Khảo sát nồng độ CEA, CYFRA 21-1, SCC huyết tương trong theo dõi điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ

Dấu ấn ung thư là những sản phẩm của khối u hoặc của cơ thể chủ tạo ra để đáp ứng lại sự có mặt

của khối u trong cơ thể. Trong ung thư phổi các dấu ấn thường được sử dụng là CEA, CYFRA 21-1, SCC

đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTP-KTBN), còn trong ung thư phổi tế bào nhỏ (UTP-TBN) là NSE

và Pro-GRP. Sự phối hợp các dấu ấn này được cho là có ý nghĩa góp phần chẩn đoán, theo dõi, tiên lượng

bệnh. Để làm rõ vấn đề này chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu theo dõi quá trình điều trị của 39 bệnh nhân

ung thư phổi tại bệnh viện Ung bướu và bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa thông qua việc khảo sát nồng

độ các chất CEA, CYFRA 21-1, SCC trong huyết tương bệnh nhân trong 3 tháng điều trị bệnh tại các thời

điểm khác nhau theo phương pháp nghiên cứu mô tả tiến cứu, so sánh trước sau, không nhóm chứng. Sự

thay đổi nồng độ 3 chất có xu hướng giảm dần ở cả bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến (UTBMT) bệnh nhân

ung thư biểu mô vảy (UTBMV) trong suốt quá trình điều trị, mức độ thay đổi tùy thuộc vào từng dấu ấn

pdf 7 trang phuongnguyen 300
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát nồng độ CEA, CYFRA 21-1, SCC huyết tương trong theo dõi điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát nồng độ CEA, CYFRA 21-1, SCC huyết tương trong theo dõi điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ

