Khảo sát nhu cầu tư vấn của bệnh nhân ung thư tại khoa xạ trị - xạ phẫu, Bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108
Mục tiêu: Xác định nhu cầu cần tư vấn của bệnh nhân (BN) ung thư đang điều trị tại khoa Xạ trị-Xạ phẫu,
Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 100 BN ung thư đang điều trị
tại khoa Xạ trị-Xạ phẫu, Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108 từ tháng 5 đến tháng 6/2018. BN được phát và
điền phiếu khảo sát về nhu cầu tư vấn, thu thập và xử lý các thông tin thu được.
Kết quả: Nhu cầu tư vấn của BN ung thư như sau: tư vấn về chẩn đoán 90%; phương pháp điều trị 93%;
thời gian điều trị 83%; chi phí điều trị 81%; khả năng điều trị khỏi 92%; thời gian sống thêm 91% BN; chăm sóc
trong quá trình điều trị 90%; chế độ dinh dưỡng 84%. 75% BN cần phòng tư vấn riêng. Thời điểm tư vấn cần
thiết là trước khi bắt đầu điều trị và khi đang điều trị bệnh có diễn biến xấu (92%). Đa số BN (95%) có nhu cầu
được bác sỹ điều trị tư vấn.
Kết luận: BN ung thư tại Khoa Xạ trị - xạ phẫu, Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108 có nhu cầu cao được
tư vấn về chẩn đoán, phương pháp điều trị, thời gian sống thêm, cách chăm sóc và chế độ dinh dưỡng. Nhân
viên y tế cần được đào tạo về kỹ năng tư vấn và quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu tư vấn của BN ung thư.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát nhu cầu tư vấn của bệnh nhân ung thư tại khoa xạ trị - xạ phẫu, Bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 413 KHẢO SÁT NHU CẦU TƯ VẤN CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ TẠI KHOA XẠ TRỊ - XẠ PHẪU, BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG QUÂN ĐỘI 108 NGUYỄN XUÂN HẢI1, NGUYỄN ĐÌNH VĔN1, NGUYỄN THỊ HÀ1 TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định nhu cầu cần tư vấn của bệnh nhân (BN) ung thư đang điều trị tại khoa Xạ trị-Xạ phẫu, Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 100 BN ung thư đang điều trị tại khoa Xạ trị-Xạ phẫu, Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108 từ tháng 5 đến tháng 6/2018. BN được phát và điền phiếu khảo sát về nhu cầu tư vấn, thu thập và xử lý các thông tin thu được. Kết quả: Nhu cầu tư vấn của BN ung thư như sau: tư vấn về chẩn đoán 90%; phương pháp điều trị 93%; thời gian điều trị 83%; chi phí điều trị 81%; khả nĕng điều trị khỏi 92%; thời gian sống thêm 91% BN; chĕm sóc trong quá trình điều trị 90%; chế độ dinh dưỡng 84%. 75% BN cần phòng tư vấn riêng. Thời điểm tư vấn cần thiết là trước khi bắt đầu điều trị và khi đang điều trị bệnh có diễn biến xấu (92%). Đa số BN (95%) có nhu cầu được bác sỹ điều trị tư vấn. Kết luận: BN ung thư tại Khoa Xạ trị - xạ phẫu, Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108 có nhu cầu cao được tư vấn về chẩn đoán, phương pháp điều trị, thời gian sống thêm, cách chĕm sóc và chế độ dinh dưỡng. Nhân viên y tế cần được đào tạo về kỹ nĕng tư vấn và quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu tư vấn của BN ung thư. Từ khóa: Nhu cầu tư vấn, bệnh nhân ung thư. ABSTRACT Survey of cancer patients’needs for consultation at department