Khảo sát một số đặc tính của mẫu bệnh phẩm bằng xét nghiệm chỉ số huyết thanh
Trong lĩnh vực xét nghiệm lâm sàng, kiểm soát chất lượng xét nghiệm là một vấn đề đang rất được quan
tâm nhằm đảm bảo kết quả đúng, chính xác và nhanh chóng. Tuy nhiên có nhiều yếu tố ảnh hưởng gây ra lỗi
xét nghiệm. Những lỗi này chủ yếu xảy ra ở giai đoạn trước và sau xét nghiệm với tần suất 68 - 87%. Một trong
những lỗi thường gặp trong giai đoạn trước xét nghiệm đó là các yếu tố gây nhiễu của chính mẫu xét nghiệm
như lipid máu cao, huyết thanh vàng hoặc máu bị tán huyết. Nghiên cứu được thực hiện trên 5466 mẫu bệnh
phẩm nhằm mục đích xác định các tỷ lệ chỉ số lipid (L), tán huyết (H), huyết thanh vàng (I) bằng xét nghiệm chỉ
số huyết thanh trên máy c502/cobas c8000. Kết quả nghiên cứu phát hiện được 0,7% trường hợp có chỉ số L >
150; với chỉ số I, có 1,81% mẫu có chỉ số I > 60 và 0,16% mẫu bệnh nhân có chỉ số H > 90. Đây chính là những
kết quả xét nghiệm không chính xác do ảnh hưởng của các yếu tố nhiễu của mẫu bệnh phẩm. Việc nhận biết các
yếu tố nhiễu trong mẫu xét nghiệm là rất quan trọng trong cảnh báo cho bác sỹ lâm sàng về kết quả xét nghiệm,
cũng như giúp phòng xét nghiệm tìm kiếm nguyên nhân và giải pháp để cải thiện chất lượng mẫu bệnh phẩm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát một số đặc tính của mẫu bệnh phẩm bằng xét nghiệm chỉ số huyết thanh
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019 9 KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC TÍNH CỦA MẪU BỆNH PHẨM BẰNG XÉT NGHIỆM CHỈ SỐ HUYẾT THANH Nguyễn Thị Ngọc Lan1,2, Vũ Văn Quý¹, Tạ Thành Văn1,2 Trường Đại học Y Hà Nội Bệnh viện Đại học Y Hà Nội Trong lĩnh vực xét nghiệm lâm sàng, kiểm soát chất lượng xét nghiệm là một vấn đề đang rất được quan tâm nhằm đảm bảo kết quả đúng, chính xác và nhanh chóng. Tuy nhiên có nhiều yếu tố ảnh hưởng gây ra lỗi xét nghiệm. Những lỗi này chủ yếu xảy ra ở giai đoạn trước và sau xét nghiệm với tần suất 68 - 87%. Một trong những lỗi thường gặp trong giai đoạn trước xét nghiệm đó là các yếu tố gây nhiễu của chính mẫu xét nghiệm như lipid máu cao, huyết thanh vàng hoặc máu bị tán huyết. Nghiên cứu được thực hiện trên 5466 mẫu bệnh phẩm nhằm mục đích xác định các tỷ lệ chỉ số lipid (L), tán huyết (H), huyết thanh vàng (I) bằng xét nghiệm chỉ số huyết thanh trên máy c502/cobas c8000. Kết quả nghiên cứu phát hiện được 0,7% trường hợp có chỉ số L > 150; với chỉ số I, có 1,81% mẫu có chỉ số I > 60 và 0,16% mẫu bệnh nhân có chỉ số H > 90. Đây chính là những kết quả xét nghiệm không chính xác do ảnh hưởng của các yếu tố nhiễu của mẫu bệnh phẩm. Việc nhận biết các yếu tố nhiễu trong mẫu xét nghiệm là rất quan trọng trong cảnh báo cho bác sỹ lâm sàng về kết quả xét nghiệm, cũng như giúp phòng xét nghiệm tìm kiếm nguyên nhân và giải pháp để cải thiện chất lượng mẫu bệnh phẩm. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ khóa: Chỉ số huyết thanh, Chỉ số L, Chỉ số H, Chỉ số I Kết quả xét nghiệm đóng góp khoảng 70% trong quyết định lâm sàng của bác sỹ [1]. Chính vì vậy, phòng xét nghiệm cần không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng xét nghiệm. Tuy nhiên kết quả xét nghiệm lại bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trong các giai đoạn trước xét nghiệm, xét nghiệm và sau xét nghiệm. Giai đoạn trước xét nghiệm là giai đoạn có tỷ lệ sai sót ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm lớn nhất, trong đó yếu tố ảnh hưởng do chính mẫu bệnh phẩm như tình trạng huyết tương đục, huyết tương vàng và tán huyết thường gặp trên thực hành lâm sàng [2]. Những yếu tố này có thể phát hiện bằng mắt thường thông qua màu sắc và độ đục của mẫu. Tuy nhiên rất khó có thể quan sát trên số lượng mẫu lớn. Nguyên nhân gây huyết tương đục thường do nồng độ Triglycerid tăng cao. Lipid máu tăng có thể phát hiện bằng mắt thường khi nồng độ Triglycerid trên 3,4 mmol/L [3]. Tuy nhiên, mức độ đục không tỷ lệ thuận với nồng độ Triglycerid. Ngoài ra, có một số trường hợp có tăng Triglycerid giả tạo do việc tích tụ glycerol trong và ngoài tế bào [4]. Lipid máu cao có thể ảnh hưởng đến phương pháp xét nghiệm quang phổ và phương pháp miễn dịch. Đối với phương pháp quang phổ, các phân tử lipoprotein trong mẫu bệnh phẩm có thể hấp thụ ánh sáng từ 300 đến 700 nm. Phần lớn các phương pháp xét nghiệm sử dụng dải đo này nên đều bị ảnh Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Ngọc Lan, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 07/08/2019 Ngày được chấp nhận: 10/09/2019 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 201910 hưởng tới kết quả xét nghiệm. Trong phản ứng miễn dịch, lipoprotein có thể ảnh hưởng tới phản ứng kháng nguyên – kháng thể do che phủ vị trí gắn của kháng thể [5]. Chỉ số I (huyết thanh vàng) tăng khi nồng độ bilirubin, gặp trong một số trường hợp bệnh lý như viêm gan cấp, mạn, xơ gan. Tăng bilirubin máu làm tăng độ hấp thụ của chất nền – điều này tỷ lệ với nồng độ của nó. Vì vậy, nó ảnh hưởng tới các xét nghiệm sử dụng phương pháp quang phổ [6]. Bilirubin có thể phản ứng với các hóa chất thuốc thử như H2O2 được sinh ra trong các phản ứng, gây ra giảm nồng độ creatinine, glucose, cholesterol, triglycerid và acid uric. Bilirubin cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm định lượng phosphor [7]. Tán huyết xảy ra khi các thành phần nội bào giải phóng từ hồng cầu và các tế bào máu khác vào dịch ngoại bào. Trong thực hành lâm sàng, tán huyết chủ yếu do quá trình lấy mẫu không đúng. Đây chính là một nguồn gốc có thể gây sai số cho kết quả xét nghiệm. Do nhiều thành phần trong tế bào có nồng độ cao hơn so với bên ngoài tế bào nên khi giải phóng vào trong máu làm tăng nồng độ của những chất này (ví dụ như K+, các enzyme như AST, ALT, LDH) [8]. Xét nghiệm chỉ số huyết thanh (Serum Index - SI) bằng hệ thống tự động có thể cho kết quả nhanh và chính xác ba thông số: chỉ số L, chỉ số I và chỉ số H. Mục tiêu nghiên cứu nhằm khảo sát các đặc tính của các mẫu bệnh phẩm bằng xét nghiệm chỉ số huyết tương tại Khoa Xét nghiệm – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2018 Địa điểm nghiên cứu: Khoa xét nghiệm – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội Cỡ mẫu: Trong thời gian nghiên cứu, tổng số lượng mẫu thực hiện phân tích trên hệ thống c502/c8000 được phân tích kèm theo chỉ số huyết thanh. Tổng số mẫu thu được là 5466 mẫu huyết tương chống đông bằng Lithium - Heparin. Lý do lựa chọn hệ thống c502/c8000 vì