Khảo sát nồng độ CEA, CYFRA 21-1, SCC huyết tương trong theo dõi điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
26 TCNCYH 123 (7) - 2019
Tác giả liên hệ: Vũ Lan Anh,
Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa
Email: [email protected]
Ngày nhận: 16/09/2019
Ngày được chấp nhận: 02/10/2019
KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ CEA, CYFRA 21-1, SCC HUYẾT TƯƠNG 
TRONG THEO DÕI ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI 
KHÔNG TẾ BÀO NHỎ 
Vũ Lan Anh¹, Trần Huy Thịnh²
¹Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa, ²Trường Đại học Y Hà Nội
Dấu ấn ung thư là những sản phẩm của khối u hoặc của cơ thể chủ tạo ra để đáp ứng lại sự có mặt 
của khối u trong cơ thể. Trong ung thư phổi các dấu ấn thường được sử dụng là CEA, CYFRA 21-1, SCC 
đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTP-KTBN), còn trong ung thư phổi tế bào nhỏ (UTP-TBN) là NSE 
và Pro-GRP. Sự phối hợp các dấu ấn này được cho là có ý nghĩa góp phần chẩn đoán, theo dõi, tiên lượng 
bệnh. Để làm rõ vấn đề này chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu theo dõi quá trình điều trị của 39 bệnh nhân 
ung thư phổi tại bệnh viện Ung bướu và bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa thông qua việc khảo sát nồng 
độ các chất CEA, CYFRA 21-1, SCC trong huyết tương bệnh nhân trong 3 tháng điều trị bệnh tại các thời 
điểm khác nhau theo phương pháp nghiên cứu mô tả tiến cứu, so sánh trước sau, không nhóm chứng. Sự 
thay đổi nồng độ 3 chất có xu hướng giảm dần ở cả bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến (UTBMT) bệnh nhân 
ung thư biểu mô vảy (UTBMV) trong suốt quá trình điều trị, mức độ thay đổi tùy thuộc vào từng dấu ấn.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi đặc biệt là ung thư phổi không 
tế bào nhỏ loại ung thư có tỷ lệ mắc và tử vong 
hàng đầu trên thế giới cũng như tại Việt Nam. 
Theo phân loại của WHO, ung thư phổi chia 
làm 2 nhóm chính dựa trên đặc điểm mô bệnh 
học là ung thư phổi không tế bào nhỏ chiếm 
khoảng 80% và ung thư phổi tế bào nhỏ (UTP-
TBN). Trong đó UTBM vảy và UTBM tuyến là 2 
dạng hay gặp của UTP-KTBN [1]. Mặc dù có 
những tiến bộ trong các lĩnh vực chẩn đoán và 
điều trị của y học, thì ung thư phổi vẫn là căn 
bệnh gây nhiều khó khăn cho các bác sỹ lâm 
sàng. Đa phần bệnh nhân được phát hiện ở giai 
đoạn muộn khi khối u đã tiến triển hoặc di căn. 
Lúc này phương pháp phẫu thuật không còn 
được chỉ định, thay vào đó bệnh nhân được 
điều trị bằng hóa trị, xạ trị hoặc hóa xạ trị đồng 
thời [2]. Một số nghiên cứu trên thế giới và Việt 
Nam cho thấy: các marker ung thư phổi CEA, 
CYFRA 21-1, SCC trong máu có ý nghĩa quan 
trọng trong việc phân týp ung thư, giai đoạn, 
tiên lượng bệnh, đánh giá đáp ứng điều trị, theo 
dõi bệnh và phát hiện tái phát giúp kéo dài thời 
gian sống thêm, cải thiện chất lượng sống [3 - 
6]. Tại Thanh Hóa, một trong những tỉnh đông 
dân trong cả nước, ung thư phổi được ước 
tính là một trong những bệnh ung thư có tỷ lệ 
mắc cao nhất, việc chẩn đoán, điều trị hiệu quả 
bệnh cũng rất được quan tâm. Và tính đến thời 
điểm này, chưa có nghiên cứu đánh giá về bộ 
3 marker CEA, CYFRA 21-1, SCC huyết tương 
trong theo dõi điều trị bệnh UTP-KTBN tại địa 
phương. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu 
với mục tiêu: 
Khảo sát sự biến thiên nồng độ 3 marker 
CEA, CYFRA 21-1, SCC trước điều trị và sau 
Từ khóa: Nồng độ CEA, CYFRA 21-1, SCC, ung thư phổi, hóa trị, hóa-xạ trị.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
27TCNCYH 123 (7) - 2019
3 tháng điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ 
giai đoạn IIIB, IV với phác đồ không phẫu thuật 
tại bệnh viện tuyến tỉnh Thanh Hóa
