Khảo sát một số đặc tính của mẫu bệnh phẩm bằng xét nghiệm chỉ số huyết thanh

Trong lĩnh vực xét nghiệm lâm sàng, kiểm soát chất lượng xét nghiệm là một vấn đề đang rất được quan

tâm nhằm đảm bảo kết quả đúng, chính xác và nhanh chóng. Tuy nhiên có nhiều yếu tố ảnh hưởng gây ra lỗi

xét nghiệm. Những lỗi này chủ yếu xảy ra ở giai đoạn trước và sau xét nghiệm với tần suất 68 - 87%. Một trong

những lỗi thường gặp trong giai đoạn trước xét nghiệm đó là các yếu tố gây nhiễu của chính mẫu xét nghiệm

như lipid máu cao, huyết thanh vàng hoặc máu bị tán huyết. Nghiên cứu được thực hiện trên 5466 mẫu bệnh

phẩm nhằm mục đích xác định các tỷ lệ chỉ số lipid (L), tán huyết (H), huyết thanh vàng (I) bằng xét nghiệm chỉ

số huyết thanh trên máy c502/cobas c8000. Kết quả nghiên cứu phát hiện được 0,7% trường hợp có chỉ số L >

150; với chỉ số I, có 1,81% mẫu có chỉ số I > 60 và 0,16% mẫu bệnh nhân có chỉ số H > 90. Đây chính là những

kết quả xét nghiệm không chính xác do ảnh hưởng của các yếu tố nhiễu của mẫu bệnh phẩm. Việc nhận biết các

yếu tố nhiễu trong mẫu xét nghiệm là rất quan trọng trong cảnh báo cho bác sỹ lâm sàng về kết quả xét nghiệm,

cũng như giúp phòng xét nghiệm tìm kiếm nguyên nhân và giải pháp để cải thiện chất lượng mẫu bệnh phẩm.

pdf 6 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát một số đặc tính của mẫu bệnh phẩm bằng xét nghiệm chỉ số huyết thanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát một số đặc tính của mẫu bệnh phẩm bằng xét nghiệm chỉ số huyết thanh

