Khảo sát nồng độ testosterone ở nam giới từ 50 – 60 tuổi

Mục tiêu: Khảo sát nồng độ Testosterone

toàn phần ở nam giớitrong độ tuổi từ 50 – 60

tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên

cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang gồm 79

bệnh nhân đi khám bệnh tại Bệnh viện Bạch

Mai từ tháng 12/2019 đến tháng 06/2020. Kết

quả và kết luận: Nồng độ testosterone toàn

phần ở nhóm đối tượng nghiên cứu là nam

giới từ 50 – 60 tuổi là 16.64 ± 6.90 nmol/l.

Nồng độ testosterone máu toàn phần tương

quan nghịch biến với nồng độ Triglycerid và

nồng độ LDL-C, BMI, vòng eo và chỉ số

eo/hông (WHR). Chưa thấy sự tương quan có

ý nghĩa thống kê giữa nồng độ testosterone

máu toàn phần với Cholesterol toàn phần và

HDL-C. Trong nghiên cứu này, chưa tìm thấy

sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ

testosterone của các nhóm có THA, uống

rượu và hút thuốc.

pdf 8 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát nồng độ testosterone ở nam giới từ 50 – 60 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát nồng độ testosterone ở nam giới từ 50 – 60 tuổi

Khảo sát nồng độ testosterone ở nam giới từ 50 – 60 tuổi
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
23 
KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ TESTOSTERONE Ở NAM GIỚI TỪ 50 – 60 TUỔI 
Nguyễn Ngọc Sơn1, Đỗ Trung Quân1,2 
 1. Trường Đại học Y Hà Nội 
 2. Bệnh viện Bạch Mai 
DOI: 10.47122/vjde.2020.41.3 
ABSTRACT 
Survey of blood testosterone levels 
in men aged 50 - 60 years old 
Objective: Survey of blood total 
testosterone levels in men aged 50 - 60 years 
old. Subject and methods: The cross-
sectional descriptive study including 79 men 
who were examined at Bach Mai Hospital 
from December 2019 to June 2020. Results 
and conclusion: In the study group, the 
concentration of total blood testosterone of 
50-60 years old men was 16.64 ± 6.90 nmol/l. 
Total blood testosterone levels were inversely 
correlated with serum triglyceride levels and 
serum LDL-C levels, BMI, waist 
circumference and waist/hip ratio (WHR). 
There were no statistically significant 
correlation between total blood testosterone 
levels and total cholesterol and HDL-C levels. 
In this study, statistically significant 
differences were not found in the testosterone 
levels of the high blood pressure, alcohol and 
smoking groups. 
Keywords: Testosterone, men aged 50 – 60 
years old. 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát nồng độ Testosterone 
toàn phần ở nam giớitrong độ tuổi từ 50 – 60 
tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang gồm 79 
bệnh nhân đi khám bệnh tại Bệnh viện Bạch 
Mai từ tháng 12/2019 đến tháng 06/2020. Kết 
quả và kết luận: Nồng độ testosterone toàn 
phần ở nhóm đối tượng nghiên cứu là nam 
giới từ 50 – 60 tuổi là 16.64 ± 6.90 nmol/l. 
Nồng độ testosterone máu toàn phần tương 
quan nghịch biến với nồng độ Triglycerid và 
nồng độ LDL-C, BMI, vòng eo và chỉ số 
eo/hông (WHR). Chưa thấy sự tương quan có 
ý nghĩa thống kê giữa nồng độ testosterone 
máu toàn phần với Cholesterol toàn phần và 
HDL-C. Trong nghiên cứu này, chưa tìm thấy 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ 
testosterone của các nhóm có THA, uống 