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định là ung 
thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB, IV với 
mô bệnh học là ung thư biểu mô vảy hoặc ung 
thư biểu mô tuyến.
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Bệnh nhân được chẩn đoán xác định là 
UTP-KTBN giai đoạn IIIB, IV theo AJCC và 
UICC 2010, có typ mô bệnh học là ung thư biểu 
mô tuyến hoặc ung thư biểu mô vảy dựa trên 
thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả 
mô bệnh học qua sinh thiết khối u qua nội soi 
phế quản hoặc sinh thiết khối u xuyên thành 
ngực.
- Không mắc ung thư thứ 2.
- Chưa điều trị bằng các phương pháp tại 
chỗ hay toàn thân trước đó.
- Không có chống chỉ định điều trị hóa chất, 
xạ trị.
- Được chỉ định điều trị theo phương pháp 
hóa trị hoặc hóa-xạ trị đồng thời.
- Có hồ sơ lưu trữ đầy đủ
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên 
cứu.
- Ung thư phổi thứ phát
2. Phương pháp
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Đa 
khoa tỉnh, Bệnh viện Ung bướu tỉnh Thanh Hóa 
từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 8 năm 2019.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tiến cứu, so sánh trước 
sau, không nhóm chứng.
Cỡ mẫu và chọn mẫu
- Cỡ mẫu: lấy mẫu thuận tiện.
- Chọn mẫu: Chúng tôi chọn tất cả những 
bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nghiên cứu trong thời 
gian thực hiện nghiên cứu.
Kỹ thuật và công cụ thu thập số liệu
- Các thông tin chung về đối tượng nghiên 
cứu sẽ thu được qua phỏng vấn trực tiếp đối 
tượng, bệnh án bệnh nhân, các chỉ số xét 
nghiệm CEA, CYFRA 21-1, SCC sẽ được thu 
thập từ khoa xét nghiệm.
- Đối với những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn 
lựa chọn sẽ được lấy máu làm xét nghiệm CEA, 
CYFRA 21-1, SCC, quy trình lấy máu như sau:
+ Giải thích cho bệnh nhân về nghiên cứu 
và lấy máu sau khi được bệnh nhân đồng ý.
+ Lấy máu tĩnh mạch vào buổi sáng, bệnh 
nhân nhịn đói ít nhất 8h.
+ Số lượng 2ml vào ống chống đông bằng 
Li-heparin.
Ống máu sẽ được vận chuyển về khoa Hóa 
sinh - Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa để tiến 
hành xét nghiệm. Bệnh nhân sẽ được lấy máu 
2 lần tại 2 thời điểm: trước điều trị và sau điều 
trị 3 tháng.
- Mẫu xét nghiệm chạy trên máy cobas 8000 
(module e602) với phương pháp định lượng: 
miễn dịch bắt cặp sử dụng công nghệ điện 
hóa phát quang. Khoảng tham chiếu của các 
xét nghiệm hiện đang sử dụng tại phòng xét 
nghiệm là: 
CEA: < 5,2 ng/mL; CYFRA 21-1: < 3,3 ng/
mL; SCC: < 2,7 ng/mL
3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được nhập trên phần mềm Epidata 
3.1 và phân tích trên phần mềm STATA 14.0 
bằng các thuật toán thống kê y học:
- Thống kê mô tả: sử dụng tần số và tỷ lệ 
phần trăm cho biến định tính, giá trị trung bình, 
độ lệch chuẩn cho biến định lượng phân bố 
chuẩn, giá trị min, max và trung vị đối với biến 
phân bố không chuẩn
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
28 TCNCYH 123 (7) - 2019
- Thống kê phân tích: sử dụng t-test độc lập 
so sánh giá trị trung bình giữa 2 nhóm cho biến 
phân bố chuẩn và Mann- Whitney test cho phân 
bố không chuẩn. 
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thông qua Hội đồng Đạo 
đức Trường Đại học Y Hà Nội số 2618 ngày 
05/09/2018 và được sự chấp thuận của cơ sở 
nghiên cứu là Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh 
Hóa và Bệnh viện Ung bướu tỉnh Thanh Hóa.
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu Số bệnh nhân (n) Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi
< 50 tuổi 0 0,0
50 - 70 tuổi 34 87,2
> 70 tuổi 5 12,8
Giới
Nam 32 82,1
Nữ 7 17,9
Tiền sử
hút thuốc lá
Có 26 66,7
Không 13 33,3
Tổng 39 100,0