Khảo sát một số đặc tính của mẫu bệnh phẩm bằng xét nghiệm chỉ số huyết thanh
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 9
KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC TÍNH CỦA MẪU BỆNH PHẨM BẰNG 
XÉT NGHIỆM CHỈ SỐ HUYẾT THANH 
Nguyễn Thị Ngọc Lan1,2, Vũ Văn Quý¹, Tạ Thành Văn1,2
 Trường Đại học Y Hà Nội
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Trong lĩnh vực xét nghiệm lâm sàng, kiểm soát chất lượng xét nghiệm là một vấn đề đang rất được quan 
tâm nhằm đảm bảo kết quả đúng, chính xác và nhanh chóng. Tuy nhiên có nhiều yếu tố ảnh hưởng gây ra lỗi 
xét nghiệm. Những lỗi này chủ yếu xảy ra ở giai đoạn trước và sau xét nghiệm với tần suất 68 - 87%. Một trong 
những lỗi thường gặp trong giai đoạn trước xét nghiệm đó là các yếu tố gây nhiễu của chính mẫu xét nghiệm 
như lipid máu cao, huyết thanh vàng hoặc máu bị tán huyết. Nghiên cứu được thực hiện trên 5466 mẫu bệnh 
phẩm nhằm mục đích xác định các tỷ lệ chỉ số lipid (L), tán huyết (H), huyết thanh vàng (I) bằng xét nghiệm chỉ 
số huyết thanh trên máy c502/cobas c8000. Kết quả nghiên cứu phát hiện được 0,7% trường hợp có chỉ số L > 
150; với chỉ số I, có 1,81% mẫu có chỉ số I > 60 và 0,16% mẫu bệnh nhân có chỉ số H > 90. Đây chính là những 
kết quả xét nghiệm không chính xác do ảnh hưởng của các yếu tố nhiễu của mẫu bệnh phẩm. Việc nhận biết các 
yếu tố nhiễu trong mẫu xét nghiệm là rất quan trọng trong cảnh báo cho bác sỹ lâm sàng về kết quả xét nghiệm, 
cũng như giúp phòng xét nghiệm tìm kiếm nguyên nhân và giải pháp để cải thiện chất lượng mẫu bệnh phẩm.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Chỉ số huyết thanh, Chỉ số L, Chỉ số H, Chỉ số I
 Kết quả xét nghiệm đóng góp khoảng 70% 
trong quyết định lâm sàng của bác sỹ [1]. Chính 
vì vậy, phòng xét nghiệm cần không ngừng cải 
tiến, nâng cao chất lượng xét nghiệm. Tuy nhiên 
kết quả xét nghiệm lại bị ảnh hưởng bởi nhiều 
yếu tố trong các giai đoạn trước xét nghiệm, xét 
nghiệm và sau xét nghiệm. Giai đoạn trước xét 
nghiệm là giai đoạn có tỷ lệ sai sót ảnh hưởng 
đến kết quả xét nghiệm lớn nhất, trong đó yếu 
tố ảnh hưởng do chính mẫu bệnh phẩm như 
tình trạng huyết tương đục, huyết tương vàng 
và tán huyết thường gặp trên thực hành lâm 
sàng [2]. Những yếu tố này có thể phát hiện 
bằng mắt thường thông qua màu sắc và độ đục 
của mẫu. Tuy nhiên rất khó có thể quan sát trên 
số lượng mẫu lớn. 
Nguyên nhân gây huyết tương đục thường 
do nồng độ Triglycerid tăng cao. Lipid máu tăng 
có thể phát hiện bằng mắt thường khi nồng 
độ Triglycerid trên 3,4 mmol/L [3]. Tuy nhiên, 
mức độ đục không tỷ lệ thuận với nồng độ 
Triglycerid. Ngoài ra, có một số trường hợp có 
tăng Triglycerid giả tạo do việc tích tụ glycerol 
trong và ngoài tế bào [4]. Lipid máu cao có thể 
ảnh hưởng đến phương pháp xét nghiệm quang 
phổ và phương pháp miễn dịch. Đối với phương 
pháp quang phổ, các phân tử lipoprotein trong 
mẫu bệnh phẩm có thể hấp thụ ánh sáng từ 
300 đến 700 nm. Phần lớn các phương pháp 