đây là một thiết bị xét nghiệm thông dụng của các PXN và được chạy với số lượng mẫu lớn tại Khoa Xét nghiệm – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Tất cả mẫu bệnh phẩm này đã được tiếp nhận tại khu vực nhận mẫu của KXN, sau khi quan sát bằng mắt thường của nhân viên nhận mẫu, những mẫu máu huyết tương có màu trắng đục hoặc vàng rõ sẽ được ghi chú lại, những mẫu tán huyết rõ sẽ được loại bỏ theo tiêu chuẩn loại bỏ mẫu bệnh phẩm của KXN. 5466 mẫu bệnh phẩm trong nghiên cứu là những mẫu đã được sàng lọc bước 1 bằng mắt thường 2. Phương pháp Phương pháp mô tả. Các chỉ số nghiên cứu - Đánh giá đặc điểm chung của mẫu, phân loại mẫu thường và mẫu cấp, mẫu nội trú/ngoại trú - Sử dụng khuyến cáo của Roche trong phiên giải kết quả xét nghiệm chỉ số huyết thanh từ kết quả thu được trên mẫu bệnh nhân [9]. + Chỉ số L > 150 có ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm. + Chỉ số H > 80 có ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm. + Chỉ số I >10 có ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm. Hóa chất, trang thiết bị - Hóa chất: Hộp thuốc thử Serum Index Gen.2 (2750 test) của hãng Roche. Nguyên lý: Dựa trên tính toán độ hấp thu của mẫu pha loãng ở cặp bước sóng nhị sắc khác nhau để biểu thị bán định lượng mức lipid huyết, tán TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019 11 huyết và huyết thanh vàng trong mẫu huyết thanh hoặc huyết tương. Máy phân tích lấy một phần mẫu bệnh phẩm và pha loãng với dung dịch muối (natri chloride 0.9 %) để đo độ hấp thu cho lipid huyết ở 660 nm (bước sóng sơ cấp) và 700 nm (bước sóng thứ cấp), cho tán huyết ở 570 nm (bước sóng sơ cấp) và 600 nm (bước sóng thứ cấp), và cho huyết thanh vàng ở 480 nm (bước sóng sơ cấp) và 505 nm (bước sóng thứ cấp). Từ các giá trị độ hấp thu này máy phân tích tính toán chỉ số huyết thanh . Hệ thống cobas c tự động tính toán giá trị chỉ số huyết thanh của mỗi mẫu đo. Giá trị chỉ số huyết thanh hiển thị và được in ra không có đơn vị. - Trang thiết bị: Máy c502/cobas c8000. Quy trình tiến hành Lựa chọn tất cả mẫu bệnh nhân được thực hiện xét nghiệm trên hệ thống c502/c8000 chạy xét nghiệm chỉ số huyết thanh. - Thu thập kết quả chỉ số huyết thanh, các đặc điểm của bệnh nhân: mẫu cấp/mẫu thường, mẫu ngoại viện/ mẫu nội viện. 3. Xử lý số liệu Xử lý số liệu trên phần mềm excel - Microsoft 2010. 4. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu tuân thủ các yêu cầu của đạo đức trong nghiên cứu y học. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm chung của mẫu Bảng 1. Một số đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu Loại xét nghiệm Loại bệnh nhân Thường quy Cấp cứu Tổng Nội trú Ngoại trú Tổng N 3997 1469 5466 1702 3764 5466 Tỷ lệ (%) 73,12 26,88 100,00 31,13 68,87 100,00 Trong nhóm nghiên cứu, về loại xét nghiệm có 73,12 % xét nghiệm thường quy. Tỷ lệ bệnh nhân ngoại trú chiếm đa số (68,87%). 