng khám tư/Bệnh viện tư 3 1,0
BV tuyến tỉnh và trung ương 8 2,5
Nhận xét: Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nữ giới, độ tuổi trung bình là 59,53 tuổi. Tỷ lệ người có trình 
độ học vấn tiểu học trở xuống và già yếu/thất nghiệp chiếm tỷ lệ cao. 100% đối tượng nghiên cứu có BHYT, 
trong đó thẻ BHYT được bảo hiểm xã hội, NSNN đóng/hỗ trợ mức đóng và thẻ BHYT tham gia BHYT theo hộ 
gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất (46,3% và 44,1%). Hơn 3/4 đối tượng nghiên cứu đăng ký KCB ban đầu tại Trạm 
Y tế xã/phường.
88
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Bảng 2. Tình hình sức khỏe chung của đối tượng nghiên cứu
Các chỉ số (n=313) Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
BMI
Thiếu cân (< 18,5) 50 16,0
Bình thường 165 52,7
Thừa cân/béo phì (> 23) 98 31,3
Chỉ số huyết áp
Huyết áp bình thường 145 46,3
Huyết áp bình thường cao 73 23,3
Tăng huyết áp 95 30,4
Tự đánh giá tình trạng 
sức khỏe
Tốt, rất tốt 64 20,6
Bình thường 173 55,4
Yếu, rất yếu 75 24,0
Số bệnh mạn tính hiện 
mắc
Không 83 26,5
1 bệnh 150 47,9
> 2 bệnh 80 25,6
Hút thuốc lá Có 81 25,9
Không 232 74,1
Mức độ uống rượu 
bia
Có hại 33 10,5
Có nguy cơ cao 24 7,7
Bình thường 256 81,8
Ăn rau củ và trái cây Ăn ít (< 5 khẩu phần) 284 90,7
Ăn đủ (≥ 5 khẩu phần) 29 9,3
Vận động thể lực Có 264 84,6
Không 48 15,4
Nhận xét: 31,3% NCT thừa cân, béo phì; 16% thiếu cân. Qua 2 lần đo huyết áp cho thấy 30,4% đối tượng 
có tăng huyết áp. Hơn 1/4 đối tượng nghiên cứu tự đánh giá tình trạng sức khỏe ở mức yếu và rất yếu. NCT. 
Gần 50% người tham gia nghiên cứu mắc 1 bệnh mạn tính. Về các hành vi sức khỏe, tỷ lệ người dân có các 
hành vi có hại cho sức khỏe chiếm tỷ lệ thấp.
Bảng 3. Trải nghiệm về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
Biến số Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm (PCC)
Mean (SD) 3,58 (0,57) (Min - Max: 1,88 - 4,66)
Chưa tốt (< 3,75 điểm) 178 56,9
Tốt (≥ 3,75 điểm) 135 43,1
Mức độ tham gia tích cực trong quá trình CSSK (PAM)
Mean (SD) 39,32 (4,99), (Min - Max: 27 -52)
Mức độ tham gia kém (< 50%) 0 0
Mức độ tham gia trung bình (50 - 75%) 173 56,4
Mức độ tham gia rất tích cực (> 75%) 134 43,6
Nhận xét: Trải nghiệm của đối tượng nghiên cứu về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm chưa tốt, 
chiếm tỷ lệ cao nhất: 56,9% và mức độ tham gia tích cực trong quá trình CSSK cao nhất là mức độ trung bình 
(56,4%).
89
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Biểu đồ 1. Phân bố trải nghiệm về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
theo cơ sở y tế thường đến khám
Nhận xét: Đánh giá của người phỏng vấn về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm (PCC), CSYT tư nhân 
điểm cao nhất (3,67) nhưng vẫn đánh giá chung là chưa tốt (< 3,75). Thuộc tính chia sẻ thông tin (PCC1) được 
đánh giá ở TYT là tốt nhất (3,8) và thấp nhất là BV tuyến tỉnh/TW (3,44). Các thuộc tính: khuyến khích người 
bệnh tự chăm sóc (PCC4), ra quyết định lâm sàng (PCC3) và thuộc tính mối quan hệ với bác sĩ/NVYT khác 
(PCC2), CSYT tư nhân đều được đánh giá tốt nhất và thấp nhất là PKĐK KV/ BV huyện.