xét nghiệm sử dụng dải đo này nên đều bị ảnh 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Ngọc Lan, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 07/08/2019
Ngày được chấp nhận: 10/09/2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 201910
hưởng tới kết quả xét nghiệm. Trong phản ứng 
miễn dịch, lipoprotein có thể ảnh hưởng tới 
phản ứng kháng nguyên – kháng thể do che 
phủ vị trí gắn của kháng thể [5].
Chỉ số I (huyết thanh vàng) tăng khi nồng 
độ bilirubin, gặp trong một số trường hợp bệnh 
lý như viêm gan cấp, mạn, xơ gan. Tăng 
bilirubin máu làm tăng độ hấp thụ của chất nền 
– điều này tỷ lệ với nồng độ của nó. Vì vậy, nó 
ảnh hưởng tới các xét nghiệm sử dụng phương 
pháp quang phổ [6]. Bilirubin có thể phản ứng 
với các hóa chất thuốc thử như H2O2 được sinh 
ra trong các phản ứng, gây ra giảm nồng độ 
creatinine, glucose, cholesterol, triglycerid và 
acid uric. Bilirubin cũng có thể ảnh hưởng đến 
kết quả xét nghiệm định lượng phosphor [7]. 
Tán huyết xảy ra khi các thành phần nội bào 
giải phóng từ hồng cầu và các tế bào máu khác 
vào dịch ngoại bào. Trong thực hành lâm sàng, 
tán huyết chủ yếu do quá trình lấy mẫu không 
đúng. Đây chính là một nguồn gốc có thể gây 
sai số cho kết quả xét nghiệm. Do nhiều thành 
phần trong tế bào có nồng độ cao hơn so với 
bên ngoài tế bào nên khi giải phóng vào trong 
máu làm tăng nồng độ của những chất này (ví 
dụ như K+, các enzyme như AST, ALT, LDH) 
[8].
Xét nghiệm chỉ số huyết thanh (Serum Index 
- SI) bằng hệ thống tự động có thể cho kết quả 
nhanh và chính xác ba thông số: chỉ số L, chỉ 
số I và chỉ số H. Mục tiêu nghiên cứu nhằm 
khảo sát các đặc tính của các mẫu bệnh phẩm 
bằng xét nghiệm chỉ số huyết tương tại Khoa 
Xét nghiệm – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 3 đến tháng 
5 năm 2018 
Địa điểm nghiên cứu: Khoa xét nghiệm – 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Cỡ mẫu: Trong thời gian nghiên cứu, tổng 
số lượng mẫu thực hiện phân tích trên hệ thống 
c502/c8000 được phân tích kèm theo chỉ số 
huyết thanh. Tổng số mẫu thu được là 5466 
mẫu huyết tương chống đông bằng Lithium - 
Heparin. Lý do lựa chọn hệ thống c502/c8000 
vì đây là một thiết bị xét nghiệm thông dụng của 
các PXN và được chạy với số lượng mẫu lớn 
tại Khoa Xét nghiệm – Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội.
Tất cả mẫu bệnh phẩm này đã được tiếp 
nhận tại khu vực nhận mẫu của KXN, sau 
khi quan sát bằng mắt thường của nhân viên 
nhận mẫu, những mẫu máu huyết tương có 
màu trắng đục hoặc vàng rõ sẽ được ghi chú 
lại, những mẫu tán huyết rõ sẽ được loại bỏ 
theo tiêu chuẩn loại bỏ mẫu bệnh phẩm của 
KXN. 5466 mẫu bệnh phẩm trong nghiên cứu 
là những mẫu đã được sàng lọc bước 1 bằng 
mắt thường
2. Phương pháp
Phương pháp mô tả.
Các chỉ số nghiên cứu
- Đánh giá đặc điểm chung của mẫu, phân 
loại mẫu thường và mẫu cấp, mẫu nội trú/ngoại 
trú
- Sử dụng khuyến cáo của Roche trong 
phiên giải kết quả xét nghiệm chỉ số huyết thanh 
từ kết quả thu được trên mẫu bệnh nhân [9].
+ Chỉ số L > 150 có ảnh hưởng đến kết quả 
xét nghiệm.