rượu và hút thuốc. 
Từ khóa: Testosterone, nam giới từ 50 đến 
60 tuổi. 
Chịu trách nhiệm chính: Đỗ Trung Quân 
Ngày nhận bài: 15/8/2020 
Ngày phản biện khoa học: 11/9/2020 
Ngày duyệt bài: 10/10/2020 
Email: [email protected] 
Điện thoại: 0985111666 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Testosterone là hormone sinh dục nam có 
bản chất là steroid được bài tiết chủ yếu bởi 
tế bào Leydig của tinh hoàn (trên 95%). Đây 
là hormone có vai trò quan trọng nhất trong 
chức năng sinh sản của nam giới. Có rất 
nhiều các tác dụng sinh học của testosterone 
đã được chứng minh. Testosterone rất cần 
thiết cho sự phát triển và biệt hóa cơ quan 
sinh dục trong và cơ quan sinh dục ngoài của 
nam giới trong suốt quá trình phát triển của 
bào thai. Trong giai đoạn dậy thì, sự tăng 
trưởng của bìu, mào tinh, ống dẫn tinh, túi 
tinh, tuyến tiền liệt và dương vật cũng phụ 
thuộc vào vai trò rất lớn của testosterone. 
Testosterone kích thích sự tăng trưởng của 
hệ cơ xương, phì đại niêm mạc và phát triển 
thanh quản làm cho giọng nói của nam giới 
trở nên trầm hơn và xuất hiện hiện tượng “vỡ 
giọng” ở tuổi dậy thì. Lông sinh dục, phát 
triển râu, ria mép và lông ở ngực bụng, lung 
cũng như hoạt động của các tuyến bã nhờn. 
Các tác động khác bao gồm kích thích tạo 
hồng cầu và các thay đổi hành vi xã hội khác 
nhau giữa nam giới và nữ giới [1]. Ngày này, 
tuổi thọ dân số nói chung ngày càng gia tăng, 
tại Nhật Bản là 84,1 tuổi (theo WHO), tại 
Việt Nam là 73,6 tuổi, trong đó tuổi thọ trung 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
24 
bình của nam giới là 71,0 tuổi (theo báo cáo 
kết quả của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà 
ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê Việt 
Nam). Chính vì vậy, testosterone vẫn có vai 
trò quan trọng ở sau tuổi 50 kể cả về chức 
năng tình dục lẫn chức năng thể chất. Tuy 
nhiên do sự phát triển của kinh tế xã hội làm 
thay đổi lối sống, sinh hoạt, chế độ ăn uống, 
luyện tập, rượu bia, thuốc lá, các loại thuốc, 
mô hình bệnh tật,... đã làm ảnh hưởng đến 
những đối tượng trên 50 tuổi, gây tác động 
đến nồng độ testosterone ở đối tượng này. 
Trước đây, testosterone chủ yếu được quan 
tâm trong các bệnh lý về suy sinh dục với các 
triệu chứng như: giảm ham muốn tình dục, rối 
loạn cương dương [2]. Gần đây có nhiều 
nghiên cứu chứng minh ảnh hưởng của 
testosterone đến nhiều cơ quan khác trên cơ 
thể, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của nam 
giới, đặc biệt là nam giới trên 50 tuổi. 
Testosterone giảm làm giảm khối cơ, tăng 
khối lượng mỡ, đặc biệt là mỡ tạng. Khi sự 
tích lũy mỡ tạng tăng sẽ làm tăng tổng hợp 
acid béo dẫn tới tình trạng đề kháng Insulin, 
rối loạn lipid máu đây là nguyên nhân chính 
gây ra hội chứng chuyển hóa ở nam giới. 
Ngược lại, trên những bệnh nhân có hội 
chứng chuyển hóa thường có tình trạng béo 
phì. Tình trạng này làm tăng sản xuất các 
cytokine viêm và tăng chuyển testosterone 
thành estradiol ở mô mỡ, khi nồng độ 
estradiol cao sẽ gây ức chế tuyến yên sản xuất 
LH, FSH do đó làm giảm sản xuất 
testosterone. 
Hiện nay ở Việt Nam, chưa có nghiên 
cứu nào về nồng độ testosterone máu ở nam 
giới từ 50 - 60 tuổi. Vì vậy, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này với mục tiêu: Khảo sát 