of radiation oncology and radiosurery, 108 Central Military Hospital Objective: To determine consultation needs of cancer patients whom treated at Department of Radiation Oncology and Radiosurgery, 108 Military Central Hospital. Subject and Method: A cross-sectional descriptive study of 100 cancer patents treated at Department of Radiation Oncology and Radiosurgery, 108 Military Central Hospital. All patients were asked to fill in a survey form regarding their needs for consultation. The information was collected and analysed. Results: The cancer patients’ needs for consultation were as follows: about diagnosis 90%; treatment options 93%; treatment time 83%; treatment cost 81%; ability of curative treatment 92%; survival 91%; self-care during treatment 90%, nutrition 84%. 75% of patients asked for private consultation room. Patients often needed consultation before treatment and when disease got worse during treatment (92%). Most of patients (95%) required to be counseled by physician. Conclusion: Cancer patients at Department of Radiation Oncology, 108 Military Central Hospital have an essential needs for consultation about diagnosis, treatment options, survival, self-care and nutrition. Medical staffs need be well-trained in counselling skills and must care for patients’ needs for consultation. Key words: Consultation needs, cancer patients. 1 Khoa Xạ trị - Xạ phẫu - Bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư là một trong những nguyên nhân gây tử vong cao và đang trở thành gánh nặng tại các quốc gia trên thế giới, đặc biệt tại các nước nghèo, các nước đang phát triển. Tại Việt Nam theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) công bố tháng 5/2014, Việt Nam đứng thứ 78/172 quốc gia và vùng lãnh thổ với ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 414 tỷ lệ mắc mới là hơn 126.000 ca và khoảng 94.000 người tử vong hàng nĕm. Hầu hết bệnh nhân (BN) đến khám và phát hiện khi bệnh đang ở giai đoạn muộn nên việc điều trị gặp rất nhiều khó khĕn[4,8]. Từ thực tế trên, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phát hiện sớm, nâng cao hiệu quả điều trị. Để nâng cao chất lượng điều trị BN ung thư cần nhiều yếu tố, trong đó đóng vai trò quan trọng là sự phối hợp giữa BN và nhân viên y tế, đồng thời phải trang bị và tư vấn cho người bệnh những kiến thức cơ bản về cĕn bệnh mà họ đang mắc phải. Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ trong phòng chống ung thư[5,7]. Tuy nhiên nhu cầu tư vấn của BN ung thư còn ít được quan tâm nghiên cứu[2]. Tại khoa Xạ trị-Xạ phẫu, bệnh viện TƯQĐ 108, trong những nĕm vừa qua số lượng BN đến khám và điều trị ngày càng tĕng. Nĕm 2016, số BN đến khám là 2.501 lượt, điều trị cho 736 BN với 14.341 lần xạ trị. Nĕm 2017, số lượng BN đến khám là 3.225 lượt, điều trị cho 860 BN với 16.317 lần xạ trị. Đa số BN ung thư điều trị tại khoa đều là BN ngoại trú. Ung thư là cĕn bệnh nguy hiểm, các phương pháp điều trị có nhiều tác dụng phụ. BN ung thư thường hoang mang, có rất nhiều câu hỏi, bĕn khoĕn về cĕn bệnh họ mắc phải cũng như phương pháp điều trị, theo dõi dự phòng sau điều trị. Để