+ Chỉ số H > 80 có ảnh hưởng đến kết quả 
xét nghiệm.
+ Chỉ số I >10 có ảnh hưởng đến kết quả 
xét nghiệm.
Hóa chất, trang thiết bị
- Hóa chất: Hộp thuốc thử Serum Index 
Gen.2 (2750 test) của hãng Roche. Nguyên 
lý: Dựa trên tính toán độ hấp thu của mẫu pha 
loãng ở cặp bước sóng nhị sắc khác nhau để 
biểu thị bán định lượng mức lipid huyết, tán 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 11
huyết và huyết thanh vàng trong mẫu huyết 
thanh hoặc huyết tương. 
Máy phân tích lấy một phần mẫu bệnh phẩm 
và pha loãng với dung dịch muối (natri chloride 
0.9 %) để đo độ hấp thu cho lipid huyết ở 660 
nm (bước sóng sơ cấp) và 700 nm (bước sóng 
thứ cấp), cho tán huyết ở 570 nm (bước sóng 
sơ cấp) và 600 nm (bước sóng thứ cấp), và cho 
huyết thanh vàng ở 480 nm (bước sóng sơ cấp) 
và 505 nm (bước sóng thứ cấp). Từ các giá trị 
độ hấp thu này máy phân tích tính toán chỉ số 
huyết thanh . Hệ thống cobas c tự động tính 
toán giá trị chỉ số huyết thanh của mỗi mẫu đo. 
Giá trị chỉ số huyết thanh hiển thị và được in ra 
không có đơn vị.
- Trang thiết bị: Máy c502/cobas c8000.
Quy trình tiến hành
Lựa chọn tất cả mẫu bệnh nhân được thực 
hiện xét nghiệm trên hệ thống c502/c8000 chạy 
xét nghiệm chỉ số huyết thanh. - Thu thập kết 
quả chỉ số huyết thanh, các đặc điểm của bệnh 
nhân: mẫu cấp/mẫu thường, mẫu ngoại viện/
mẫu nội viện.
3. Xử lý số liệu
Xử lý số liệu trên phần mềm excel - 
Microsoft 2010.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ các yêu cầu của đạo 
đức trong nghiên cứu y học. 
III. KẾT QUẢ 
1. Đặc điểm chung của mẫu
Bảng 1. Một số đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Loại xét nghiệm Loại bệnh nhân
Thường quy Cấp cứu Tổng Nội trú Ngoại trú Tổng
N 3997 1469 5466 1702 3764 5466
Tỷ lệ (%) 73,12 26,88 100,00 31,13 68,87 100,00
Trong nhóm nghiên cứu, về loại xét nghiệm có 73,12 % xét nghiệm thường quy. Tỷ lệ bệnh nhân 
ngoại trú chiếm đa số (68,87%).
2. Đặc điểm các chỉ số huyết thanh
2.1. Chỉ số lipid máu (L - độ đục)
Bảng 2. Đặc điểm chỉ số L ở nhóm nghiên cứu
Chỉ số Nội trú Ngoại trú Số lượng (N) Tỷ lệ (%)
L
< 150 1691 3737 5447 99,3
150 - 1000 11 25 36 0,66
> 1000 0 2 2 0,04
Tổng 1702 3764 5466 100,00
Trong 5466 bệnh nhân nghiên cứu, phần lớn bệnh nhân có chỉ số lipid < 500 (99,3%) – không 
ảnh hưởng tới kết quả xét nghiệm; số bệnh nhân có lipid máu ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm 
là 0,7%.
Trong 38 bệnh nhân có chỉ số L > 150 phần lớn bệnh nhân là ngoại trú (27/38 bệnh nhân).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 201912
2.2. Chỉ số huyết thanh vàng (I)
Bảng 3. Đặc điểm chỉ số I ở nhóm nghiên cứu
Chỉ số Nội trú Ngoại trú Số lượng (N) Tỷ lệ (%)
I
I < 10 295 430 725 13,27
I = 10 - 60 1148 3494 4642 84,92
I > 60 47 52 99 1,81
Tổng 1702 3764 5466 100,00
Tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số I từ 10 - 60 là 84,92% (tỷ lệ nội trú/ngoại trú = 3); chỉ số I < 10 là 13,27% 
và chỉ số I > 60 là 1,81% (ngoại trú/nội trú = 1,35). 
2.3. Chỉ số tán huyết (H)
Bảng 4. Đặc điểm chỉ số tán huyết trong nhóm bệnh nhân