2. Đặc điểm các chỉ số huyết thanh 2.1. Chỉ số lipid máu (L - độ đục) Bảng 2. Đặc điểm chỉ số L ở nhóm nghiên cứu Chỉ số Nội trú Ngoại trú Số lượng (N) Tỷ lệ (%) L < 150 1691 3737 5447 99,3 150 - 1000 11 25 36 0,66 > 1000 0 2 2 0,04 Tổng 1702 3764 5466 100,00 Trong 5466 bệnh nhân nghiên cứu, phần lớn bệnh nhân có chỉ số lipid < 500 (99,3%) – không ảnh hưởng tới kết quả xét nghiệm; số bệnh nhân có lipid máu ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm là 0,7%. Trong 38 bệnh nhân có chỉ số L > 150 phần lớn bệnh nhân là ngoại trú (27/38 bệnh nhân). TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 201912 2.2. Chỉ số huyết thanh vàng (I) Bảng 3. Đặc điểm chỉ số I ở nhóm nghiên cứu Chỉ số Nội trú Ngoại trú Số lượng (N) Tỷ lệ (%) I I < 10 295 430 725 13,27 I = 10 - 60 1148 3494 4642 84,92 I > 60 47 52 99 1,81 Tổng 1702 3764 5466 100,00 Tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số I từ 10 - 60 là 84,92% (tỷ lệ nội trú/ngoại trú = 3); chỉ số I < 10 là 13,27% và chỉ số I > 60 là 1,81% (ngoại trú/nội trú = 1,35). 2.3. Chỉ số tán huyết (H) Bảng 4. Đặc điểm chỉ số tán huyết trong nhóm bệnh nhân Chỉ số Nội trú Ngoại trú Số lượng (N) Tỷ lệ (%) H < 90 1496 3961 5457 99,84 90 - 200 7 1 8 0,15 > 200 0 1 1 0,01 Tổng 1702 3764 5466 100,00 Trong 5466 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số H < 90 chiếm tỷ lệ 99,84%, chỉ số H từ 90 - 200 chiếm tỷ lệ 0,15 % và chỉ số H > 200 chiếm tỷ lệ 0,01 %.Trong 9 bệnh nhân có chỉ số H cao ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm thì có 7 bệnh nhân ngoại trú trong đó 5/9 bệnh nhân là từ khoa cấp cứu. IV. BÀN LUẬN Trong nhóm đối tượng chúng tôi phân tích, có 73,12% bệnh nhân thường quy và 26,88% bệnh nhân cấp cứu. Tỷ lệ bệnh nhân ngoại trú chiếm 68,87%, nội trú chiếm 31,13%. Như vậy tỷ lệ bệnh nhân cấp cứu khoảng ¼ tổng lượng bệnh nhân. Thông thường tại các KXN, thời gian trả kết quả xét nghiệm cho các mẫu cấp cứu nhanh hơn so với mẫu thường quy để hỗ trợ bác sỹ lâm sàng chẩn đoán và điều trị bệnh nhân kịp thời . Với số lượng bệnh nhân lớn, nhu cầu trả kết quả chính xác và nhanh – đây là một áp lực lớn cho nhân viên của khoa xét nghiệm. Vì vậy việc áp dụng những kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trong việc hỗ trợ giảm nguyên nhân gây sai sót trong phòng xét nghiệm là rất quan trọng. Trong 5466 bệnh nhân chúng tôi khảo sát, chỉ có 0,7% các mẫu có chỉ số lipid ảnh hưởng đến chất lượng xét nghiệm. Cụ thể có 38 bệnh nhân có chỉ số L > 150.Trong đó có 27/38 trường hợp là bệnh nhân ngoại trú. Kết quả này cũng phù hợp với tác giả Simundic và cs (2010) các lỗi trong giai đoạn tiền phân tích do mẫu máu có lipid cao chiếm tỷ lệ khoảng dưới 0,5% và bệnh nhân ngoại trú có nồng độ lipid cao ảnh hưởng đến chất lượng xét nghiệm cao gấp 4 lần so với bệnh nhân nội trú [10]. Mặc dù tỷ lệ chính của các mẫu lipid cao là do các tình trạng bệnh lý (đái tháo đường, viêm tụy cấp, suy thận hoặc suy giáp), tuy nhiên một vài yếu tố của giai đoạn tiền phân tích cũng có thể góp phần làm tăng lipid máu như thời gian nhịn ăn trước khi lấy máu xét nghiệm TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019 13 hoặc bệnh nhân có sử dụng một số thuốc gây ra rối loạn chuyển hóa lipid. Việc phát hiện và quản lý những tình trạng này là một phần quan trọng để giảm sai sót trong phòng xét nghiệm [11; 12]. Theo khuyến cáo của Roche, với kết quả chỉ số L từ 150 – 500, các chỉ số xét nghiệm ảnh hưởng đầu tiên là AST và ALT, Ceruloplasmin, CRP, với hiệu ứng làm giảm kết quả các xét nghiệm này. Với mẫu có