Khảo sát một số yếu tố liên quan stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Ung Bướu năm 2017

Mục tiêu: Khảo sát mức độ stress; một số yếu tố liên quan đến Stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm

sàng tại bệnh viện Ung Bướu năm 2017.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 225 điều dưỡng viên

công tác tại các khoa lâm sàng thuộc bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2017.

Kết quả:

Mức độ stress nghề nghiệp của điều dưỡng công tác tại các khoa lâm sàng của bệnh viện Ung bướu là

trung bình chiếm 60%, thấp là 21% và cao là 19%.

Điều dưỡng bệnh viện Ung Bướu cảm thấy stress nhất là do khối lượng công việc và các yếu tố liên quan

đến bệnh nhân và gia đình người bệnh.

Các yếu tố tình trạng hôn nhân và gia đình, tuổi tác có ý nghĩa thống kê đối với stress nghề nghiệp của

điều dưỡng (p<>

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát một số yếu tố liên quan stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Ung Bướu năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát một số yếu tố liên quan stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Ung Bướu năm 2017

Khảo sát một số yếu tố liên quan stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Ung Bướu năm 2017
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
478 
KHẢO SÁT MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN STRESS NGHỀ NGHIỆP 
CỦA ĐIỀU DƯỠNG LÂM SÀNG TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU 
NĔM 2017 
NGUYỄN HỮU MINH TIÊN1, ĐÀO HOÀNG THANH LAN2, NGUYỄN HỮU THỌ3, 
PHẠM MINH THANH4, NGUYỄN THỊ HẰNG2, MAI HUỲNH BẢO HIỀN2, NGUYỄN HỒNG DIỄM5, 
 ĐẶNG THỊ THANH HOA6, ĐẶNG HƯNG CẢNH7, TRẦN ĐẶNG NGỌC THANH8 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát mức độ stress; một số yếu tố liên quan đến Stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm 
sàng tại bệnh viện Ung Bướu nĕm 2017. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 225 điều dưỡng viên 
công tác tại các khoa lâm sàng thuộc bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh nĕm 2017. 
Kết quả: 
Mức độ stress nghề nghiệp của điều dưỡng công tác tại các khoa lâm sàng của bệnh viện Ung bướu là 
trung bình chiếm 60%, thấp là 21% và cao là 19%. 
Điều dưỡng bệnh viện Ung Bướu cảm thấy stress nhất là do khối lượng công việc và các yếu tố liên quan 
đến bệnh nhân và gia đình người bệnh. 
Các yếu tố tình trạng hôn nhân và gia đình, tuổi tác có ý nghĩa thống kê đối với stress nghề nghiệp của 
điều dưỡng (p<0.05). 
ABSTRACT 
Factors associated with stress among clinical nurses in Ho Chi Minh City Oncology Hospital in 2017 
Subject: This study aimed to identify the structure of stress levels and factors associated with stress. 
Materials and methods: About two hunred and twenty two clinical nurses belong to 17 units were carried 
out study on occupational stress among nurse. 
Results: HCMC Oncology nurses have the moderate stress level within 60 percent, 19 percent have the 
high level and 21 percent have the low level (ENSS). Most of them thought the pressure of working and the 
patients with their parents are relating with nursing stress. The factors associated with stress are marital status, 
amount of children and the ages (p<0.05). 
1
 CNĐD. Phòng HCQT - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
2
