Khảo sát một số chỉ số huyết học và chất lượng mẫu máu cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện nhi Trung Ương
Máu cuống rốn là một trong ba nguồn tế bào gốc tạo máu được dùng để ghép cho bệnh nhân hiện nay
với rất nhiều ưu điểm. Việc đánh giá chất lượng các mẫu máu cuống rốn đang được lưu trữ tại các ngân hàng
là rất quan trọng và có ý nghĩa trong việc cải tiến, nâng cao chất lượng và ứng dụng lâm sàng. Vì vậy chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu khảo sát một số chỉ số huyết học và đánh giá chất lượng mẫu máu
cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương. Nghiên cứu được thực hiện trên 83 mẫu máu cuống rốn
được lưu trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương từ năm 2016 - 2018. Chúng tôi đã xác định được giá trị một số trị
số huyết học trong các đơn vị máu cuống rốn như sau: RBC 3,14 ± 0,47 (T/L), Hemoglobin 10,6 ± 1,53 (g/l),
Hematocrit: 37,78 ± 25,87%, MCV: 113,4 ± 8,21 (fl), MCH: 34,9 ±2,65 (pg), MCHC: 308 ± 15,1 (G/L), RDW-CD:
16,7 ± 1,37 (G/L); WBC 9,64 ± 2.27 (G/L), Neutrophil 5,52 ± 1,72 (G/L), Lympho 2,83 ± 0,83 (G/L), Mono 2,83
± 0,83 (G/L), Eosin 0,31 ± 0,18 (G/L), Baso 0,05 ± 0,05 (G/L), PLT 188 ± 43 (G/L). Thể tích máu cuống rốn
thu thập trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 82,46 ± 17,96 (ml). Tổng số tế bào có nhân (TNC) của
máu cuống rốn trung bình là 10,34 ± 4,01 x 10⁸ tế bào, hiệu suất thu hồi đạt được 85,18%. Số lượng tế bào
CD34 trung bình là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào, tỉ lệ phần trăm sống tế bào là 95,5 ± 6,4%. Chỉ số huyết học máu
cuống rốn ban đầu thu được tương tự giá trị bình thường của trẻ sơ sinh, sản phẩm đơn vị máu cuống rốn lưu
trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương có chất lượng tốt, đa số đảm bảo liều ghép cho bệnh nhân theo phác đồ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát một số chỉ số huyết học và chất lượng mẫu máu cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện nhi Trung Ương
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 15TCNCYH 123 (7) - 2019 Tác giả liên hệ: Nguyễn Thanh Bình, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 12/09/2019 Ngày được chấp nhận: 26/09/2019 KHẢO SÁT MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC VÀ CHẤT LƯỢNG MẪU MÁU CUỐNG RỐN LƯU TRỮ TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG Nguyễn Thị Duyên1, Lê Thị Nghĩa³, Nguyễn Thị Thúy Mậu³, Đặng Thị Hà¹, Nguyễn Bảo Ngọc¹, Hà Thị Phương¹, Nguyễn Ngọc Phương¹, Lê Đức Minh¹, Lương Thị Nghiêm¹, Nguyễn Thanh Bình1,2 ¹Bệnh viện Nhi Trung ương ²Trường Đại học Y Hà Nội ³Khoa Y - Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội Máu cuống rốn là một trong ba nguồn tế bào gốc tạo máu được dùng để ghép cho bệnh nhân hiện nay với rất nhiều ưu điểm. Việc đánh giá chất lượng các mẫu máu cuống rốn đang được lưu trữ tại các ngân hàng là rất quan trọng và có ý nghĩa trong việc cải tiến, nâng cao chất lượng và ứng dụng lâm sàng. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu khảo sát một số chỉ số huyết học và đánh giá chất lượng mẫu máu cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương. Nghiên cứu được thực hiện trên 83 mẫu máu cuống rốn được lưu trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương từ năm 2016 - 2018. Chúng tôi đã xác định được giá trị một số trị số huyết học trong các đơn vị máu cuống rốn như sau: RBC 3,14 ± 0,47 (T/L), Hemoglobin 10,6 ± 1,53 (g/l), Hematocrit: 37,78 ± 25,87%, MCV: 113,4 ± 8,21 (fl), MCH: 34,9 ±2,65 (pg), MCHC: 308 ± 15,1 (G/L), RDW-CD: 16,7 ± 1,37 (G/L); WBC 9,64 ± 2.27 (G/L), Neutrophil 5,52 ± 1,72 (G/L), Lympho 2,83 ± 0,83 (G/L), Mono 2,83 ± 0,83 (G/L), Eosin 0,31 ± 0,18 (G/L), Baso 0,05 ± 0,05 (G/L), PLT 188 ± 43 (G/L). Thể tích máu cuống rốn thu thập trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 82,46 ± 17,96 (ml). Tổng số tế bào có nhân (TNC) của máu cuống rốn trung bình là 10,34 ± 4,01 x 10⁸ tế bào, hiệu suất thu hồi đạt được 85,18%. Số lượng tế bào CD34 trung bình là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào, tỉ lệ phần trăm sống tế bào là 95,5 ± 6,4%. Chỉ số huyết học máu cuống rốn ban đầu thu được tương tự giá trị bình thường của trẻ sơ sinh, sản phẩm đơn vị máu cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương có chất lượng tốt, đa số đảm bảo liều ghép cho bệnh nhân theo phác đồ. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Máu cuống rốn là một trong ba nguồn tế bào gốc tạo máu cho phép điều trị các bệnh lý huyết học lành tính và ác tính [1]. Trên thế giới, mặc dù nhiều quốc gia đã xây dựng các ngân hàng tủy xương, huy động số lượng lớn người hiến tủy tình nguyện tuy nhiên nhiều bệnh nhân vẫn không có nguồn tế bào gốc phù hợp, đặc biệt là các bệnh nhân đa chủng tộc, không tính đến khoảng thời gian chờ đợi kéo dài [2]. Máu cuống rốn đã mở rộng khả năng tiếp cận cấy ghép, đã và đang được sử dụng như một nguồn tế bào gốc chủ yếu sử dụng trong ghép tế bào gốc tạo máu [1]. Hơn nữa một đơn vị máu cuống rốn có thể được thu thập sau sinh mà không ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh; tế bào gốc máu cuống rốn có thể bảo quản đông lạnh và ghép cho Từ khóa: máu cuống rốn, ghép tế bào gốc tạo máu, ngân hàng máu cuống rốn, tế bào gốc TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 16 TCNCYH 123 (7) - 2019 bệnh nhân sau khi được tan đông mà không bị mất khả năng tái tạo. Những lợi thế thiết thực chính của việc sử dụng máu cuống rốn là dễ thu thập, không có rủi ro cho bà mẹ và em bé, giảm khả năng lây nhiễm và có sẵn để sử dụng ngay khi bệnh nhân có nhu cầu [1; 3]. Tuy nhiên chất lượng máu cuống rốn luôn là vấn đề cần quan tâm. Việc đánh giá chất lượng các mẫu máu cuống rốn qua kết quả các qui trình thu thập, xử lý, lưu trữ và khảo sát các chỉ số huyết học, tế bào có tầm quan trọng giúp nâng cao chất lượng các mẫu máu cuống rốn được lưu trữ tại các ngân hàng nói chung và ngân hàng máu cuống rốn, Bệnh viện Nhi Trung Ương nói riêng. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Khảo sát một số chỉ số huyết học và đánh giá chất lượng máu cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương giai đoạn 2016-2018” với mục tiêu: (1) Khảo sát chỉ số huyết học máu cuống rốn; (2) Đánh giá chất lượng máu cuống rốn lưu trữ tại tại Bệnh viện Nhi Trung Ương từ 2016 đến 2018. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Thiết kế nghiên cứu Mô tả cắt ngang 2. Phương pháp nghiên cứu Cỡ mẫu nghiên cứu: 83 mẫu máu cuống rốn được thu thập, xử lý và lưu trữ tại ngân hàng máu cuống rốn, Bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 3/2016 đến hết tháng 9/2018. Tiêu chuẩn chọn mẫu: • Tiêu chuẩn bà mẹ: + Lâm sàng: bình thường, không có tiền sử bệnh tật + Các xét nghiệm: HIV, HBV, HCV, Giang mai: âm tính • Tiêu chuẩn em bé + Tuổi thai ≥ 37 tuần + Cân nặng ≥ 2300 gram • Tiêu chuẩn mẫu máu cuống rốn: + Các xét nghiệm HIV, HBV, HCV trước và sau xử lý: âm tính + Cấy vi khuẩn trước và sau xử lý: Âm tính Các phương tiện và vật liệu nghiên cứu: - Máy xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu tự động Sysmex XN3000 - Máy phân tích tế bào dòng chảy Facs Canto II - Các dụng cụ và hóa chất khác phục vụ cho quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ mẫu máu cuống rốn Phương pháp thu thập máu cuống rốn Máu cuống rốn được thu thập ngay sau khi sản phụ sinh con và trước khi rau bong khỏi tử cung người mẹ. Phần đầu dây rốn được các bác sỹ hoặc nữ hộ sinh kẹp lại trong vòng 15 giây và cắt rời khỏi trẻ, phần dây rốn còn lại được kẹp vào, khi đó người thu thập chuẩn bị sẵn dụng cụ thu thập để thu thập mẫu trước khi rau bong bình thường. Quy trình xử lý Máu cuống rốn Mục đích: Để đưa một đơn vị Máu cuống rốn vào lưu trữ áp dụng kỹ thuật loại hồng cầu, thu hoạch phần có chứa tế bào gốc tạo máu, giảm thể tích và nạp dung dịch bảo quản để đưa vào lưu trữ đông lạnh. • Giai đoạn loại hồng cầu - Thì 1: Loại hồng cầu bằng dung dịch HES 6% với tỷ lệ 20% hoặc 40% (trọng lượng túi + thể tích thực và HES) trộn trong 15 phút sau đó ly tâm tách các lớp, thu hoạch lớp buffycoat và huyết tương TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 17TCNCYH 123 (7) - 2019 Hình 1. Minh họa phương pháp li tâm - Thì 2 : Giảm thể tích, quay li tâm mạnh giảm huyết tương để giảm thể tích đưa vào lưu trữ. • Giai đoạn giảm thể tích - Ly tâm với tốc độ mạnh, lấy lớp buffy-coat cho dung dịch bảo quản DMSO và Dextran Đánh giá chất lượng mẫu máu cuống rốn: Tính hiệu suất thu hồi tế bào gốc, số lượng CD34+ và số lượng TNC sau xử lý. 3. Các bước nghiên cứu - Tư vấn sản phụ để chọn mẫu - Thu thập máu cuống rốn - Đo các chỉ số huyết học của máu cuống rốn - Xử lý mẫu máu cuống rốn đã thu thập - Đánh giá chất lượng máu cuống rốn - Lưu mẫu đạt và loại mẫu không đạt - Thống kê và phân tích số liệu 4. Đạo đức nghiên cứu - Nghiên cứu mang lại lợi ích cho gia đình và đứa trẻ. Đặc biệt còn là nguồn hiến TBG cho cộng đồng - Sản phụ người cho đơn vị Máu cuống rốn trong nghiên cứu đã được thông tin về mục đích và nội dung trong nghiên cứu, cam kết thực hiện sàng lọc theo yêu cầu trong nghiên cứu. - Quá trình thu thập Máu cuống rốn không ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh và bà mẹ III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm tuổi sản phụ Hình 2. Biểu đồ phân bố tuổi sản phụ thu thập máu cuống rốn Các sản phụ lưu trữ máu cuống rốn tại Bệnh viện Nhi Trung Ương có tuổi trung bình 32,0 ± 4,1 tuổi, tuổi thấp nhất là 22 và cao nhất là 40 tuổi. Hầu hết các sản phụ ở độ tuổi từ 30-35 tuổi chiếm 7% 22% 43% 28% 20 - 25 26 - 29 30 - 35 36 - 40 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 18 TCNCYH 123 (7) - 2019 43%. 