Chỉ số Nội trú Ngoại trú Số lượng (N) Tỷ lệ (%)
H
< 90 1496 3961 5457 99,84
90 - 200 7 1 8 0,15
> 200 0 1 1 0,01
Tổng 1702 3764 5466 100,00
Trong 5466 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số H < 90 chiếm tỷ lệ 99,84%, chỉ số 
H từ 90 - 200 chiếm tỷ lệ 0,15 % và chỉ số H > 200 chiếm tỷ lệ 0,01 %.Trong 9 bệnh nhân có chỉ số 
H cao ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm thì có 7 bệnh nhân ngoại trú trong đó 5/9 bệnh nhân là từ 
khoa cấp cứu.
IV. BÀN LUẬN
Trong nhóm đối tượng chúng tôi phân tích, có 
73,12% bệnh nhân thường quy và 26,88% bệnh 
nhân cấp cứu. Tỷ lệ bệnh nhân ngoại trú chiếm 
68,87%, nội trú chiếm 31,13%. Như vậy tỷ lệ 
bệnh nhân cấp cứu khoảng ¼ tổng lượng bệnh 
nhân. Thông thường tại các KXN, thời gian trả kết 
quả xét nghiệm cho các mẫu cấp cứu nhanh hơn 
so với mẫu thường quy để hỗ trợ bác sỹ lâm sàng 
chẩn đoán và điều trị bệnh nhân kịp thời . Với số 
lượng bệnh nhân lớn, nhu cầu trả kết quả chính 
xác và nhanh – đây là một áp lực lớn cho nhân 
viên của khoa xét nghiệm. Vì vậy việc áp dụng 
những kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trong việc 
hỗ trợ giảm nguyên nhân gây sai sót trong phòng 
xét nghiệm là rất quan trọng.
Trong 5466 bệnh nhân chúng tôi khảo sát, 
chỉ có 0,7% các mẫu có chỉ số lipid ảnh hưởng 
đến chất lượng xét nghiệm. Cụ thể có 38 bệnh 
nhân có chỉ số L > 150.Trong đó có 27/38 trường 
hợp là bệnh nhân ngoại trú. Kết quả này cũng 
phù hợp với tác giả Simundic và cs (2010) các 
lỗi trong giai đoạn tiền phân tích do mẫu máu có 
lipid cao chiếm tỷ lệ khoảng dưới 0,5% và bệnh 
nhân ngoại trú có nồng độ lipid cao ảnh hưởng 
đến chất lượng xét nghiệm cao gấp 4 lần so với 
bệnh nhân nội trú [10]. Mặc dù tỷ lệ chính của các 
mẫu lipid cao là do các tình trạng bệnh lý (đái tháo 
đường, viêm tụy cấp, suy thận hoặc suy giáp), 
tuy nhiên một vài yếu tố của giai đoạn tiền phân 
tích cũng có thể góp phần làm tăng lipid máu như 
thời gian nhịn ăn trước khi lấy máu xét nghiệm 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 13
hoặc bệnh nhân có sử dụng một số thuốc gây ra 
rối loạn chuyển hóa lipid. Việc phát hiện và quản 
lý những tình trạng này là một phần quan trọng 
để giảm sai sót trong phòng xét nghiệm [11; 12]. 
Theo khuyến cáo của Roche, với kết quả chỉ số 
L từ 150 – 500, các chỉ số xét nghiệm ảnh hưởng 
đầu tiên là AST và ALT, Ceruloplasmin, CRP, với 
hiệu ứng làm giảm kết quả các xét nghiệm này. 
Với mẫu có kết quả từ 500 - 1000, ngoài ảnh 
hưởng đến các xét nghiệm khi L > 150, còn ảnh 
hưởng tới rất nhiều xét nghiệm về thuốc, độc 
chất như Salicylat, Vancomycin, Transferrin và 
Creatinin. Khi L > 1000, bên cạnh tất cả các xét 
nghiệm kể trên đều bị ảnh hưởng, các xét nghiệm 
Ure và acid Uric cũng không còn chính xác [9]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh 
nhân có chỉ số I từ 10 - 60 là 84,92% (tỷ lệ nội 
trú/ngoại trú = 3); chỉ số I < 10 là 13,16% và chỉ 
số I > 60 là 1,81% (ngoại trú/nội trú = 1,35). Theo 
khuyến cáo của Roche, với I từ 10 - 60, nhiều xét 