 CNĐD Phòng Điều dưỡng - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
3
 ĐDCKI. Điều dưỡng Trưởng Khoa Xạ 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
4
 ĐDCKI. Phó Trưởng Phòng Điều dưỡng - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
5
 CN. Phó Trưởng Phòng HCQT - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
6
 KTV. Phòng HCQT - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
7
 CN. Phòng Điều dưỡng - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
8
 Khoa Điều dưỡng- Kỹ thuật Y học Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Stress (Stress) nghề nghiệp là một trong những 
vấn đề sức khỏe đang được quan tâm trên thế giới 
và Việt Nam[5,2,13]. Theo viện nghiên cứu quốc gia 
Hoa kỳ về sức khỏe và an toàn nghề nghiệp, Stress 
nghề nghiệp là những phản ứng về thể chất và cảm 
xúc tiêu cực xảy ra khi có những đòi hỏi về công việc 
nhưng chưa tương xứng với nĕng lực hoặc nhu cầu 
của người làm việc[18]. Thống kê của Hiệp hội Lao 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SOC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
479 
động Hoa Kỳ cho thấy những nghề dễ gây stress 
nhất thường có yếu tố mạo hiểm, có ảnh hưởng đến 
tính mạng con người như nhân viên y tế (NVYT), 
đặc biệt là điều dưỡng (điều dưỡng)[16]. Kết quả 
nghiên cứu của Trần Thị Thúy (2011) cho thấy 
36.9% cán bộ y tế khối lâm sàng bệnh viện Ung 
bướu Hà Nội nĕm 2011 có dấu hiệu của stress[8]. 
Các điều dưỡng làm việc ở khoa Hồi sức cấp cứu có 
tần suất mắc stress cao hơn điều dưỡng làm ở các 
khoa khác[6]. 
Trong các chuyên khoa, điều dưỡng chuyên 
khoa ung thư dễ bị Stress trong công việc nhất vì 
hằng ngày điều dưỡng phải đối mặt với những bệnh 
lý nghiêm trọng, chĕm sóc các bệnh nhân giai đoạn 
cuối có hoặc không có phương pháp điều trị với nhu 
cầu chĕm sóc sâu và kéo dài sự sống. Vì vậy, các 
điều dưỡng thường trải qua cảm xúc khá mệt mỏi, 
yếu tố thúc đẩy stress nghề nghiệp xảy ra[15]. Một 
vài nghiên cứu khác cho thấy các tác nhân gây 
stress phổ biến ở điều dưỡng ung thư liên quan đến 
cái chết của bệnh nhân và quá tải công việc, thiếu 
chuẩn bị tâm lý[18,11,13,19]. 
Điều dưỡng thường bỏ qua những trải nghiệm 
cảm xúc khi chĕm sóc các bệnh nhân bị ung thư[10]. 
Điều này có thể do sự không nhận thức được 
mối liên hệ giữa công việc và sức khoẻ của họ[17]. 
Việc thiếu nhận thức về sức khoẻ dẫn đến các hành 
vi ứng phó không hiệu quả và những cảm xúc tiêu 
cực như cảm giác thất bại, áp lực liên tục và trầm 
cảm[12]. Vì vậy nếu điều dưỡng không biết ngĕn 
ngừa hoặc quản lý Stress trong công việc, họ sẽ 
không chịu đựng được áp lực và có khuynh hướng 
sẽ chuyển công tác hoặc bỏ nghề[12]. Ngoài ra, 
Stress không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất 
và tinh thần của điều dưỡng, mà còn ảnh hưởng đến 
chất lượng chĕm sóc trực tiếp trên bệnh nhân[9]. 
Người bị stress thường làm việc không có hiệu quả 
và nguy cơ bị tai nạn cao[1]. 
Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh là 
một trong những bệnh viện chuyên khoa hạng I. 
Với thực trạng quá tải bệnh nhân, không đủ cơ sở 
vật chất cũng như không đủ nguồn nhân lực y tế 
trong công tác chĕm sóc và điều trị cho bệnh nhân 
dẫn đến công tác chĕm sóc của điều dưỡng gặp 
nhiều vấn đề khó khĕn. Tuy nhiên, cho đến thời 
điểm hiện tại chưa có nghiên cứu khảo sát nào được 
thực hiện tại bệnh viện nhằm đánh giá mức độ 