2. Đặc điểm tuổi thai khi sinh: Hình 3. Biểu đồ tuổi thai khi sinh Tuổi của thai nhi khi sinh trung bình là 39 ± 0,95 tuần, cao nhất ở nhóm 39 tuần chiếm 50%, thấp nhất nhóm > 40 tuần chiếm 5,9%. 3. Mối tương quan giữa tuổi mẹ và tuổi thai với thể tích máu cuống thu thập Bảng 1. Tương quan giữa tuổi mẹ và tuổi thai với thể tích máu cuống thu thập Yếu tố sản khoa n Thể tích máu cuống rốn (ml) p Tuổi mẹ 22 - 35 tuổi 65 84,13 ± 34,35 0,36135 - 40 tuổi 18 92,51 ± 33,6 Trọng lượng thai (gram) 2300 - 3000 23 86,05 ± 32,41 0,3113000 - 4200 53 86,14 ± 35,1 Thể tích máu cuống rốn thu thập được trong nghiên cứu không có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi của bà mẹ và các nhóm trọng lượng của thai nhi. 4. Giá trị các chỉ số huyết học của máu cuống rốn trước xử lý Bảng 2. Giá trị một số chỉ số huyết học máu cuống rốn Giá trị Chỉ số Trung bình (n = 83) Thấp nhất (n = 83) Cao nhất (n = 83) RBC (T/L) 3,14 ± 0,47 1,9 4,19 HBG (g/dL) 10,6 ± 1,53 6,8 14,7 HCT (%) 37,78 ±25,87 22,6 46,0 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 37 tuần 38 tuần 39 tuần 40 tuần >40 tuần tổng TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 19TCNCYH 123 (7) - 2019 Giá trị Chỉ số Trung bình (n = 83) Thấp nhất (n = 83) Cao nhất (n = 83) MCV (fl) 113,4 ± 8,21 84,1 126,8 MCH (pg) 34,9 ± 2,65 24,7 38,7 MCHC (g/L) 308 ± 15,1 263 343 RDW-CV (%) 16,7±1,37 13,9 21,8 WBC (G/L) 9,64 ± 2,27 3,79 14,3 NEUT (G/L) 5,52 ± 1,72 1,23 9,72 LYMPH (G/L) 2,83 ± 0,83 0,90 5,33 MONO (G/L) 0,86 ± 0,29 0,31 2,00 EO (G/L) 0,31 ± 0,18 0,06 1,00 BASO (G/L) 0,05 ± 0,05 0,01 0,28 PLT (G/L) 188 ± 43 106 363 5. Thể tích máu cuống rốn thu thập và sau xử lý Bảng 3. Thể tích máu cuống rốn thu thập và sau xử lý Chỉ số Giá trị Thể tích máu cuống rốn trước xử lý (ml) (n = 83) Thể tích máu cuống rốn sau xử lý (ml) (n = 83) Tỉ lệ phần trăm thể tích giảm (%) Trung bình 82,46 ± 17,96 26,54 ± 2,46 67,8 Thấp nhất 52,57 21,90 Lớn nhất 109,60 38,00 Thể tích máu cuống rốn thu thập ban đầu trung bình là 82,46 ± 17,96 ml, thấp nhất 52,57 ml, cao nhất 109,6 ml. Sau khi xử lý, hầu hết các đơn vị máu cuống đều được cô đặc về thể tích mong muốn là 25 - 30ml, giảm 67,8% thể tích so với trước xử lý TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 20 TCNCYH 123 (7) - 2019 6. Số lượng tế bào có nhân trong máu cuống rốn Bảng 4. Số lượng tế bào có nhân (TNC) trong máu cuống rốn Chỉ số Giá trị TNC trước xử lý (10⁸ tế bào) (n = 83) TNC sau xử lý (10⁸ tế bào) (n = 83) Hiệu suất xử lý Trung bình 12,14 ± 4,5 10,34 ± 4,01 85,18%Nhỏ nhất 5,51 4,07 Lớn nhất 24,33 20,30 Sau xử lý số lượng tế bào có nhân trung bình là 10,34 ± 4,01 thay đổi 14,83 % so với trước xử lí là 12,14 ± 4,5, hiệu suất thu hồi đạt 85,18%. 7. Tương quan giữa một số yếu tố sản khoa với số lượng tế bào có nhân trước xử lý Bảng 5. Tương quan giữa một số yếu tố sản khoa với số lượng tế bào có nhân trước xử lý Yếu tố ảnh hưởng Số lượng tế bào có nhân sau xử lý (108/L) Hệ số tương quan (r) p Tuổi mẹ 0,058 0,603 Tuổi thai 0,206 0,093 Trọng lượng thai 0,288 0,008 Thể tích Máu cuống rốn thu thập (ml) 0,07 0,533 Các yếu tố sản khoa như tuổi mẹ, tuổi thai và thể tích Máu cuống rốn thu thập không có tương quan tuyến tính đến số lượng tế