nâng cao chất lượng công tác khám, chẩn đoán và điều trị cho BN ung thư, việc tư vấn, giải thích cho BN trước, trong và sau điều trị cần phải được coi trọng để người bệnh an tâm, tin tưởng và phối hợp tốt với nhân viên y tế. Do đó chúng tôi tiến hành đề tài với mục tiêu: “Xác định nhu cầu tư vấn của bệnh nhân ung thư đang điều trị tại khoa Xạ trị - Xạ phẫu, bệnh viện Trung Ương Quân đội 108”. Từ đó đề xuất những nội dung mà nhân viên y tế cần quan tâm tư vấn cho BN ung thư điều trị tại khoa. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 100 BN ung thư đang điều trị tại Khoa Xạ trị - Xạ phẫu, Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108 từ 01/05 đến 15/06/ 2018. Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn lựa chọn BN đã được chẩn đoán ung thư đang điều trị tại Khoa Xạ trị - Xạ phẫu. Biết đọc, biết viết, không bị rối loạn về tâm thần kinh. Đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ BN không chẩn đoán ung thư, không điều trị tại Khoa Xạ trị - Xạ phẫu. Không biết đọc, biết viết, có rối loạn về tâm thần kinh. Từ chối tham gia phỏng vấn. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Xây dựng mẫu phiếu khảo sát thống nhất. Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện. BN nằm trong tiêu chuẩn lựa chọn được phát phiếu khảo sát, hướng dẫn và trả lời các câu hỏi trong phiếu khảo sát, sau đó phiếu được thu lại. Phương pháp xử lý số liệu: nhập số liệu và xử lý bằng phần mềm Excel 2010 (Microsoft). Các chỉ tiêu nghiên cứu: + Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: giới tính, nghề nghiệp, nhóm bệnh. + Các nhu cầu cần tư vấn của BN: kiến thức cơ bản về bệnh ung thư, địa điểm tư vấn, thời điểm tư vấn, đối tượng thực hiện tư vấn, hình thức tư vấn. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm chung của BN nghiên cứu Đặc điểm chung của BN nghiên cứu được trình bày trong Bảng 1. BN có tuổi trung bình 55,5 , BN nhỏ nhất 6 tuổi và lớn nhất 85 tuổi. Tỷ lệ BN ung thư là nam giới chiếm đa số (73%) so với BN ung thư là nữ giới (27%). Kết quả này tương đương với kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Thị Tuyết Hạnh có tỷ lệ BN ung thư nam và nữ tương ứng là 68% và 31%[5]. Nhiều BN ung thư là nam giới có lẽ do nam giới có nhiều yếu tố nguy cơ mắc ung thư như hút thuốc, uống rượu hơn nữ giới. Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (N=100) Đặc điểm n % Tuổi Trung bình 55,5 ± 15,7 Giới Độ tuổi 6 - 85 Nam 73 73 Nữ 27 27 Nghề nghiệp Nghỉ hưu 41 41 Nông dân 36 36 Bộ đội 13 13 Công chức 10 10 Nhóm bệnh Ung thư vùng đầu – cổ 52 52 ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 415 Ung thư vùng ngực 33 33 Ung thư vùng bụng – chậu 13 13 Về nghề nghiệp, đối tượng nghỉ hưu chiếm tỷ lệ cao nhất 41%, sau đó là nông dân 36%, bộ đội tại ngũ 13% và chỉ 10% là công chức. Điều này phù hợp với BN ung thư đa số ở người cao tuổi và nước ta cơ bản vẫn là nước nông nghiệp nên số BN là nông dân chiếm tỷ lệ cao hơn so với các ngành nghề khác. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh ung thư vùng đầu - cổ (vòm, amydal, hạ họng thanh quản) chiếm tỷ lệ cao nhất (52%), sau đó đến nhóm bệnh ung thư vùng ngực (phổi, tuyến ức, thực quản) với 33% và nhóm bệnh ung thư vùng bụng-chậu (trực tràng, tiền liệt tuyến, cổ tử cung) chiếm tỷ lệ thấp nhất 13%. Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác khi nhận thấy trong khoa Xạ trị tỷ lệ BN ung thư vùng đầu-cổ chiếm tỷ lệ cao nhất do ung thư vùng đầu-cổ thường được chỉ định xạ trị nhiều hơn so với ung thư ở vị trí khác[8]. Nhu cầu cần tư vấn của BN trong nghiên cứu Nhu cầu tư vấn về chẩn đoán, phương pháp điều trị, khả nĕng chữa khỏi, thời gian sống thêm và chế độ chĕm sóc chiếm tỷ lệ cao nhất từ 90 - 93%, sau đó đến thời gian và chi phí điều trị, chế độ dinh dưỡng, dự phòng bệnh và thủ tục hành chính với tỷ lệ từ 81- 84%, thấp hơn là khả nĕng di truyền, khả nĕng lây nhiễm, ảnh hưởng tới người xung quanh của bệnh, nhu cầu tư vấn tâm lý với tỷ lệ 69 – 79%, và thấp nhất là ảnh hưởng của bệnh tới khả nĕng sinh con chỉ 49% (Biểu đồ 1). Biểu đồ 1. Kết quả khảo sát các nội dung cần tư vấn của BN Kết quả này cho thấy BN ung thư rất quan tâm đến chẩn đoán và kết quả điều trị cũng như chế độ chĕm sóc, dinh dưỡng, phòng bệnh. Khi mắc bệnh, họ rất hoang mang, lo lắng và cần được nhân viên y tế giải thích, tư vấn chu đáo để có thể yên tâm, phối hợp và tuân thủ tốt quy trình điều trị. Theo một số nghiên cứu, nếu BN ung thư được tư vấn giải thích tốt trước khi điều trị sẽ làm giảm lo lắng, tĕng tỷ lệ tuân thủ với điều trị[2]. Theo nghiên cứu của Phùng Trọng Nghị, tỷ lệ BN và người nhà cần tư vấn về phương pháp điều trị lần lượt là 90,33% và 94%, tương đương với kết quả nghiên cứu của chúng tôi[7]. Điều đó chứng tỏ BN rất quan tâm đến các phương pháp điều trị, mong muốn được lựa chọn các phương pháp điều trị tốt nhất. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Châu, 87,3% BN có nhu cầu tư vấn về khả nĕng điều trị khỏi, tỷ lệ cũng tương tự như trong nghiên cứu của chúng tôi[2]. Điều này cho thấy BN ung thư muốn được tìm hiểu sâu hơn về bệnh, tiên lượng và hiệu quả của các phương pháp ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 416 điều trị, đây cũng là một yêu cầu mang tính giải tỏa tâm lý cho BN và người nhà. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 90% BN được phỏng vấn mong muốn được tư vấn về cách chĕm sóc trong quá trình điều trị và tại nhà. Theo tác giả Nguyễn Thị Minh Châu, tỷ lệ này là 87,3%[2]. Khi xạ trị có các tác dụng phụ thường gặp như viêm da, niêm mạc gây đau đớn, khó chịu, ĕn uống khó khĕn[6]. Hơn nữa đa số BN lại điều trị ngoại trú. Do đó BN và người nhà rất quan tâm tới việc chĕm sóc tại chỗ và toàn thân nhằm hạn chế các tác dụng phụ trong quá trình điều trị. Có 83% và 81% BN có nhu cầu cần tư vấn về thời gian và chi phí điều trị. Điều trị ung thư thường kéo dài và khá tốn kém do cần kết hợp nhiều phương pháp như phẫu thuật, hóa chất và xạ trị. BN thường phải nghỉ làm ảnh hưởng đến công việc và thu nhập. Hơn nữa, hiện nay bảo hiểm y tế thường chỉ chi trả một phần chi phí điều trị nên BN và người nhà rất quan tâm tới thời gian cũng như chi phí điều trị. Khi được tư vấn đầy đủ về chi phí điều trị BN và bác sĩ sẽ lựa chọn được phương pháp điều trị