stress và các yếu tố gây stress của điều dưỡng. 
Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác 
định điều dưỡng tại bệnh viên Ung Bướu có bị 
stress hay không, các yếu tố gây stress là gì. Từ đó, 
các can thiệp từ Phòng Điều dưỡng và Ban giám 
đốc sẽ được xây dựng nhằm giúp các điều dưỡng 
quản lý stress tốt hơn tại nơi làm việc và gắn bó hơn 
với nghề, góp phần công tác chĕm sóc người bệnh 
và gia đình an toàn và hiệu quả hơn. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Khảo sát mức độ stress của điều dưỡng lâm 
sàng tại bệnh viện Ung bướu tháng 10 nĕm 2017. 
Khảo sát mối liên quan giữa một số yếu tố liên 
quan đến stress của điều dưỡng lâm sàng tại bệnh 
viện Ung Bướu nĕm 2017. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh trong nghiên cứu 
Điều dưỡng trực tiếp tham gia vào công tác 
chĕm sóc tại 17 khoa lâm sàng tại bệnh viện Ung 
Bướu TP. Hồ Chí Minh. 
Điều dưỡng đã tham gia công tác tại bệnh viện 
từ 9 tháng trở lên. 
Đối tượng nghiên cứu 
Chúng tôi thực hiện khảo sát trên 225 điều 
dưỡng công tác từ 01/01/2017 đến 31/12/2017 tại 
các khoa lâm sàng thuộc bệnh viện Ung Bướu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp 
mô tả cắt ngang. Trong đó chúng tôi ghi nhận các 
đặc điểm của điều dưỡng, mức độ stress nghề 
nghiệp và các yếu tố liên quan đến stress nghề 
nghiệp của điều dưỡng lâm sàng. 
Chúng tôi chọn mẫu theo phương pháp ngẫu 
nhiên phân tầng để chọn lọc số điều dưỡng từ 17 
khoa lâm sàng. 
Khảo sát mức độ và một số yếu tố liên quan 
đến stress nghề nghiệp của điều dưỡng bằng bộ câu 
hỏi Expanded Nursing Stress Scale (ENSS) gồm 54 
câu hỏi với 8 nhóm yếu tố như sau: 
1. Đối mặt với cái chết của bệnh nhân (câu 1, 
8, 15, 24, 34, 44 và 50). 
2. Mâu thuẫn với BS (2, 9, 25, 35 và 45). 
3. Chưa có sự chuẩn bị về mặt cảm xúc (3, 10 
và 17). 
4. Các vấn đề liên quan đến đồng nghiệp ĐD 
(câu 4, 11, 18, 19, 20 và 47). 
5. Các vấn đề liên quan đến cấp trên (câu 5, 
27, 28, 37, 43, 46 và 51). 
6. Khối lượng công việc (câu 12, 21, 29, 38, 
39, 42, 48, 52 và 54). 
7. Không chắc chắn về hướng điều trị cho BN 
(câu 6, 13, 16, 22, 26, 30, 33, 36 và 40). 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
480 
8. BN và gia đình BN (câu 7, 14, 23, 31, 32, 41, 
49 và 53). 
Người tham gia nghiên cứu được yêu cầu chọn 
lựa mức độ stress theo thang điểm từ 1 đến 4 tương 
ứng với từng câu hỏi. 
Bộ câu hỏi với độ tin cậy Cronbach’s coefficient 
apha trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hà là 
0.94[3] và tiến hành kiểm tra trên 30 điều dưỡng lâm 
sàng, chúng tôi ghi nhận được Cronbach’s 
coefficient apha là 0.92. 
Dữ liệu được tính bằng phần mềm SPSS 20.0, 
phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để 
phân tích số liệu. Tần số, tỷ lệ % được sử dụng để 
mô tả giới tính, trình độ chuyên môn, khối lâm sàng. 
Giá trị trung bình, độ lệch chuẩn được sử dụng 
mô tả tuổi, số nĕm công tác, số bệnh nhân được 
điều dưỡng chĕm sóc và mức độ stress nghề nghiệp 
của điều dưỡng. 
Phương pháp ANOVA được dùng để xác định 
mối tương quan giữa stress nghề nghiệp của điều 
dưỡng và đơn vị công tác. 
Phương pháp Chi-Square được sử dụng tìm 
mối tương quan giữa stress và các yếu tố liên quan 
gây nên stress nghề nghiệp của điều dưỡng thuộc 
các khoa lâm sàng. 
Giá trị được xem là có ý nghĩa thống kê khi 
p<0.05. 
Bảng 1. Mức độ stress theo điểm trung bình. 