 Trong nghiên cứu này bệnh nhân ít tuổi nhất là 51 tuổi, cao tuổi nhất là 81 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh UTP-
KTBN chủ yếu gặp ở độ tuổi từ 50-70 tuổi (chiếm tỷ lệ cao nhất 87,2%).
Tỷ lệ mắc bệnh UTP-KTBN ở nam cao hơn nữ (82,1% so với 17,9%).
Bệnh nhân có tiền sử hút thuốc lá cao hơn bệnh nhân không hút (66,7% so với 33,3%).
Bảng 2. Đặc điểm mô bệnh học và giai đoạn bệnh
Type mô bệnh học Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Ung thư biểu mô tế bào vảy 12 30,8
Ung thư biểu mô tuyến 27 69,2
Tổng 39 100,0
Giai đoạn bệnh Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Giai đoạn IIIB 18 46,2
Giai đoạn IV 21 53,8
Tổng 39 100,0
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ ung thư biểu mô tuyến cao nhất (69,2%), ung thư biểu mô 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
29TCNCYH 123 (7) - 2019
vảy chiếm (30,8%). Giai đoạn IV nhiều hơn giai đoạn IIIB với tỉ lệ lần lượt là 53,8% và 46,2%.
Bảng 3. Sự thay đổi nồng độ của các marker theo mô bệnh học
Dấu ấn
Mô bệnh 
học
Bắt đầu điều trị Sau 3 tháng điều trị
pMin
(ng/mL)
Max
(ng/mL)
Trung vị 
(ng/mL)
Min
(ng/mL)
Max
(ng/
mL)
Trung 
vị
(ng/mL)
CEA
Ung thư 
biểu mô 
tuyến
0,5 949,0 4,4 1,2 351,3 10,3 > 0,05
Ung thư 
biểu mô 
vảy
3,5 669,0 14,9 3,1 316,5 11,0 > 0,05
CYFRA 
21-1
Ung thư 
biểu mô 
tuyến
2,1 53,5 5,0 1,8 77,4 4,2 > 0,05
Ung thư 
biểu mô 
vảy
3,5 335,4 7,8 1,8 90,5 6,8 > 0,05
SCC
Ung thư 
biểu mô 
tuyến
0,1 11,1 1,5 0,1 5,1 1,5 > 0,05
Ung thư 
biểu mô 
vảy
0,5 9,2 3,5 0,9 6,1 2,2 > 0,05
Theo bảng trên ta thấy sau 3 tháng điều trị nồng độ cả 3 marker CEA, CYFRA 21-1, SCC có sự 
thay đổi so với lúc trước điều trị ở cả 2 loại mô bệnh học. Cụ thể:
- Ung thư biểu mô tuyến: nồng độ CEA tăng từ 4,4 ng/mL lên 10,3 ng/mL, tuy nhiên giá trị max 
giảm đáng kể từ 949,0 mg/mL xuống còn 351,3 ng/mL; nồng độ CYFRA 21-1 giảm từ 5,0 ng/mL 
xuống 4,2 ng/mL; nồng độ SCC với trung vị không đổi 1,5 ng/mL và giá trị max giảm từ 11,1 xuống 
còn 5,1 ng/mL. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê ( p > 0,05).
- Ung thư biểu mô vảy: nồng độ CEA giảm từ 14,9 ng/mL xuống 11,0 ng/mL, giá trị max giảm từ 
669,0 ng/mL xuống 316,5 ng/mL; nồng độ CYFRA 21-1 giảm từ 7,8 ng/mL xuống 6,8 ng/mL, với giá 
trị max giảm từ 335,4 ng/mL xuống 90,5 ng/mL; nồng độ SCC giảm từ 3,5 ng/mL xuống 2,2 ng/mL, 
giá trị max giảm từ 9,2 ng/mL xuống 6,1 ng/mL. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê ( p > 0,05).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
30 TCNCYH 123 (7) - 2019
IV. BÀN LUẬN
Bảng 4. Sự thay đổi nồng độ của các marker theo giai đoạn bệnh
Dấu ấn
Giai đoạn 
bệnh
Bắt đầu điều trị Sau 3 tháng điều trị
pMin
(ng/mL)
Max
(ng/mL)
Trung vị 
(ng/mL)
Min
(ng/mL)
Max
(ng/mL)
Trung vị
(ng/mL)
CEA IIIB 0,8 949 4,5 1,2 351,3 4,0 > 0,05
IV 0,5 669 10,3 1,7 316,5 16,7 > 0,05
CYFRA 
21-1
IIIB 2,3 52,3 5,1 1,8 60,5 5,3 > 0,05
IV 2,1 335,4 7,0 1,8 90,5 6,8 > 0,05
SCC
IIIB 0,5 6,8 1,5 0,8 5,1 1,5 > 0,05
IV 0,1 11,1 3,5 0,1 6,1 2,2 > 0,05
Sau 3 tháng điều trị các bệnh nhân giai đoạn IIIB có sự giảm các xét nghiệm như CEA giảm từ 
4,5 ng/mL xuống 4,0 ng/mL; nồng độ CYFRA 21-1, SCC thay đổi không đáng kể trong suốt quá trình 
điều trị. Đối với các bệnh nhân giai đoạn IV giá trị max của CEA giảm từ 669 ng/mL xuống còn 316,5 
ng/mL; giá trị trung vị của CYFRA 21-1 giảm từ 7,0 ng/mL xuống 6,8 ng/mL, nồng độ SCC giảm từ 
3,5 ng/mL xuống 2,2 ng/mL. Sự khác biệt không có ý nghĩa do p > 0,05.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nam/nữ 
mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ là 4,5/1; ung 
thư biểu mô tuyến (69,2%) gặp nhiều hơn ung 
thư biểu mô vảy (30,8%). Một số nghiên cứu 
trên thế giới và Việt Nam có kết quả như sau: 
Theo nghiên cứu của Takahashi cùng cộng sự 