nghiệm đã bị ảnh hưởng như giảm giả tạo nồng 
độ creatinin, triglycerid và cholesterol... Nếu I > 60 
có thể gây ảnh hưởng thêm tới các xét nghiệm 
như giảm giả hoạt độ amylase hoặc gây tăng giả 
nồng độ magnesium. Tăng nồng độ bilirubin là 
một nguồn yếu tố gây nhiễu quan trọng. Các tình 
trạng tăng như vậy có thể gặp ở trong rất nhiều 
trường hợp như viêm gan cấp, mạn, xơ gan mật, 
nghiện rượu hoặc đáp ứng sinh lý với rất nhiều 
thuốc. Vì vậy, đối với những bệnh nhân có nồng 
độ Bilirubin cao, bác sỹ lâm sàng cần lưu ý trong 
phiên giải các kết quả xét nghiệm.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh 
nhân có chỉ số H < 90 chiếm tỷ lệ 99,84%, chỉ 
số H từ 90 - 200 chiếm tỷ lệ 0,15% và chỉ số H 
> 200 chiếm tỷ lệ 0,01%. Trong 9 bệnh nhân có 
chỉ số H cao thì 5/9 bệnh nhân là từ khoa cấp 
cứu. Như vậy, trong những bệnh nhân có chỉ số 
H cao, phần lớn là những bệnh nhân của khoa 
cấp cứu. Các nguyên nhân có thể gây tán huyết: 
do kỹ thuật lấy máu, do vận chuyển và bảo quản, 
do quá trình xử lý và ly tâm mẫu. Nghiên cứu của 
Usha Adiga và cs cho thấy tỷ lệ mẫu tan huyết có 
thể quan sát được chiếm tới 4,31% [13]. Sở dĩ có 
sự khác biệt này là do tại PXN nghiên cứu có sử 
dụng cách thức loại bỏ những mẫu tán huyết có 
thể quan sát được bằng mắt thường. Do đã được 
qua sàng lọc nên tỷ lệ mẫu tán huyết trong nghiên 
cứu rất thấp. Theo khuyến cáo của Roche, với H 
> 90, xét nghiệm ảnh hưởng đầu tiên đó là xét 
nghiệm K+ trong máu, sẽ làm tăng giả nồng độ 
K+ [9]. Đây là một xét nghiệm rất cần thiết trên 
lâm sàng, đặc biệt trong điều trị cấp cứu. Với chỉ 
số H > 200, rất nhiều kết quả xét nghiệm bị ảnh 
hưởng như nồng độ K+, các enzyme như AST, 
ALT, LDH 
Hiện nay, kiểm soát chất lượng mẫu xét 
nghiệm phần lớn là quan sát bằng mắt thường 
của nhân viên phòng xét nghiệm. Tuy nhiên có 
thể bỏ sót nhiều trường hợp do số lượng mẫu 
bệnh phẩm lớn hoặc không quan sát được bằng 
mắt thường. Áp dụng công cụ tự động trong đánh 
giá chất lượng mẫu như xét nghiệm chỉ số huyết 
thanh từ đó giúp cảnh báo cho bác sỹ lâm sàng 
trong phiên giải kết quả cũng như giúp phòng xét 
nghiệm điều tra nguyên nhân gốc rễ, hành động 
khắc phục để cải thiện chất lượng mẫu bệnh 
phẩm.
V. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trong 5466 
mẫu khảo sát bằng xét nghiệm chỉ số huyết 
thanh phát hiện 0,7% trường hợp có chỉ số L > 
150; 1,81% mẫu có chỉ số I > 10 và 0,16% mẫu 
bệnh nhân có chỉ số H > 90 ảnh hưởng đến kết 
quả một số xét nghiệm.
Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu cám ơn công ty Roche 
Diagnostic Việt Nam đã tài trợ thuốc thử Serum 
Index Gen.2 để thực hiện đề tài nghiên cứu này. 
Việc công bố kết quả nghiên cứu này không có 
xung đột lợi ích.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 201914
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. O'Sullivan J.W., Stevens S., Hobbs 
F.D.R., et al (2018). Temporal trends in use of 
tests in UK primary care, 2000-15: retrospective 
analysis of 250 million tests. BMJ, 363, k4666.