Điểm trung bình Mức độ stress 
1.00–<2.00 Thấp 
2.00–3.00 Trung bình 
>3.00–4.00 Cao 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Mẫu nghiên cứu của chúng tôi có tổng cộng 
225 điều dưỡng thuộc 17 khoa lâm sàng công tác tại 
bệnh viện Ung Bướu từ 01/01/2017-31/12/2017. 
Bảng 2. Một số đặc điểm dịch tễ học (n = 225) 
Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%) 
Giới tính Nam 33 14.7 Nữ 192 85.3 
Tình trạng 
hôn nhân 
Độc thân 85 37.8 
Có vợ hoặc 
chồng 109 48.4 
Ly thân/ ly 
hôn 
23 10.2 
Góa 8 3.6 
Con cái 
Đã có con 126 56.0 
Chưa có con 99 44.0 
Trình độ chuyên 
môn 
Sơ cấp 5 2.2 
Trung cấp 168 74.7 
Cử nhân 46 20.4 
Sau đại học 6 2.7 
Độ tuổi 
Dưới 25 tuổi 27 12.0 
Từ 25 – 45 
tuổi 159 70.7 
Trên 45 tuổi 39 17.3 
Trung vị tuổi 
(khoảng tuổi) 32.47 (SD = ±6.85) 
Nhận xét: 
Đa số điều dưỡng công tác tại các khoa lâm 
sàng là nữ (tỷ lệ 85.3%). 
Nhóm điều dưỡng tuổi từ 25 - 45 có tỷ lệ cao 
nhất là 70,7%. Tuổi cao nhất là 53, thấp nhất là 22. 
Tỷ lệ điều dưỡng đã lập gia đình chiếm 48.4%, 
cao hơn so với độc thân là 37.8%. 
Trình độ chuyên môn là trung cấp chiếm đa số 
(Tỷ lệ 74.7%) và vẫn còn điều dưỡng sơ cấp 
(Tỷ lệ 2.2%). 
Bảng 3. Đặc điểm thuộc công tác chuyên môn của 
điều dưỡng lâm sàng (n = 225) 
Đặc điểm 
Giá trị 
trung 
bình ( ) 
Độ lệch 
chuẩn (SD) 
Số nĕm trong nghề điều 
dưỡng 9.56 3.38 
Số nĕm làm việc tại khoa 6.82 2.63 
Lương trung bình một tháng 8.25 3.79 
Số bệnh nhân chĕm sóc 
trung bình trong một ca trực 49.92 22.34 
Nhận xét: 
Số nĕm công tác trung bình của điều dưỡng 
thuộc các khoa lâm sàng là 9.56 nĕm (SD = ± 3.38). 
Điều dưỡng chĕm sóc trung bình 50 người 
bệnh/ca trực (SD = ± 22.34). Thấp nhất là khoa 
Chĕm sóc giảm nhẹ với 8 bệnh nhân/ca trực và cao 
nhất là khoa Nội 4 với 43 bệnh nhân/ca trực. 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SOC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
481 
21%
60%
19%
Mức độ Stress Nghề nghiệp của Điều dưỡng lâm sàng (%)
Thấp Trung bình Cao
Biểu đồ 1. Phân bố mức độ stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng (%) 
Nhận xét: Đa số điều dưỡng công tác tại các khoa lâm sàng của bệnh viện Ung Bướu bị stress nghề 
nghiệp ở mức độ trung bình (Tỷ lệ 60%), mức độ thấp chiếm 19% và cao là 21%. 
Biểu đồ 2. Mức độ stress theo từng nhóm yếu tố (n = 225) 
Nhóm 1: Đối mặt với cái chết của bệnh nhân Nhóm 5: Các vấn đề liên quan đến cấp trên 
Nhóm 2: Mâu thuẫn với bác sĩ Nhóm 6: Khối lượng công việc 
Nhóm 3: Chưa có sự chuẩn bị về mặt cảm xúc Nhóm 7: Không chắc chắn về hướng điều trị cho bệnh nhân 
Nhóm 4: Các vấn đề liên quan đến đồng nghiệp điều dưỡng Nhóm 8: Bệnh nhân và gia đình bệnh nhân 
Nhận xét: 
Mức độ stress liên quan đến bệnh nhân và gia đình bệnh nhân, khối lượng công việc. 
Yếu tố liên quan đến đồng nghiệp và cấp trên có mức độ stress thấp nhất là 1.546 và 1.857. 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
482 
Bảng 4. ANOVA so sánh sự khác nhau về mức độ 
Stress nghề nghiệp của ĐD giữa các khối lâm sàng 
Nội, Ngoại, Xạ (n = 225). 
Biến 
thiên 
Tổng các 
chênh lệch 
bình phương 
Bậc 
tự do 
df 
Trung bình 
chênh lệch bình 
phương 
Giá trị 
kiểm 
định 
P 
Giữa các 
nhóm 
21.465 2 10.733 26.653 0.000 
Trong 
cùng một 
nhóm 
89.396 222 0.403 
Tổng 
cộng 110.861 224 
Nhận xét: Kết quả cho thấy có sự khác nhau về 
mức độ stress nghề nghiệp giữa 3 khối lâm sàng 