Bảng 4. Mối liên quan giữa chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
và các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Chia sẻ 
thông tin 
(PCC1)
Mối quan hệ 
người bệnh và 
NVYT (PCC2)
Lựa chọn 
quyết định lâm 
sàng (PCC3)
Khuyến khích 
người bệnh 
tự chăm sóc 
(PCC4)
Chăm sóc lấy 
người bệnh 
làm trung tâm 
(PCC)
Mean (SD) 3,68 (0,68) 3,51 (0,53) 3,66 (0,9) 3,46 (0,74) 3,57 (0,57)
Chỉ số huyết áp
Bình thường 3,57 (0,7)* 3,49 (0,54) 3,63 (0,96) 3,32 (0,76)* 3,5 (0,6)
Bình thường cao 3,79 (0,65)* 3,49 (0,54) 3,6 (0,94) 3,59 (0,58)* 3,62 (0,06)
Tăng huyết áp 3,74 (0,68)* 3,55 (0,52) 3,77 (0,77) 3,56 (0,77)* 3,65 (0,53)
Mắc bệnh mạn tính
Không mắc 3,56 (0,66) 3,52 (0,48) 3,57 (1) 3,31 (0,7)* 3,49 (0,59)
1-2 bệnh 3,72 (0,67) 3,51 (0,54) 3,71 (0,88) 3,5 (0,74)* 3,61 (0,56)
≥ 3 bệnh 3,66 (0,88) 3,43 (0,53) 3,4 (0,65) 3,46(0,88) 3,49 (0,67)
Chất lượng cuộc sống
Rất cao 3,72 (0,76) 3,56 (0,51)* 3,79 (0,86)* 3,52 (0,64) 3,65 (0,56)*
Cao 3,61 (0,62) 3,42 (0,53)* 3,53 (0,96)* 3,37 (0,82) 3,48 (0,59)*
Trung bình 3,82 (0,54) 3,73 (0,51) 3,73 (0,65) 3,56 (0,69) 3,71 (0,48)
Thấp, rất thấp 3,9 (0,69) 3,6 (0,69) 3,8 (0,21) 3,45 (0,74) 3,8 (0,44)
*p<0,05; **p<0,01, ***p<0,001
Nhận xét: Ở các đặc điểm trên đối tượng nghiên cứu: chỉ số huyết áp, số bệnh mạn tính đang mắc và chất 
lượng cuộc sống có sự tương quan với các thuộc tính trong chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm, thể hiện 
rõ qua điểm đánh giá của đối tượng nghiên cứu (từ p<0,05 đến p<0,001)
90
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Bảng 5. Mối liên quan giữa chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
và tình hình sử dụng dịch vụ y tế
Biến số Chia sẻ thông 
tin (PCC1)
Mối quan hệ 
với bác sĩ và 
NVYT khác 
(PCC2)
Lựa chọn 
quyết định lâm 
sàng (PCC3)
Khuyến khích 
người bệnh 
tự chăm sóc 
(PCC4)
Chăm sóc lấy 
người bệnh 
làm trung tâm 
(PCC)
Số lần nhập viện trong 12 tháng qua
Không 3,64 (0,7) 3,5 (0,54) 3,65 (0,89) 3,4 (0,74)* 3,55 (0,58)
1 lần 3,85 (0,59) 3,49 (0,47) 3,77 (0,92) 3,61 (0,67) 3,68 (0,51)
≥ 2 lần 3,7 (0,7) 3,63 (0,58) 3,6 (0,94) 3,75 (0,72)* 3,67 (0,57)
Số lần khám sức khỏe định kỳ
Không khám 3,54 (0,71)*** 3,47 (0,53) 3,46 (1,03)*** 3,26 (0,82)*** 3,43(0,62)***
1 lần 3,48 (0,64)*** 3,36 (0,55) * 3,54 (0,84)*** 3,38 (0,79)*** 3,44(0,53)***
≥ 2 lần 3,9 (0,61)*** 3,6 (0,5) * 3,92 (0,7) *** 3,7 (0,53) *** 3,78(0,46)***
Số lần ốm đau trong vòng 3 tháng qua
Không ốm 3,32 (0,81)*** 3,52 (0,55) 3,56 (1,19) 3,34 (0,83) 3,44 (0,71)
1-2 bệnh 3,76 (0,62) 3,52 (0,5) 3,68 (0,84) 3,48 (0,73) 3,61 (0,53) 