phù hợp và giảm thiểu nguy cơ không có khả nĕng thanh toán hoặc kiện cáo yêu cầu thanh toán chi phí điều trị sau này. Dinh dưỡng cho BN ung thư là một vấn đề rất quan trọng. Nhiều loại ung thư có liên quan chặt chẽ với vấn đề ĕn uống của người bệnh[1]. Một số BN khi biết bị ung thư không ĕn uống đủ chất và nĕng lượng do sợ ung thư phát triển. Một số BN ĕn uống kém do bản thân bệnh ung thư dẫn đến sụt cân. Trong quá trình hóa xạ trị có tác dụng phụ viêm niêm mạc miệng, đường tiêu hóa, khô miệng, nôn và buồn nôn dẫn đến đau, ĕn uống khó khĕn, sụt cân. Do đó việc tư vấn chế độ dinh dưỡng cho BN ung thư là rất quan trọng, có ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Nhu cầu tư vấn về dinh dưỡng của BN trong nghiên cứu là 84%. Kết quả này cũng tương đương với kết quả của Phùng Trọng Nghị là 82%[7]. Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm lý của người bệnh, họ muốn nâng cao thể trạng, tĕng sức đề kháng, đảm bảo sức khỏe trong suốt quá trình điều trị. Chúng tôi cũng nhận thấy BN ung thư nào được nuôi dưỡng tốt sẽ tuân thủ tốt hơn với điều trị và có kết quả điều trị tốt hơn. Bệnh ung thư và các phương pháp điều trị như hóa chất và xạ trị đều có ảnh hưởng lớn đến khả nĕng sinh sản của BN. Tư vấn về sinh sản như việc lập gia đình, quan hệ vợ chồng, bảo quản trứng, tinh trùng cho BN trong độ tuổi sinh nở là vấn đề cần được quan tâm[1]. Tuy nhiên chỉ có 49% BN trong nghiên cứu quan tâm tới bệnh có ảnh hưởng tới sinh con hay không. Có thể giải thích điều này do đa số BN ung thư trong nghiên cứu đều có tuổi cao, ngoài độ tuổi sinh nở nên ít có nhu cầu tư vấn về nội dung này. Một số bệnh ung thư có liên quan đến yếu tố di truyền như ung thư vú, ung thư đại trực tràng. Do đó, tư vấn về di truyền cho BN và người nhà là rất cần thiết[1]. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 69% BN muốn biết đến bệnh ung thư có di truyền hay không. Điều này chứng tỏ có khá nhiều BN quan tâm đến khả nĕng mắc bệnh của người thân trong gia đình và nhân viên y tế cần tư vấn cụ thể cho BN và người nhà về vấn đề này. Nhiều BN ung thư và người nhà thường lo lắng về khả nĕng lây nhiễm bệnh và ảnh hưởng của các phương pháp điều trị như xạ trị, hóa chất đối với người xung quanh, đặc biệt là trẻ em. Cụ thể trong nghiên cứu này có 71% và 79% BN ung thư có nhu cầu tư vấn về khả nĕng lây nhiễm bệnh và ảnh hưởng tới người xung quanh. Vì vậy, việc quan tâm tư vấn cho BN ung thư và người nhà hai nội dung trên là cần thiết. Dự phòng bệnh ung thư là một vấn đề quan trọng được BN và người nhà rất quan tâm. Nhiều BN và người nhà muốn được tư vấn về chế độ ĕn uống, sinh hoạt, các thuốc dự phòng và biện pháp phát hiện sớm ung thư trước, trong và sau điều trị. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 84% BN ung thư muốn được tư vấn về phòng bệnh. Điều đó cho thấy khá nhiều BN có nhu cầu tư vấn về nội dung này. Bác sĩ và điều dưỡng cần tư vấn cho BN bỏ hút thuốc, hạn chế uống bia rượu, dùng thực phẩm sạch, hạn chế thịt đỏ và thực phẩm chế biến công nghiệp, sinh hoạt điều độ, tập luyện thể dục thường xuyên, tập thiền, yoga để nâng cao sức khỏe, dự phòng ung thư[1]. Thủ tục hành chính khi ra vào viện, tái khám định kỳ đối với BN nói chung và BN ung thư nói riêng còn khá phức tạp và cần được hướng dẫn đầy đủ cho BN. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề này còn ít được nhân viên y tế quan tâm so với các nội dung về chẩn đoán, điều trị bệnh. Trong nghiên cứu này, 83% BN được khảo sát có nhu cầu tư vấn về thủ tục hành chính. Do đó, chúng tôi cho rằng nên có nhân viên công tác xã hội tại khu vực tiếp đón tư vấn về nội dung này cho BN. Vấn đề tâm lý của BN ung thư cũng cần được quan tâm. BN ung thư thường có diễn biến tâm lý phức tạp, nhiều BN bị sốc, stress khi được chẩn đoán bị ung thư. Tại các nước phát triển, nhân viên y tế được đào tạo cách thông báo cho BN bị chẩn đoán ung thư hoặc có thông tin xấu về kết quả chẩn đoán, điều trị. Bên cạnh đó, sau khi điều trị, nhiều BN ung thư bị trầm cảm, khó hòa nhập lại với xã hội và tìm được việc làm phù hợp[1]. Có 79% BN trong nghiên cứu của chúng tôi muốn được tư vấn tâm lý. ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 417 Điều đó cho thấy nhân viên y tế cần chú trọng đến nhu cầu này của người bệnh và vai trò của nhân viên công tác xã hội là rất quan trọng giúp cho BN ung thư ổn định về tâm lý trong quá trình điều trị cũng như hòa nhập tốt hơn với xã hội sau điều trị. Địa điểm và thời điểm tư vấn Ung thư là một cĕn bệnh nguy hiểm và có tiên lượng xấu. BN và người nhà có rất nhiều câu hỏi cần được giải đáp về chẩn đoán, điều trị và tiên lượng. Do đó, BN và người nhà thường muốn giữ bí mật và được tư vấn một cách riêng tư với đủ thời gian để được bác sĩ giải đáp hết các câu hỏi này. Trong nghiên cứu này, 75% BN có nhu cầu về phòng tư vấn riêng, 78% BN mong muốn được tư vấn mỗi lần vào điều trị. Về thời điểm, BN ung thư có nhu cầu được tư vấn trong suốt quá trình điều trị. Cụ thể nhu cầu tư vấn nhiều nhất khi bắt đầu điều trị (94%), khi điều trị có đáp ứng tốt hoặc xuất hiện các triệu chứng bất thường và tác dụng phụ (93%), khi bắt đầu vào viện, kết thúc điều trị và khi điều trị có diễn biến xấu (92%). Tại các thời điểm khác BN vẫn có nhu cầu tư vấn khá cao 87 – 89% (Biểu đồ 2). Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm lý và nhu cầu cần được tư vấn của BN ung thư và người nhà trước, trong và sau điều trị. Vì vậy, nhân viên y tế cần chú ý tư vấn cho BN trong suốt quá trình chẩn đoán, điều trị và sau điều trị, đặc biệt là các thời điểm BN có nhu cầu tư vấn nhiều nhất như trước khi bắt đầu điều trị, khi khi điều trị có đáp ứng tốt hoặc xuất hiện các triệu chứng bất thường và tác dụng phụ, khi bắt đầu vào viện, kết thúc điều trị và khi điều trị có diễn biến xấu. Biểu đồ 2. Kết quả khảo sát thời điểm cần tư vấn Đối tượng thực hiện và hình thức tư vấn Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số BN mong muốn được bác sĩ điều trị trực tiếp tư vấn (95%), sau đó là chủ nhiệm khoa (94%), kỹ thuật viên (91%), điều dưỡng (88%) (Biểu đồ 3). Đây là những người luôn theo sát BN trong suốt quá trình điều trị, phát hiện và xử trí kịp thời khi xuất hiện các tác dụng phụ không mong muốn. Tuy nhiên, theo chúng tôi do bác sĩ thường khá bận rộn nên một số nội dung tư vấn như chế độ chĕm sóc, dinh dưỡng, thủ tục hành chính, tư vấn tâm lý nên đào tạo cho điều dưỡng và nhân viên công tác xã hội thực hiện sẽ phù hợp hơn. Qua đó sẽ giảm áp lực công việc với bác sĩ đồng thời giúp điều dưỡng, nhân viên công tác xã hội thực hiện đúng vai trò của mình. ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 418 Biểu đồ 3. Kết quả khảo sát đối tượng thực hiện tư vấn Về hình thức tư vấn, hầu hết BN (94%) muốn được tư vấn trực tiếp từ nhân viên y tế. Họ muốn được trao đổi trực tiếp thông tin, giải đáp những bĕn khoĕn, thắc mắc mà chỉ những người có chuyên môn sâu mới giải đáp được. Tuy nhiên, tỷ lệ BN có nhu cầu được tư vấn qua sách báo, internet và qua BN đã điều trị cũng khá cao tới 76%. Trong thời đại công nghệ, các phương tiện truyền thông có vai trò rất quan trọng trong quảng bá kiến thức và nâng cao nhận thức cho BN và người nhà, giảm bớt nhu cầu tư vấn trực tiếp cho nhân viên y tế. Hiện nay, tất cả BN điều trị tại khoa Xạ trị - Xạ phẫu đều có sổ hướng dẫn cho BN xạ trị, trong đó cung cấp các thông tin cơ bản về quy trình điều trị, các kỹ thuật điều trị, tác dụng phụ và cách dự phòng, khắc phục. Các bài viết cho BN ung thư của khoa trên trang tin điện tử của bệnh viện cũng được liên tục được cập nhật hàng tháng. KẾT LUẬN BN ung thư tại Khoa Xạ trị - xạ phẫu, Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108 có nhu cầu cao được nhân viên y tế trực tiếp tư vấn về chẩn đoán, phương pháp điều trị, thời gian sống thêm, cách chĕm sóc và chế độ dinh dưỡng. Nhân viên y tế cần được đào tạo về kỹ nĕng tư vấn và quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu tư vấn của BN ung thư. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ASCO, Communication: What Do Patients Want and Need?, Journal of Oncology Practice 4, no. 5 (September 1 2008) 249-253. 2. Nghiêm Thị Minh Châu, Nguyễn Vĕn Bằng, Nghiên cứu nhu cầu tư vấn của bệnh nhân ung thư tại Bệnh viện 103, 3. Dimoska A et al (2008), An examination of the initial cancer consultation of medical and radiation oncologists using the Cancode interaction analysis system, Br J Cancer. 2008 May 6; 98(9): 1508–1514. 4. Phạm Xuân Dũng và cs (2017) Kết quả ghi nhận ung thư quần thể Thành phố Hồ Chí Minh 1995- 2014, Tạp chí ung thư học Việt nam, số 4.2017, tr 26-33. 5. Lê Thị Tuyết Hạnh (2017) Đánh giá thực trạng và nhu cầu chĕm sóc bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối tại nhà tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Tạp chí ung thư học Việt nam, số 5.2017, tr 253-259. 6. IAEA, Radiotherapy - What patients need to know, https://www.iaea.org/resources/rpop/patients- and-public/radiotherapy. 7. Phùng Trọng Nghị, Nghiêm Thị Minh Châu (2017), Nghiên cứu nhận thức và nhu cầu tư vấn của người dân với một số bệnh ung thư thường gặp, Tạp chí ung thư học Việt nam, số 4.2017, tr 35-40. 8. Ngô Thị Tính (2017), Cơ cấu bệnh nhân đến khám và điều trị tại trung tâm ung bướu Thái Nguyên 5 nĕm, giai đoạn 2012-2016, Tạp chí ung thư học Việt nam, số 4.2017.
File đính kèm:
khao_sat_nhu_cau_tu_van_cua_benh_nhan_ung_thu_tai_khoa_xa_tr.pdf