(2010) tỷ lệ nam/nữ là 3,1/1 [7]; hay theo nghiên 
cứu của Nguyễn Thị Hoài Nga và cộng sự 
(2011) tỷ lệ nam/ nữ 3,93/1 [8]. Robinson B.M. 
cùng cộng sự nghiên cứu năm 2011 tỷ lệ ung 
thư biểu mô tuyến chiếm 51,4%, ung thư biểu 
mô vảy chiếm 48,6% [9]. Giai đoạn IV nhiều 
hơn giai đoạn IIIB với tỉ lệ lần lượt là 53,8% và 
46,2%. Tỷ lệ bệnh nhân giai đoạn IV cao hơn 
ở giai đoạn IIIB phù hợp với đa số nghiên cứu 
trong và ngoài nước. Ví dụ như theo Molina R 
(2003) bệnh nhân giai đoạn IIIB chiếm 48,3% ít 
hơn bệnh nhân giai đoạn IV là 51,7% [3] Tuy 
nhiên tỷ lệ giai đoạn IV chúng tôi nghiên cứu 
thấp hơn một số nghiên cứu khác như: Nghiên 
cứu của Takahashi (2010) tỷ lệ bệnh nhân giai 
đoạn IV là 60,9% hay nghiên cứu của Lại Thị Tố 
Uyên năm 2014 trên 45 bệnh nhân thì giai đoạn 
IV chiếm tỷ lệ (62,2%), giai đoạn IIIB chiếm 
(37,8%) [10]. Nguyên nhân của sự phân bố giai 
đoạn bệnh như trên được cho là các bệnh nhân 
giai đoạn IV khi đến viện thể trạng đã quá yếu 
và gia đình thường từ chối điều trị, hoặc không 
tuân thủ được liệu trình điều trị trong 3 tháng 
nghiên cứu của chúng tôi.
Từ kết quả bảng 3 cho thấy trong suốt quá 
trình điều trị, nồng độ CYFRA 21-1 có xu hướng 
giảm so với lúc bắt đầu điều trị cả ở bệnh nhân 
Ung thư biểu mô tuyến, Ung thư biểu mô vảy. 
CYFRA 21-1 có nguồn gốc nhiều từ tổ chức 
ung thư phổi [11]. Điều này phần nào cho thấy 
việc điều trị bằng hóa chất và xạ trị đã tác động 
đến khối u. Khi so sánh các giá trị trung vị CEA 
chúng tôi thấy đối với Ung thư biểu mô vảy có 
xu hướng giảm của nồng độ dấu ấn, đặc biệt là 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
31TCNCYH 123 (7) - 2019
giá trị max của CEA đã giảm nhiều trong suốt 
quá trình điều trị ở cả 2 loại mô bệnh học. Tuy 
nhiên so với giá trị ngưỡng (< 5,2 ng/mL) thì 
nồng độ CEA vẫn đang cao. Nồng độ SCC tăng 
cao hơn giá trị ngưỡng (> 2,7 ng/mL) trong 
bệnh nhân ung thư biểu mô vảy khi bệnh nhân 
bắt đầu điều trị (trung vị là 3,5 ng/mL) và có sự 
thay đổi rõ rệt so với ung thư biểu mô tuyến: 
sau 3 tháng điều trị nồng độ SCC giảm so với 
khi bắt đầu điều trị (giá trị trung vị xuống còn 
2,2 ng/mL) và xuống dưới giá trị ngưỡng. Tỷ 
lệ này là phù hợp với các nghiên cứu khác do 
SCC đặc trưng cho biểu mô vảy. Còn trong ung 
thư biểu mô tuyến các giá trị của SCC dao động 
quanh giá trị ngưỡng, và sự thay đổi nồng độ 
dấu ấn này không thấy có ý nghĩa so với việc 
theo dõi điều trị. Vì vậy cần phối hợp các dấu 
ấn sinh học trong việc đánh giá kết quả điều trị. 
Tại Việt Nam, chúng tôi chưa tìm thấy nghiên 
cứu nào có sự khảo sát các chất chỉ điểm u 
về các phác đồ không phẫu thuật chung: gồm 
tất cả các bệnh nhân có điều trị hóa trị hoặc 
hóa xạ trị đồng thời (hoặc các nghiên cứu chưa 
được công bố) mà các tác giả thường đi vào 
các phác đồ riêng biệt nên không tiện để so 
sánh các kết quả trên.
Kết quả bảng 4 cho thấy sau 3 tháng điều 
trị nồng độ CEA, CYFRA 21-1, SCC đều có xu 
hướng giảm ở cả giai đoạn IIIB và giai đoạn IV. 
Tại các thời điểm lúc bắt đầu điều trị và sau 3 
tháng điều trị các giá trị trung vị của các chất 
chỉ điểm u ở bệnh nhân giai đoạn IV vẫn luôn 
cao hơn các bệnh nhân giai đoạn IIIB. Vì vậy 
việc phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm là rất quan 
trọng.
V. KẾT LUẬN
Sử dụng bộ chất chỉ điểm u CEA, CYFRA 
21-1, SCC góp phần có ý nghĩa trong việc theo 
dõi điều trị bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ. 
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được thực hiện với sự hỗ 
trợ của bệnh viện ung bướu, bệnh viện đa khoa 
tỉnh Thanh Hóa và được hỗ trợ từ đề tài “Nghiên 
cứu ứng dụng kỹ thuật xét nghiệm CYFRA 21-
1, NSE, CEA, SCC và ProGRP trong chẩn đoán 