≥ 3 bệnh 3,48 (1,05)*** 3,24 (0,87) 3,22 (0,64) 3,44 (0,5) 3,35 (0,67) 
Số lần đi khám CSYT khi ốm đau trong vòng 3 tháng qua
1-2 lần 3,72 (0,58)*** 3,5 (0,55) 3,67 (0,89) 3,39 (0,68)* 3,58 (0,53)
3-4 lần 3,67 (0,66)*** 3,53 (0,53) 3,67 (0,83) 3,54 (0,85) 3,57 (0,55)
> 4 lần 3,94 (0,77)*** 3,42 (0,46) 3,68 (0,7) 3,66 (0,6)* 3,72 (0,56)
Nơi thường đến khám khi ốm đau
Trạm Y tế 3,8 (0,68)* 3,52 (0,54) 3,69 (0,8) 3,48 (0,75) 3,63 (0,56)
PKĐKKV và BV 
huyện
3,6 (0,67) 3,37 (0,56) 3,44 (1,14) 3,34 (0,66) 3,44 (0,6)
CSYT tư nhân 3,75 (0,48) 3,58 (0,43) 3,81 (0,71) 3,5 (0,8) 3,67 (0,46)
BV tuyến tỉnh, 
Trung ương
3,44 (0,71)* 3,52 (0,47) 3,57 (1,02) 3,48 (0,67) 3,51 (0,61)
Mức độ tích cực tham gia vào quá trình chăm sóc
Trung bình 3,55 (0,67)*** 3,4 (0,5) *** 3,57 (0,95)* 3,32 (0,72)*** 3,5 (0,55)***
Rất tích cực 3,83 (0,68)*** 3,65(0,54)*** 3,78 (0,82)* 3,64 (0,72)*** 3,7 (0,56)***
*p<0,05; **p<0,01, ***p<0,001
Nhận xét: Số lần khám sức khỏe định kỳ và mức độ tích cực tham gia vào quá trình chăm sóc: toàn bộ 
các thuộc tính trong chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm đều có kết quả điểm khác nhau rõ và có ý nghĩa 
thống kê (p<0,001). Ở các đặc điểm về tình hình sử dụng dịch vụ y tế khác: Số lần nhập viện trong 12 tháng 
qua, số lần ốm đau trong vòng 3 tháng qua, số lần đi khám CSYT khi ốm đau trong vòng 3 tháng qua, nơi 
thường đến khám khi ốm đau: một số thuộc tính trong chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm có sự khác 
nhau về điểm đánh giá là khá rõ (từ p<0,05 đến p<0,001).
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 313 đối 
tượng, trong đó nữ giới nhiều gấp đôi so với nam 
giới, độ tuổi trên 60 tuổi và trình độ học vấn tiểu học 
và dưới tiểu học đều chiếm hơn một nửa trong đối 
tượng nghiên cứu. Độ tuổi và trình độ học vấn cao 
hay thấp của đối tượng nghiên cứu một phần nào 
có tác động đến nhận thức và sự quyết định chọn 
lựa loại dịch vụ y tế nào, từ đó có sự nhìn nhận khác 
nhau về các trải nghiệm trong KCB khi ốm đau hay 
91
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
cần tư vấn về sức khỏe. Hầu hết các đối tượng tham 
gia nghiên cứu đều có BHYT và 75,5% đối tượng 
nghiên cứu của chúng tôi tham gia BHYT tại TYT xã/
phường. Tỷ lệ này cao so với tỷ lệ đối tượng nghiên 
cứu có BHYT ở Brazil và Jamaica (tương ứng 76,5% 
và 61,5%), Colombia, Panama, Mexico và El Salvador 
(lần lượt là 65,1%, 62,4%, 48,9% và 47,4%) [3]. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy được phần 
nào thành quả chủ trương của ngành Y tế nước ta – 
xây dựng lộ trình tiến tới BHYT toàn dân. 
Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu đang mắc bệnh mạn 
tính khá cao (73,5%), cao hơn rất nhiều so với tỷ 
lệ mắc bệnh mãn tính ở El Salvador đến Jamaica 
(31,5%, 52,2%) [3]. tỷ lệ người dân tự đánh giá sức 
khoẻ hiện tại của bản thân ở mức độ bình thường là 
55,4%, tiếp đến là tình trạng sức khoẻ yếu và rất yếu 
(24%). Kết quả tự đánh giá của người dân về tình 
trạng sức khoẻ của bản thân cũng đã phản ánh được 
một phần chất lượng của các dịch vụ y tế trong địa 
bàn nghiên cứu. Các hành vi sức khỏe của đối tượng 
nghiên cứu khá tốt khi 74,1% không hút thuốc lá, 
81,8% đối tượng có uống rượu bia nhưng ở mức độ 
bình thường, 84,6% có vận động thể lực. Kết quả 
này có thể đánh giá là khá tốt về mặt nhận thức của 
người dân về các yếu tố nguy cơ cho sức khỏe.
Chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm là một 
mô hình chăm sóc theo định hướng con người 
nhằm đáp ứng nhu cầu, kỳ vọng và mong muốn của 
người dân [2],[7],[11]. Các nghiên cứu từ Hoa Kỳ, 
Vương quốc Anh đã cho thấy hiệu quả tích cực của 
chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm trong việc 
cải thiện CSSK, giảm tỷ lệ nhập viện, vào cấp cứu, 
nâng cao sự hài lòng của người bệnh [4],[10],[11]. Ở 
nghiên cứu của chúng tôi, mức độ tham gia rất tích 
cực (>75%) chỉ chiếm 43,6% và trải nghiệm của đối 
tượng nghiên cứu về chăm sóc lấy người bệnh làm 
trung tâm chưa tốt chiếm tỷ lệ 56,9%, tỷ lệ này cao 
hơn trong các nghiên cứu ở các nước Mỹ Latinh năm 
2013 (29,5% ở Mexico, 52,4% ở Jamaica, 39,8% ở 
Panama) [3]. Về vấn đề này, thay vì xem người bệnh 
là một thành phần thụ động của quy trình y tế, cần 
có sự nhấn mạnh hơn vào giao tiếp để xây dựng mối 
quan hệ giữa bác sĩ và người bệnh,tích cực chia sẻ 
trao đổi thông tin, tư vấn để nâng cao khả năng tự 
chăm sóc, áp dụng quan điểm muốn tìm ra sự đồng 
thuận, kết quả là người bệnh tuân thủ kế hoạch điều 
trị, cải thiện sức khỏe, hài lòng với dịch vụ CSSK qua 
đó có trải nghiệm và đánh giá tốt hơn với chăm sóc 
lấy người bệnh làm trung tâm [5],[8]. 
Có nhiều thuộc tính cần đánh giá trong chăm sóc 
lấy người bệnh làm trung tâm. Các thuộc tính được 
đánh giá được đánh giá bằng thang đo Likert từ 1-5. 
Điểm số càng cao càng thể hiện sự đánh giá càng cao 
của người được phỏng vấn đối với các thuộc tính. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đánh giá chung về 
chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm tại các CSKCB 
đều được đánh giá chưa tốt (<3,75). Mặc dù vậy, ở 4 
thuộc tính được khảo sát trong chăm sóc lấy người 
bệnh làm trung tâm, thuộc tính chia sẻ thông tin 
(PCC1), TYT là CSYT làm tốt nhất (3,8 điểm); 3 thuộc 
tính còn lại: mối quan hệ với NVYT (PCC2), lựa chọn 
quyết định lâm sàng (PCC3) và khuyến khích tự chăm 
sóc người bệnh (PCC4) thì CSYT tư nhân và TYT đã 
được đánh giá là thực hiện tốt nhất, trong khi đánh 
giá thấp nhất là tại PKĐK KV/BV tuyến huyện. Nhìn 
nhận từ kết quả này, có thể xem tại TYT và CSYT tư 
nhân, việc chú trọng vào chăm sóc lấy người bệnh 
làm trung tâm đang được thực hiện và được đối 
tượng nghiên cứu của chúng tôi đánh giá khá tốt. 