nồng độ testosterone máu ở nam giới từ 50 - 
60 tuổi. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu 
được thực hiện tại khoa Khám bệnh và khoa 
Khám bệnh theo yêu cầu Bệnh viện Bạch Mai 
từ tháng 12/2019 đến tháng 06/2020, gồm 78 
nam giới trong độ tuổi từ 50 – 60 tuổi đi 
khám sức khỏe và được loại trừ các bệnh lý 
suy sinh dục nguyên phát hoặc thứ phát. các 
bệnh cấp tính, nặng: nhiễm trùng, xơ gan, suy 
thận nặng, nhiễm HIV, đang dùng corticoid, 
lợi tiểu kháng aldosterone..; có tiền sử hoặc 
đang mắc các bệnh nội tiết như bệnh lý tuyến 
giáp, tuyến yên, đái tháo đường, và đang 
dùng các thuốc hay thực phẩm chức năng có 
chứa testosterone hoặc gây ảnh hưởng đến 
nồng độ testosterone máu. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. Tất 
cả nam giới 50 -60 tuổi đủ tiêu chuẩn tham 
gia nghiên cứu, được hỏi bệnh, khám lâm 
sàng và làm các xét nghiệm testosterone máu 
TP và các xét nghiệm cần thiết. Số liệu thu 
thập được ghi theo một mẫu bệnh án nghiên 
cứu thống nhất. 
Nồng độ testosterone máu toàn phần được 
định lượng bằng phương pháp điện hóa phát 
quang bằng máy Cobas E601. Đơn vị nmol/l. 
- Các biến số và chỉ số nghiên cứu gồm: 
Nhóm biến số về nồng độ testosterone 
máu: nồng độ testosterone máu toàn phần. 
Nhóm biến số về các yếu tố liên quan đến 
nồng độ testosterone máu: tuổi, hút thuốc, 
uống rượu, THA, bộ câu hỏi ADAM, BMI, 
vòng bụng, tỉ số vòng bụng/hông (WHR), 
Nồng độ Cholesterol máu, Triglycerid máu, 
HDL-C, LDL-C. 
- Số liệu được xử lý theo phương pháp 
thống kê y học bằng phần mềm SPSS 20.0. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
25 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân nghiên cứu. 
Bảng 1. Tuổi của nhóm đối tượng nghiên cứu. 
 Giá trị 
Tuổi trung bình 
X ± SD 
(min – max) 
54,90± 3,49 
(50 ÷ 60) 
Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 54,90 ± 3,49 tuổi. 
Bảng 2. Tỷ lệ hút thuốc (thuốc lá, thuốc lào) và uống rượu. 
 Có Không Tổng 
Hút thuốc lá 
n,% 
44 
55,7% 
35 
44,3% 
79 
Uống rượu 
n,% 
57 
72,2% 
22 
27,8% 
79 
Bảng 3. Tỷ lệ THA và không THA của nhóm đối tượng. 
 THA Không THA Tổng 
n, % 23 
29,1% 
56 
70,9% 
79 
Bảng 4. Tỷ lệ nam giới có bộ câu hỏi ADAM (+) trong nhóm đối tượng nghiên cứu 
 ADAM (+) ADAM (-) Tổng 
n, % 
66 
83,5% 
13 
16,5% 
79 
100% 
Có 83,5% số nam giới trong nhóm đối tượng nghiên cứu có triệu chứng gợi ý suy sinh dục 
nam với bộ câu hỏi ADAM (+). 
Bảng 5. BMI, vòng eo (tỷ lệ béo bụng), chỉ số eo/ hông 
 n Trung bình ± SD Tỷ lệ (%) 
BMI (kg/m
2
) 79 22,6± 2,8 100 
<18,5 04 5,1 
18,5 – 22,9 41 51,9 
>23 34 43,0 
Vòng eo (cm) 77 83,10 ±8,11 
<90cm 59 74,7 
≥90 cm 20 25,3 
Vòng hông (cm) 89,53 ±6,22 
Tỷ số eo/hông 
≤0.9 22 27,8 
>0,9 57 72,2 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
26 
Nhận xét: BMI trung bình của nhóm nghiên cứu là 22,6 ± 2,8kg/m2, trong đó chủ yếu nam 
giới có BMI trong giới hạn bình thường là 51,9%, nam giới có có chỉ số BMI trong khoảng thừa 
cân béo phì là 43,0%. 
Đối tượng có chỉ số BMI thấp nhất là 16,5, cao nhất là 29,4. Vòng eo trung bình của nhóm 
đối tượng nghiên cứu là 83,10 ± 8,11cm, trong đó số lượng nam giới có vòng eo bình thường 
chiếm đa số 74,7%. 