(F(2,222) = 26.653, p<0.05). 
Bảng 5. Mối liên quan giữa stress nghề nghiệp 
của điều dưỡng với các yếu tố gia đình, trình độ 
chuyên môn, con cái (n=225). 
Đặc điểm 
Stress 
cao 
n (%) 
Stress 
TB 
n (%) 
Stress 
thấp 
n (%) 
p 
Tình trạng hôn nhân 
Độc thân 11.4 65.1 8.5 
0.002 
Có vợ hoặc 
chồng 32.5 60.2 16.3 
Ly thân/ ly hôn 5.7 13.2 4.1 
Góa 1.8 3.9 2.3 
Con cái 
Đã có con 23.6 68.3 34.1 
0.016 Chưa có con 30.0 43.7 25.3 
Trình độ chuyên môn 
Sơ cấp 0.3 3.5 1.2 
0.147 
Trung cấp 55.9 77.9 34.2 
Cử nhân 7.3 27.4 11.3 
Sau đại học 0.6 4.8 0.6 
Độ tuổi 
Dưới 25 tuổi 5.1 13.6 8.3 
0.000 Từ 25-45 tuổi 48.0 79.4 31.6 
Trên 45 tuổi 9.3 22.4 7.3 
Nhận xét: 
Có mối liên quan giữa stress nghề nghiệp của 
điều dưỡng với độ tuổi, tình trạng hôn nhân và con 
cái (p<0.05). 
Giữa trình độ chuyên môn stress nghề nghiệp 
của điều dưỡng không có mối liên qua (p>0.05). 
BÀN LUẬN VÀ KẾT QUẢ 
Bàn luận 
Tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 225 
đối tượng là điều dưỡng thuộc các khoa lâm sàng tại 
bệnh viện Ung Bướu, chúng tôi có được những kết 
luận như sau: 
Tỷ lệ điều dưỡng thuộc phái nữ chiếm đa số 
(85.3%), phù hợp với nghiên cứu của tác giả Đặng 
Thị Nguyệt khi tỷ lệ nam và nữ tại bệnh có sự khác 
biệt rõ rệt với nữ là 79.6% và nam là 20.4%[4]. 
Mức độ stress nghề nghiệp của điều dưỡng 
công tác tại các khoa lâm sàng tại bệnh viện Ung 
Bướu cao hơn so với kết quả trong nghiên cứu của 
tác giả Trần Thị Thúy trên đối tượng cán bộ y tế khối 
lâm sàng bệnh viện Ung bướu Hà Nội (2011) với 
stress nghề nghiệp ở các mức độ vừa và nặng lần 
lượt là 8,1%; 0,9% trong khi nghiên cứu của chúng 
tôi là 60% và 21%[8]. 
Theo tác giả Ngô Thị Kiều My, Trần Đình Vinh, 
Đỗ Mai Hoa (2014) có đánh giá về mức độ stress 
của điều dưỡng và hộ sinh bệnh viện Phụ Sản Nhi 
Đà Nẵng, ghi nhận tỷ lệ điều dưỡng, hộ sinh có 
biểu hiện stress là 18.1%. Trong đó, tỷ lệ stress ở 
mức độ nhẹ là 9.7%, vừa là 5.7% và nặng là 2.7%[7]. 
Tỷ lệ stress nghề nghiệp điều dưỡng lâm sàng 
tại bệnh viện Ung Bướu và bệnh viện Phụ Sản Nhi 
Đà Nẵng là 4:1. 
Stress nghề nghiệp liên quan đến bệnh nhân và 
gia đình; khối lượng công việc có mức độ cao nhất 
là 2.405 và 2.379. 
Yếu tố liên quan đến đồng nghiệp và cấp trên 
có mức độ stress thấp nhất là 1.546 và 1.857. 
Có mối liên quan giữa stress nghề nghiệp giữa 
độ tuổi, tình trạng hôn nhân và con cái (p<0.05). 
Theo nghiên cứu của tác giả Đặng Thị Nguyệt [4] thì 
không có mối tương quan nào giữa các yếu tố như 
trên. Nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Kiều My (2014) 
mối liên quan giữa stress nghề nghiệp và các yếu tố 
sức khỏe, diện tích khoa/ phòng làm việc, giữa mối 
quan hệ của cấp trên và đồng nghiệp khi có ý nghĩa 
thống kê (p<.05)[7]. 
KẾT QUẢ 
Mức độ stress nghề nghiệp của điều dưỡng 
công tác tại các khoa lâm sàng của bệnh viện Ung 
bướu là trung bình. 
Điều dưỡng bệnh viện Ung Bướu cảm thấy 
stress nhất là do khối lượng công việc và các yếu tố 
liên quan đến bệnh nhân và gia đình người bệnh. 
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SOC GIẢM NHẸ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
483 
Các yếu tố tình trạng hôn nhân, con cái và độ 
tuổi có ý nghĩa thống kê đối với stress nghề nghiệp 
của điều dưỡng (p<0.05). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y Tế (2012), Bảng phân loại quốc tế bệnh tật 