và theo dõi điều trị ung thư phổi tại một số bệnh 
viện tuyến tỉnh Thanh Hoá năm 2018-2019” của 
Sở Khoa học và công nghệ Thanh Hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Zheng M. (2016). Classification and 
Pathology of Lung Cancer. Surg Oncol Clin N 
Am, 25(3), 447 – 468.
2. Nguyễn Bá Đức (2010). Điều trị nội 
khoa bệnh ung thư. Nhà xuất bản y học, Hà 
Nội, 81 – 99.
3. Molina R., Filella X., Augé J.M. et al 
(2003). Tumor markers (CEA, CA 125, CYFRA 
21-1, SCC and NSE) in patients with non-
small cell lung cancer as an aid in histological 
diagnosis and prognosis. Comparison with the 
main clinical and pathological prognostic factors. 
Tumour Biol J Int Soc Oncodevelopmental Biol 
Med, 24(4), 209 – 218.
4. Nguyễn Minh Hải (2009). Giá trị của 
Cacinoembryonic Antigen (CEA) trong chẩn 
đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ. Tạp chí y 
dược lâm sàng 108, 4(4), 92 – 96.
5. Hoàng Thị Minh (2015). Nghiên cứu 
giá trị chẩn đoán của Cyfra 21-1 VÀ ProGRP 
trong ung thư phổi nguyên phát. Tạp chí y - 
dược học quân sự, (4), 74 – 80.
6. Chen F., Wang X.-Y., Han X.-H. et al 
(2015). Diagnostic value of Cyfra21-1, SCC and 
CEA for differentiation of early-stage NSCLC 
from benign lung disease. Int J Clin Exp Med, 
8(7), 11295 – 11300.
7. Takahashi H., Kurishima K., Ishikawa 
H. et al (2010). Optimal cutoff points of 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
32 TCNCYH 123 (7) - 2019
SUMMARY
SURVEY OF CEA, CYFRA 21-1, SCC CONCENTRATION IN 
PATIENTS’ PLASMA WITH TREATMENT OF
 NON-SMALL CELL LUNG CANCER
Cancer markers are products of the tumor or of the host body created in response to the presence of 
tumors in the body. The most commonly used markers in non-small Lung cancer are CEA, CYFRA 21-
1, SCC while in small cell lung cancer, NSE and Pro-GRP are most commonly used. The combination 
of these markers has been thought to contribute to the diagnosis, monitoring and prognosis of the 
disease. To clarify this issue, we conducted a follow-up study of 39 lung cancer patients treated at Thanh 
Hoa Oncology Hospital and Thanh Hoa General Hospital through the survey of CEA, CYFRA 21-1 and 
SCC concentrations in patients plasma for 3 months of treatment at different times. A descriptive study 
was conducted to compare before and after statistics without control. We found that during treatment, 
the concentration of the 3 markers tends to gradually decrease in patients with adenocarcinoma and 
in patients with squamous cell carcinoma. The degree of change varies depending on each marker.
Keywords: concentrations of CEA, CYFRA 21-1, SCC, lung cancer, chemotherapy, 
chemoradiotherapy.
CYFRA21-1 for survival prediction in non-small 
cell lung cancer patients based on running 
statistical analysis. Anticancer Res, 30(9), 3833 
– 3837.
8. Nguyễn Hoài Nga (2011). Nhận xét 
một số đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm 
sàng ung thư phổi nguyên phát. Tạp chí Ung 
thư học Việt Nam, (3), 210 – 215.
9. Robinson B.M., Kennedy C., McLean 
J. et al (2011). Node-Negative Non-small Cell 
Lung Cancer: Pathological Staging and Survival 
in 1765 Consecutive Cases. J Thorac Oncol, 
6(10), 1691 – 1696.
10. Lại Thị Tố Uyên (2015). Khảo sát nồng 
độ bộ 3 marker CYFRA 21-1, CEA, SCCAg ở 
bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tại 
trung tâm ung bướu và y học hạt nhân, Bệnh 
viện Bạch Mai năm 2014. Tạp chí y học thực 
hành, 4(958), 62 – 65.
11. Fuchs E. và Weber K. (1994). 
Intermediate filaments: structure, dynamics, 
function, and disease. Annu Rev Biochem, 63, 
345 – 382.

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_nong_do_cea_cyfra_21_1_scc_huyet_tuong_trong_theo_d.pdf