3.2. Nồng độ Testosterone của nhóm nghiên cứu. 
Bảng 6. Nồng độ Testosterone của nhóm nghiên cứu 
 Giá trị 
Testosterone toàn phần (nmol/l) 
X ± SD 
(min – max) 
N = 79 
16,64 ± 6,90 
(3,88 ÷ 36,62) 
Nhận xét: Nồng độ testosterone của nhóm đối tượng nghiên cứu bao gồm 79 nam giới trong 
độ tuổi từ 50 đến 60 tuổi là 16,64 ± 6,90 nmol/l, với nồng độ testosterone thấp nhất là 3,88 
nmol/l, và cao nhất 36,62 nmol/l. 
Bảng 7. So sánh nồng độ testosterone ở nhóm có ADAM (+) và ADAM (-) 
 ADAM (+) 
n=66 
ADAM (-) 
n=13 
p 
Testosterone (nmol/l) 
X ± SD 
16,17± 7,01 18,99 ± 5,98 0,18 
Nhận xét: Nồng độ testosterone trong nhóm có bộ câu hỏi ADAM (+) là 16,17± 7,01 nmol/l 
thấp hơn nhóm có ADAM (-) là 18,99 ± 5,98 nmol/l. Tuy nhiên sự khác biệt này là không có ý 
nghĩa thống kê với p>0,05 (p=0,18) (T- test). Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có 14 nam giới 
có nồng độ testosterone <10nmol/l, chiếm tỷ lệ 17,7%. Trong số này, tất cả 100% đều có kết quả bộ 
câu hỏi ADAM (+). 
3.3. Nhận xét một số yếu tố liên quan đến nồng độ testosterone máu ở nhóm đối tượng 
nghiên cứu. 
3.3.1. Hút thuốc lá, uống rượu: 
Bảng 8. So sánh nồng độ testosterone ở giữa nhóm hút thuốc với không hút thuốc; 
giữa nhóm uống rượu với không uống rượu. 
 Có hút thuốc 
n=44 
Không hút thuốc 
n=35 
p 
Testosterone (nmol/l) 
X ± SD 16,63± 6,31 16,65 ± 7,67 0.987 
Có uống rượu 
(n=57) 
Không uống rượu 
(n=22) 
p 
Testosterone (nmol/l) 
X ± SD 
15,77 ± 6,94 18,88 ± 6,39 0,073 
Nhận xét: Trong 79 nam giới thuộc nhóm nghiên cứu,không có sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê về nồng độ testosterone TP của nhóm hút thuốc với nhóm không hút thuốc và giữa nhóm 
uống rượu với không uống rượu với p>0,05. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
27 
3.3.2. Tăng huyết áp 
Bảng 9. So sánh nồng độ testosterone ở nhóm có THA và không có THA 
Có THA 
(n=23) 
Không có THA 
(n=22) 
p 
Testosterone (nmol/l) 
X ± SD 
14,49 ± 6,09 17,52 ± 7,07 0,76 
Nhận xét: Nồng độ testosterone TP của nhóm có THA là thấp hơn nhóm không có THA, tuy 
nhiên sự khác biệt là không có ý nghĩa thống kê với p = 0,76 (>0,05) 
3.3.3. BMI, vòng eo, chỉ số eo/hông 
Bảng 10.Mối tương quan giữa nồng độ testosterone với BMI, vòng eo, chỉ số eo/hông 
 Testosterone p 
BMI -0,336* 0,002 
Vòng eo -0,324* 0,004 
Chỉ số eo/hông -0,195 0,084 
Chú thích: dấu*: sự tương quan có ý nghĩa thống kê. 
Biểu đồ 1. So sánh nồng độ testosterone ở nhóm có BMI <23 và BMI ≥23 
Nhận xét: Trong nhóm đối tượng nghiên cứu thì nhóm nam giới thừa cân,béo phì (BMI ≥23) 
có nồng độ testosterone máu 14.17±5.66 (nmol/l) thấp hơn bệnh nhân có BMI bình thường 
(BMI<23) 18,50 ± 7.21(nmol/l). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (p=0,005) (T- 
test).Bên cạnh đó, trong nhóm đối tượng nghiên cứu chúng tôi còn thấy có sự tương quan nghịch 
biến có ý nghũa thống kê giữa nồng độ testosterone máu và BMI với r = -0.336 với p= 0.002 
(Pearson-test). 
Bảng 11. So sánh nồng độ Testosterone dựa trên phân loại vòng eo và chỉ số eo/hông (WHR) 
Vòng eo (n=79) 
p 
<90 (n=59) ≥90 (n=20) 
Testosterone (nmol/l) 
X ± SD 
17,71 ± 7,08 13,46 ± 5,28 0.016 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
28 
Chỉ số eo/hông (n=77) 
<0,9 (n=22) ≥0,9 (n=57) 