Việt – Anh lần thứ 10, Vol. 10, Nhà xuất bản vĕn 
học. 
2. Lương Hữu Thông (2006), Hỏi và đáp về bệnh 
Stress, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội. 
3. Nguyễn Ngọc Hà (2014), Stress nghề nghiệp, Bộ 
Y tế - Viện sức khỏe và môi trường. 
4. Nguyệt Đặng T. (2016), Khảo sát một số yếu tố 
liên quan đến Stress nghề nghiệp của điều 
dưỡng lâm sàng bệnh viện quận 2 TP Hồ Chí 
Minh trong tháng 7 nĕm 2016, Khoa Điều dưỡng 
- Kỹ thuật Y học, Trường Đại học Y khoa Phạm 
Ngọc Thạch. 
5. Nguyễn Trung Tần (2012), Stress của nhân viên 
y tế tại bệnh viện tâm thần Tiền Giang, Luận vĕn 
thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ 
Chí Minh, Hồ Chí Minh. 
6. Trần T. N. M. (2014), "Thực trạng stress nghề 
nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ 
cử nhân vừa làm, vừa học tại trường Đại học 
Thĕng Long và Đại học Thành Tây", Tạp chí Y 
học thực hành. 4(914), tr. 115. 
7. Trần Đ. V., Ngô T. K. M., Đỗ M. H. (2014), "Tình 
trạng stress của điều dưỡng và hộ sinh Bệnh 
viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng nĕm 2014", Tạp chí Y 
tế công cộng, tr. 34. 
8. Trần T. T. (2011), Đánh giá trạng thái stress của 
cán bộ y tế khối lâm sàng bệnh viện Ung bướu 
Hà Nội nĕm 2011, Luận vĕn thạc sĩ Quản lý 
bệnh viện, ĐH Y tế công cộng, Hà Nội. 
9. Debbie Barnard, Annette Street và Anthony W 
Love (2006), "Relationships between stressors, 
work supports, and burnout among cancer 
nurses", Cancer nursing. 29(4), tr. 338-345. 
10. N. J. Bush (2009), "Compassion fatigue: are you 
at risk?", Oncol Nurs Forum. 36(1), tr. 24-8. 
11. P. Caton và P. Klemm (2006), "Introduction of 
novice oncology nurses to end-of-life care", Clin 
J Oncol Nurs. 10(5), tr. 604-8. 
12. E.C. de Carvalho, Muller, M., de Carvalho, P.B., 
& de Souza Melo, A. (2005), "Stress in the 
professional practice of oncology nurses", 
Cancer Nursing. 28, tr. 187–192. 
13. T. M. Conte (2011), "Pediatric oncology nurse 
and grief education: a telephone survey", J 
Pediatr Oncol Nurs. 28(2), tr. 93-9. 
14. F. S. Ergun, N. T. Oran và C. M. Bender (2005), 
"Quality of life of oncology nurses", Cancer Nurs. 
28(3), tr. 193-9. 
15. S. Folkman và R. S. Lazarus (1986), "Stress-
processes and depressive symptomatology", J 
Abnorm Psychol. 95(2), tr. 107-13. 
16. Howard-Ruben J Medland J, Whitaker E. (2004), 
Fostering psychosocial wellness in oncology 
nurses: addressing burn out and social support 
in the workplace, Oncol Nurs Forum. 
17. International Labour Office (2012), 
Encyclopaedia of Occupational Health and 
Safety, International Labour Office (ILO) 
Publications Center, Waldorf, truy cập ngày, tại 
trang web 
MS_113329/lang--it/index.htm. 
18. Brenda M Sabo (2008), "Adverse psychosocial 
consequences: Compassion fatigue, burnout and 
vicarious traumatization: Are nurses who provide 
palliative and hematological cancer care 
vulnerable?", Indian Journal of Palliative Care. 
14(1), tr. 23. 
19. Lawrence Murphy Steven Sauter (1999), 
Stress... at work, Vol. 4, National Institute for 
Occupational Safety and Health, 4676 Columbia 
Parkway, 8-12. 
20. MS Woonhwa Ko, RN, and Norma Kiser-Larson, 
PhD, RN (2015), "Stress Levels of Nurses in 
Oncology Outpatient Units", Journal club Article. 
20(2), tr. 158. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_mot_so_yeu_to_lien_quan_stress_nghe_nghiep_cua_dieu.pdf