kết quả từ 500 - 1000, ngoài ảnh hưởng đến các xét nghiệm khi L > 150, còn ảnh hưởng tới rất nhiều xét nghiệm về thuốc, độc chất như Salicylat, Vancomycin, Transferrin và Creatinin. Khi L > 1000, bên cạnh tất cả các xét nghiệm kể trên đều bị ảnh hưởng, các xét nghiệm Ure và acid Uric cũng không còn chính xác [9]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số I từ 10 - 60 là 84,92% (tỷ lệ nội trú/ngoại trú = 3); chỉ số I < 10 là 13,16% và chỉ số I > 60 là 1,81% (ngoại trú/nội trú = 1,35). Theo khuyến cáo của Roche, với I từ 10 - 60, nhiều xét nghiệm đã bị ảnh hưởng như giảm giả tạo nồng độ creatinin, triglycerid và cholesterol... Nếu I > 60 có thể gây ảnh hưởng thêm tới các xét nghiệm như giảm giả hoạt độ amylase hoặc gây tăng giả nồng độ magnesium. Tăng nồng độ bilirubin là một nguồn yếu tố gây nhiễu quan trọng. Các tình trạng tăng như vậy có thể gặp ở trong rất nhiều trường hợp như viêm gan cấp, mạn, xơ gan mật, nghiện rượu hoặc đáp ứng sinh lý với rất nhiều thuốc. Vì vậy, đối với những bệnh nhân có nồng độ Bilirubin cao, bác sỹ lâm sàng cần lưu ý trong phiên giải các kết quả xét nghiệm. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số H < 90 chiếm tỷ lệ 99,84%, chỉ số H từ 90 - 200 chiếm tỷ lệ 0,15% và chỉ số H > 200 chiếm tỷ lệ 0,01%. Trong 9 bệnh nhân có chỉ số H cao thì 5/9 bệnh nhân là từ khoa cấp cứu. Như vậy, trong những bệnh nhân có chỉ số H cao, phần lớn là những bệnh nhân của khoa cấp cứu. Các nguyên nhân có thể gây tán huyết: do kỹ thuật lấy máu, do vận chuyển và bảo quản, do quá trình xử lý và ly tâm mẫu. Nghiên cứu của Usha Adiga và cs cho thấy tỷ lệ mẫu tan huyết có thể quan sát được chiếm tới 4,31% [13]. Sở dĩ có sự khác biệt này là do tại PXN nghiên cứu có sử dụng cách thức loại bỏ những mẫu tán huyết có thể quan sát được bằng mắt thường. Do đã được qua sàng lọc nên tỷ lệ mẫu tán huyết trong nghiên cứu rất thấp. Theo khuyến cáo của Roche, với H > 90, xét nghiệm ảnh hưởng đầu tiên đó là xét nghiệm K+ trong máu, sẽ làm tăng giả nồng độ K+ [9]. Đây là một xét nghiệm rất cần thiết trên lâm sàng, đặc biệt trong điều trị cấp cứu. Với chỉ số H > 200, rất nhiều kết quả xét nghiệm bị ảnh hưởng như nồng độ K+, các enzyme như AST, ALT, LDH Hiện nay, kiểm soát chất lượng mẫu xét nghiệm phần lớn là quan sát bằng mắt thường của nhân viên phòng xét nghiệm. Tuy nhiên có thể bỏ sót nhiều trường hợp do số lượng mẫu bệnh phẩm lớn hoặc không quan sát được bằng mắt thường. Áp dụng công cụ tự động trong đánh giá chất lượng mẫu như xét nghiệm chỉ số huyết thanh từ đó giúp cảnh báo cho bác sỹ lâm sàng trong phiên giải kết quả cũng như giúp phòng xét nghiệm điều tra nguyên nhân gốc rễ, hành động khắc phục để cải thiện chất lượng mẫu bệnh phẩm. V. KẾT LUẬN Trong nghiên cứu của chúng tôi, trong 5466 mẫu khảo sát bằng xét nghiệm chỉ số huyết thanh phát hiện 0,7% trường hợp có chỉ số L > 150; 1,81% mẫu có chỉ số I > 10 và 0,16% mẫu bệnh nhân có chỉ số H > 90 ảnh hưởng đến kết quả một số xét nghiệm. Lời cảm ơn Nhóm nghiên cứu cám ơn công ty Roche Diagnostic Việt Nam đã tài trợ thuốc thử Serum Index Gen.2 để thực hiện đề tài nghiên cứu này. Việc công bố kết quả nghiên cứu này không có xung đột lợi ích. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 201914 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. O'Sullivan J.W., Stevens S., Hobbs F.D.R., et al (2018). Temporal trends in use of tests in UK primary care, 2000-15: retrospective analysis of 250 million tests. BMJ, 363, k4666. 2. Julie A.H. (2012). A Review of Medical Errors in Laboratory Diagnostics and Where We Are Today. Laboratory Medicine, 43(2), 41-44. 3. Steven C. K. (2013). Chapter 5 - Hemolysis, Lipemia, and High Bilirubin: Effect on Laboratory Tests. Accurate Results in the Clinical Laboratory: A Guide to Error Detection and Correction, Elsevier, 53-62. 4. Marijn M.S., Hannah S., Wim V.B., et al (2010). An unusual case of (pseudo) hypertriglyceridaemia. NDT Plus, 3(6), 570-572. 5. Nora N. (2014). Lipemia: causes, interference mechanisms, detection and management. Biochem Med (Zagreb), (24), 1. 6. Guder W.G., F. da Fonseca-Wollheim., Heil W., et al (2009). The Haemolytic, Icteric and Lipemic Sample Recommendations Regarding their Recognition and Prevention of Clinically Relevant Interferences. Recommendations of the Working Group on Preanalytical Variables of the German Society for Clinical Chemistry and the German Society for Laboratory Medicine. J Lab Med, 24(8), 357-364. 7. Bertholf R.L., Johannsen L.M., Bazooband A., et al (2003). False-positive acetaminophen results in a hyperbilirubinemic patient. Clin Chem, 49 (4), 695-698. 8. Thomas L. (2002). Haemolysis as Influence & Interference Factor. EJIFCC, 13(4), 95-98. 9. Diagnostics R. (2017). List of interferences based on serum indices for serum and plasma. v32.0, 11 pages. 10. Simundic A.M., Nikolac N., Vukasovic I., et al (2010). The prevalence of preanalytical errors in a Croatian ISO 15189 accredited laboratory. Clin Chem Lab Med, 48(7), 1009- 1014. 11. Lippi G., Chance J.J., Church S., et al (2011). Preanalytical quality improvement: from dream to reality. Clin Chem Lab Med, 49(7), 1113-1126. 12. Plebani M., Favaloro E.J., Lippi G., et al (2012). Patient safety and quality in laboratory and hemostasis testing: a renewed loop? Semin Thromb Hemost, 38(6), 553-558. 13. Usha A. and Yogish S. (2016). Hemolytic index – A tool to measure hemolysis in vitro. Journal of Biotechnology and Biochemistry, 2(2), 49-52. Summary STUDY OF INTERFERENCES AFFECTING THE QUALITY OF TEST RESULTS BY SERUM INDEX TEST (SI TEST) Quality Assurance in Clinical Laboratory is essential to produce accurate, precise and ontime reports. Laboratory testing errors derived from many affected factors. Errors usually exist in pre-analytical and post-analytical phase with a frequency about 68-87%. One of the most common errors in pre-analytical phase is interferences in patient samples from hyperlipidemia, icterus serum and hemolysis. 5466 patient samples were tested to identify L, H, I – index by serum index test on c502/c8000 Roche Instrument. This study found 0.7% cases with high L – index > 150; 1.81% with very high I – index > 60 and 0.16% cases with high H > 90. Using SI will help to identify the quality and the interferences in testing samples. Keywords: Serum index, L-index, H-index, I-index, SI
File đính kèm:
khao_sat_mot_so_dac_tinh_cua_mau_benh_pham_bang_xet_nghiem_c.pdf