2. Julie A.H. (2012). A Review of Medical 
Errors in Laboratory Diagnostics and Where We 
Are Today. Laboratory Medicine, 43(2), 41-44.
3. Steven C. K. (2013). Chapter 5 - Hemolysis, 
Lipemia, and High Bilirubin: Effect on Laboratory 
Tests. Accurate Results in the Clinical Laboratory: 
A Guide to Error Detection and Correction, 
Elsevier, 53-62.
4. Marijn M.S., Hannah S., Wim V.B., 
et al (2010). An unusual case of (pseudo)
hypertriglyceridaemia. NDT Plus, 3(6), 570-572.
5. Nora N. (2014). Lipemia: causes, 
interference mechanisms, detection and 
management. Biochem Med (Zagreb), (24), 1.
6. Guder W.G., F. da Fonseca-Wollheim., 
Heil W., et al (2009). The Haemolytic, Icteric and 
Lipemic Sample Recommendations Regarding 
their Recognition and Prevention of Clinically 
Relevant Interferences. Recommendations of 
the Working Group on Preanalytical Variables of 
the German Society for Clinical Chemistry and 
the German Society for Laboratory Medicine. J 
Lab Med, 24(8), 357-364.
7. Bertholf R.L., Johannsen L.M., 
Bazooband A., et al (2003). False-positive 
acetaminophen results in a hyperbilirubinemic 
patient. Clin Chem, 49 (4), 695-698.
8. Thomas L. (2002). Haemolysis as Influence 
& Interference Factor. EJIFCC, 13(4), 95-98.
9. Diagnostics R. (2017). List of interferences 
based on serum indices for serum and plasma. 
v32.0, 11 pages.
10. Simundic A.M., Nikolac N., Vukasovic 
I., et al (2010). The prevalence of preanalytical 
errors in a Croatian ISO 15189 accredited 
laboratory. Clin Chem Lab Med, 48(7), 1009-
1014.
11. Lippi G., Chance J.J., Church S., et al 
(2011). Preanalytical quality improvement: from 
dream to reality. Clin Chem Lab Med, 49(7), 
1113-1126.
12. Plebani M., Favaloro E.J., Lippi G., et 
al (2012). Patient safety and quality in laboratory 
and hemostasis testing: a renewed loop? Semin 
Thromb Hemost, 38(6), 553-558.
13. Usha A. and Yogish S. (2016). Hemolytic 
index – A tool to measure hemolysis in vitro. 
Journal of Biotechnology and Biochemistry, 2(2), 
49-52.
Summary
STUDY OF INTERFERENCES AFFECTING THE QUALITY OF TEST 
RESULTS BY SERUM INDEX TEST (SI TEST) 
Quality Assurance in Clinical Laboratory is essential to produce accurate, precise and 
ontime reports. Laboratory testing errors derived from many affected factors. Errors usually 
exist in pre-analytical and post-analytical phase with a frequency about 68-87%. One of 
the most common errors in pre-analytical phase is interferences in patient samples from 
hyperlipidemia, icterus serum and hemolysis. 5466 patient samples were tested to identify 
L, H, I – index by serum index test on c502/c8000 Roche Instrument. This study found 0.7% 
cases with high L – index > 150; 1.81% with very high I – index > 60 and 0.16% cases with 
high H > 90. Using SI will help to identify the quality and the interferences in testing samples.
Keywords: Serum index, L-index, H-index, I-index, SI

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_mot_so_dac_tinh_cua_mau_benh_pham_bang_xet_nghiem_c.pdf