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu như vậy cũng dễ 
hiểu khi môi trường chăm sóc tại tuyến y tế cơ sở và 
CSYT tư nhân thường ít đông đúc và bận rộn hơn các 
bệnh viện tuyến trên nên người dân không cần chờ 
đợi quá lâu để được KCB cũng như nhân viên y tế sẽ 
có thời gian nhiều hơn để tư vấn và giải thích cho 
người dân. Chính những yếu tố này đã tác động đến 
đánh giá cũng như mức độ hài lòng của người dân 
khi đến khám tại các Trạm y tế cũng như các CSYT tư 
nhân. Trạm y tế là nơi tiếp xúc đầu tiên của hệ thống 
y tế, là cơ sở y tế gần dân nhất, do đó với các đặc 
trưng của tuyến chăm sóc ban đầu lấy người bệnh 
làm trung tâm như mối quan hệ lâu dài giữa bác sĩ 
người bệnh, chăm sóc liên tục và toàn diện, được 
chứng minh là những yếu tố thuận lợi của tuyến 
chăm sóc ban đầu để đạt được mức độ hài lòng của 
người dân với dịch vụ y tế.
Khi khảo sát về mối liên quan giữa chăm sóc lấy 
người bệnh làm trung tâm và tình hình sử dụng dịch 
vụ y tế, số lần khám sức khỏe định kỳ, số lần ốm 
đau trong 3 tháng, số lần đi khám khi ốm đau càng 
nhiều thì điểm đánh giá cùa người dân về thuộc tính 
chia sẻ thông tin trong chăm sóc lấy người bệnh làm 
trung tâm càng cao (p < 0,001). Ngoài ra khi khảo 
sát thuộc tính mối quan hệ với bác sĩ hay nhân viên 
y tế (PCC3) và lựa chọn quyết định lâm sàng (PCC3), 
khuyến khích người bệnh tự chăm sóc (PCC4) trong 
chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm (PCC), có ý 
nghĩa thống kê khi khảo sát số lần khám sức khỏe 
định kỳ, điểm được đánh giá cao hơn khi số lần khám 
từ 2 lần trở lên so với nếu chỉ 1 lần hoặc không khám 
lần nào (p < 0,005). Thực tế, đối với người tiếp xúc 
thường xuyên với các cơ sở KCB do ốm đau, kiểm tra 
sức khỏe tổng quát, hay bản thân rất tích cực trong 
việc tham gia vào quá trình KCB thì có nhiều cơ hội 
để tiếp xúc, nhận được và trải nghiệm các dịch vụ y 
tế càng nhiều và có mối quan hệ lâu dài với các nhân 
92
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
viên y tế, từ đó sẽ có cái nhìn khách quan và chính 
xác hơn về sự khác nhau trong quan điểm chăm sóc 
lấy người bệnh làm trung tâm. Sự nhìn nhận này 
khá giống với kết quả nghiên cứu tại Hàn Quốc năm 
2013 và 6 nước Mỹ Latinh năm 2013 [3],[14]. Trải 
nghiệm về chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm 
cũng đã được chứng minh ở nhiều nghiên cứu trước 
đây ở các nước trong việc tăng sự tuân thủ điều trị, 
giảm số lần nhập viện, tình trạng ốm đau của người 
dân, phát hiện ra những bằng chứng sơ bộ về việc 
giảm sử dụng các nguồn lực y tế khi lấy người bệnh 
làm trung tâm trong KCB [1],[13]. Để đánh giá được 
điều này, cần có những nghiên cứu theo dõi, quan 
sát các lần đến khám của người bệnh để phân tích 
rõ hơn về hiệu quả của chăm sóc lấy người bệnh làm 
trung tâm với việc nâng cao chất lượng chăm sóc y 
tế và cải thiện sức khỏe của người dân.