Testosterone (nmol/l) 
X ± SD 
17,55± 6,78 16,28 ± 6,96 0,468 
Ngoài ra,trong nhóm đối tượng nghiên cứu chúng tôi còn thấy có sự tương quan nghịch biến 
có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ testosterone máu với vòng eo (r = -0,324 với p= 0,004). 
Không có sự tương quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ testosterone toàn phần với chỉ số 
eo/hông (WHR) (r=-0,195, p= 0,084) (Pearson-test). 
Nồng độ testosterone ở nhóm có vòng eo lớn (≥90cm) 13,46 ± 5,28 (nmol/l) thấp hơn đáng 
kể nhóm có vòng eo bình thường (<90 cm) là 17,71 ± 7,08(nmol/l) với p<0,05, tuy nhiên, không 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ testosterone của nhóm có chỉ số eo/ hông bình 
thường (<0,9) và nhóm có chỉ số eo/ hông lớn (≥0,9). 
3.3.4. Các thành phần lipid máu 
Bảng 12. Mối tương quan giữa nồng độ testosterone với từng thành phần lipid máu 
 Testosterone p 
Cholesterol TP -0,354* 0,001 Pearson - test 
LDL-C -0,295* 0,008 Pearson - test 
HDL-C 0,144 0,207 Spearman- test 
Triglyceride -0,333* 0,032 Spearman- test 
Chú thích: dấu*: sự tương quan có ý nghĩa thống kê. 
Biểu đồ 3.4. Sự tương quan giữa nồng độ testosterone máu với các thành phần lipid máu 
y= -2,307x + 23,089 
r= -0,295 
y= -1,204x + 19,550 
r= -0,333 
y= -2,501x + 29,217 
r= -0,354 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
29 
Nhận xét: Trong nhóm đối tượng nghiên 
cứu nồng độ testosterone có sự tương quan 
nghịch biến với nồng độ, Triglyceride 
(Spearman- test), Cholesterol (Pearson - test) 
vàLDL-C (Pearson - test) (với r = -0,333, r = -
0,354 và r = -0,295, p <0,05). Chúng tôi chưa 
thấy sự tương quan có ý nghĩa thống kê giữa 
nồng độ testosterone với nồng độ HDL-C 
(Spearman-test). 
4. BÀN LUẬN 
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng 
nghiên cứu 
Trong nghiên cứu này, đối tượng là những 
nam giới đi khám tại khoa Khám bệnh theo 
yêu cầu tại Bệnh viện Bạch Mai trong độ tuổi 
từ 50-60, với độ tuổi trung bình là của chúng 
tôi, tuổi trung bình 54.90±3.49. BMI trung 
bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 
22,6±2,8, trong đó số có BMI ở mức thừa cân 
béo phì chiếm gần 1/2 (43,0%), vòng eo trung 
bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 
83,10±8,11cm, trong đó số lượng nam giới có 
vòng eo bình thường chiếm đa số 74,7%. 
4.2. Nồng độ testosterone của nhóm đối 
tượng nghiên cứu. 
Nồng độ testosterone máu toàn phần của 
nhóm đối tượng nghiên cứu là16,64±6,90 
nmol/l, với nồng độ testosterone thấp nhất là 
3,88 nmol/l, và cao nhất 36,62 nmol/l. Kết 
quả của chúng tôi cũng khá tương đồng với 
kết quả trong nghiên cứu của Martinez 
Jabaloyas năm 2008 trên 230 nam giới từ độ 
tuổi 50 trở lên tại Tây Ban Nha [3]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ 
testosterone toàn phần giữa nhóm hút thuốc 
và không hút thuốc là không có sự khác biệt. 
Còn ở nhóm uống rượu và nhóm tăng huyết 
áp thì nồng độ testosterone toàn phần thấp 
hơn so với nhóm còn lại tương ứng, lần lượt 
là: 15,77 ± 6,94 so với 18,88 ± 6,39; 14,49 ± 
6,09 so với 17,52 ± 7,07 tuy nhiên sự khác 
biệt này là không có ý nghĩa thống kê với p> 
0,05. 
Nồng độ testosterone của nhóm có ADAM 
dương tính là 16,17 ± 7,01(nmol/l) thấp hơn 