5. KẾT LUẬN
Chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm đóng 
vai trò rất quan trọng trong chăm sóc y tế, góp phần 
nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và đáp ứng nhu cầu 
CSSK của người dân. Nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy quan điểm, trải nghiệm của người dân về chăm 
sóc lấy người bệnh làm trung tâm còn chưa cao. Trải 
nghiệm này của người bệnh ở tuyến chăm sóc ban 
đầu cao hơn so với các CSYT khác trong phân tuyến 
của hệ thống y tế. Hai thành tố về giao tiếp, mối 
quan hệ giữa người bệnh và các NVYT và thành tố 
khuyến khích người bệnh tự chăm sóc được người 
dân cần được chú trọng nâng cao. Mức độ tích cực 
của người bệnh khi tham gia vào quá trình chăm sóc 
càng cao thì trải nghiệm về chăm sóc lấy người bệnh 
làm trung tâm càng tốt. Do đó, người thầy thuốc 
cần tăng cường khuyến khích bệnh nhân tham gia 
vào quá trình chăm sóc sức khỏe cũng như hỗ trợ và 
đảm bảo người bệnh được cung cấp đầy đủ thông 
tin để lựa chọn ra quyết định lâm sàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Epstein RM, Franks P, Shields CG, Meldrum SC, 
et al. Patient-centered communication and diagnosis 
testing. Ann Fam Med 2005; 3: 415–21;
2. Epstein RM, Franks P, Fiscella K, et al. Measuring 
patient-centered communication in patient-physician 
consultations: theoretical and practical issues. Soc Sci 
Med 2005; 61: 1516–28;
3. Guanais F, Doubova SV, Leslie HH, Perez-Cuevas 
R, et al (2018). Patient-centered primary care and self-
rated health in 6 Latin American and Caribbean countries: 
Analysis of a public opinion cross-sectional survey, PLoS 
Med 15(10): e1002673. https://doi.org/ 10.1371/journal.
pmed.1002673;
4. Hoff T, Weller W, DePuccio M (2012). The patient-
centered medical home: a review of recent research. 
Med Care Res Rev. 2012;69:619±44. https://doi.
org/10.1177/1077558712447688 Epub
2012 May 29. PMID: 22645100;
5. Klea D. Bertakis and Rahman Azari (2011). Patient-
centered care is associated with decreased health care 
utilization. The Journal of the American Board of Family 
Medicine May 2011, 24 (3) 229-239;
6. Klea D.Bertakis, RahmanAzari. Determinants and 
outcomes of patient-centered care, Patient Education and 
Counseling, Volume 85, Issue 1, 2011, Pages 46-52;
7. Lauren McCormack L, Treiman K, Wagner L, et al. 
(2019). Measuring How Well Patients With Colorectal 
Cancer and Their Doctors Communicate. Washington, DC: 
PatientCentered Outcomes Research Institute (PCORI). 
https://doi.org/10.25302/8.2019.ME.13035838;
8. Lori Jo Delaney. Patient-centred care as an approach to 
improving health care in Australia. Collegian 2017;25:119 123;
9. Martin Fortin MD, Catberine Hudon MD (2011). 
Measuring Patients’ Perceptions of Patient-Centered Care: 
A Systematic Review of Tools for Family Medicine, Ann Fam 
Med 2011; 9:155-164;
10. Nielsen M, Buelt L, Patel K, Nichols LM. The patient-
centered medical home’s impact on cost and quality: 
annual review of evidence 2014-2015. Washington (DC): 
Patient-Centered Primary Care Collaborative; 2016;
11. Rathert C, Wyrwich MD, Boren SA (2013). Patient-
centered care and outcomes: a systematic
review of the literature. Med Care Res Rev. 2013 
Aug;70(4):351-79. doi: 10.1177/1077558712465774. 
Epub 2012 Nov 20;
12. Stewart MA (1995). Effective physician-patient 
communication and health outcomes: a review. CMAJ. 
1995 May 1;152(9):1423-33;
13. Stewart M, Brown J, Donner A, et al (2000). The 
impact of patient-centered care on outcomes. J Fam 
Pract. 49(9):796-804;
14. Sung NJ, Markuns JF, Park KH, Kim K, Lee H, Lee 
JH (2013). Higher quality primary care is associated 
with good self-rated health status. Fam Pract. 2013; 
30:568±75. https://doi.org/10.1093/fampra/cmt021. 
PMID: 23759366.

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_quan_diem_va_trai_nghiem_cua_nguoi_dan_ve_cham_soc.pdf