nhóm có ADAM âm tính 18,99±5,98(nmol/l). 
Tuy nhiên do cỡ mẫu quá nhỏ nên sự khác 
biệt chưa có ý nghĩa thống kê với p>0,05. 
Chúng tôi cũng nhận thấy trong nhóm nghiên 
cứu có 14 bệnh nhân có nồng độ testosterone 
máu toàn phần <10nmol/l, trong số này thì 
100% bệnh nhân này đều có kết quả ADAM 
dương tính. 
Kết quả này cho thấy bộ câu hỏi ADAM 
có độ nhạy rất cao và độ đặc hiệu rất thấp nên 
chủ yếu dùng để sàng lọc không dùng để chẩn 
đoán bệnh. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng 
cho thấy có mối tương quan nghịch biến giữa 
nồng độ testosterone máu toàn phần với BMI, 
vòng bụng, với hệ số tương quan lần lượt là (r 
=-0,336, p= 0,002) và (r= -0,324, p= 0,004). 
Kết quả này của chúng tôi cũng tương tự với 
nghiên cứu của Grosman trên 660 nam giới ở 
Argentina với nồng độ testosterone toàn phần 
tương quan nghịch với BMI (r=-0,29, p 
<0,0001) và với vòng bụng (r=-0,26, 
p<0,0001) [4]. 
Một điểm quan trọng nữa trong nghiên 
cứu này, cũng cho thấy nồng độ testosterone 
máu toàn phần cũng có mối tương quan 
nghịch biến với nồng độ triglyceride máu, 
cholesterol máu và LDL-C. Nghiên cứu này 
của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu 
của tác giả Grosman của Argentina [4] và tác 
giả Zhang J của Trung Quốc [5]. 
5. KẾT LUẬN 
Nồng độ testosterone toàn phần ở nhóm 
đối tượng nghiên cứu là nam giới từ 50 – 60 
tuổi là 16,64 ± 6,90. Chúng tôi chưa tìm thấy 
sự khác biệt về nồng độ testosterone toàn 
phần giữa nhóm có ADAM (+) và ADAM (-). 
Nồng độ testosterone máu toàn phần tương 
quan nghịch biến với nồng độ Triglycerid, 
Cholesterol và LDL-C. Chưa thấy sự tương 
quan có ý nghĩa giữa nồng độ testosterone 
máu toàn phần với và HDL-C. 
Ngoài ra, nồng độ testosterone máu toàn 
phần còn tương quan nghịch biến với BMI và 
vòng eo. 
Trong nghiên cứu này, chưa tìm thấy sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ 
testosterone của các nhóm có THA, uống 
rượu và hút thuốc. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
30 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Quân ĐT. Bệnh lý tuyến sinh dục nam. 
Bệnh nội tiết chuyển hóa. 2015:403-421. 
2. Jones TH. Advances in the management 
of testosterone deficiency. Introduction. 
Frontiers of hormone research. 
2009;37:1-4. doi: 10.1159/000175838. 
3. Martinez Jabaloyas JM, Queipo Zaragoza 
A, Ferrandis Cortes C, Queipo Zaragoza 
JA, Gil Salom M, Chuan Nuez P. 
[Changes in sexual hormones in a male 
population over 50 years of age. 
Frequency of low testosterone levels and 
risk factors]. Actas Urol Esp. Jun 
2008;32(6):603-610. doi: 10.1016/s0210-
4806(08)73895-6. 
4. Grosman H, Rosales M, Fabre B, et al. 
Association between testosterone levels 
and the metabolic syndrome in adult 
men. Aging Male. Sep 2014;17(3):161-
165. doi: 10.3109/13685538. 
2014.913561. 
5. Zhang J, Huang X, Liao M, et al. Both 
total testosterone and sex hormone-
binding globulin are independent risk 
factors for metabolic syndrome: results 
from Fangchenggang Area Male Health 
and Examination Survey in China. 
Diabetes/metabolism research and 
reviews. Jul 2013;29(5):391-397. doi: 
10.1002/dmrr.2405. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_nong_do_testosterone_o_nam_gioi_tu_50_60_tuoi.pdf