bào có nhân sau xử lý, trọng lượng thai nhi có ảnh hưởng sự thay đổi số lượng của tế bào có nhân sau xử lý. 8. Số lượng tế bào CD34+ trong đơn vị mẫu máu cuống rốn Bảng 6. Số lượng tế bào CD34+ trong đơn vị mẫu máu cuống rốn Chỉ số Giá trị Số lượng tế bào CD34+ (10⁶ tế bào) Tỉ lệ tế bào CD34+ sống (%) Trung bình 3,49 ± 2,95 95,5 ± 6,4 Thấp nhất 0,225 53,3 Lớn nhất 20,74 100 Số lượng tế bào CD34+ trong mẫu máu cuống rốn sau xử lí là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào, với giá trị thấp nhất là 0,225 x 10⁶ tế bào , giá trị cao nhất là 20,74 x 10⁶ tế bào . Tỉ lệ tế bào CD34 sống sau xử lý, trung bình 95,5% ± 6,4%. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 21TCNCYH 123 (7) - 2019 IV. BÀN LUẬN 9. Mối liên quan giữa một số yếu tố sản khoa với số lượng tế bào CD34+ Bảng 7. Mối liên quan giữa một số yếu tố sản khoa với số lượng tế bào CD34+ Yếu tố ảnh hưởng Số lượng tế bào CD34+(n = 83) Hệ số tương quan (r) p Tuổi mẹ - 0,169 0,128 Tuổi thai - 0,055 0,655 Trọng lượng thai 0,237 0,031 Thể tích Máu cuống rốn thu thập (ml) 0,137 0,128 Số lượng tế bào nhân (x107 ) 0,610 < 0,001 Các yếu tố như tuổi mẹ, tuổi thai, thể tích Máu cuống rốn thu thập trong nghiên cứu không cho thấy có sự ảnh hưởng đến số lượng tế bào CD34+. Trong khi trọng lượng thai nhi và số lượng tế bào có nhân trước xử lý lại có ảnh hưởng tuyến tính đến CD34+. Các bà mẹ đăng ký lưu trữ máu cuống rốn và tham gia nghiên cứu của chúng tôi có độ tuổi trung bình là 32 ± 4,07 tuổi. Kết quả này khác với kết quả ở một số nghiên cứu của Ballen KK tuổi trung bình là 30 ± 3, hay nghiên cứu của Yu - Hsan Chang là 30 ± 3,9 [2; 4], sự khác biệt này có thể là do mẫu nghiên cứu của chúng tôi quá bé so với các nghiên cứu trên lần lượt là 5602 và 1269 mẫu máu cuống rốn được họ phân tích. Ngoài ra nghiên cứu chưa ghi nhận được máu cuống rốn của sản phụ tương ứng với con thứ mấy, vì các sản phụ lưu mẫu máu cuống rốn ngay cho đứa bé đầu tiên thường có độ tuổi trẻ hơn. Theo nghiên cứu của Huỳnh Nghĩa tại viện Huyết học Truyền máu TP HCM các chỉ số chất lượng đạt tốt nhất khi tuổi bà mẹ từ 25 ÷ 35 tuổi [3], độ tuổi này trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm 65%. Như vậy các sản phụ tham gia nghiên cứu của chúng tôi đang ở độ tuổi phù hợp nhất để thu được đơn vị máu cuống rốn chất lượng. Tuổi thai nhi trong nghiên cứu của chúng tôi trung bình là 39 ± 0,95 tuần, cao nhất ở nhóm 39 tuần chiếm 50%, thấp nhất nhóm > 40 tuần chiếm 5,9%. Độ tuổi này cũng gần giống như độ tuổi thai được lựa chọn trong nghiên cứu của Ballen KK là 39,8 ± 1,1 tuần, cũng trong phạm vi từ 37 đến 42 tuần [5]. Theo Net Cord 2007 tối thiểu thai 34 tuần mới được lựa chọn thu thập [6]. Còn theo một số nghiên cứu lại cho thấy tuổi thai từ 38 tuần trở lên có những ảnh hưởng tích cực đến thể tích máu cuống rốn thu thập [7]. Giá trị trung bình thể tích máu cuống rốn thu thập trong nghiên cứu của chúng tôi là 82,46 ± 17,96 (ml). So sánh với một số nghiên cứu của một số tác giá trong nước và ngoài nước chúng tôi thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với nghiên cứu của Trần Văn Bé (giá trị trung bình 59,39 ±18,68, p< 0.001), có thể do tiêu chuẩn lựa chọn mẫu chọn mẫu máu cuống rốn của chúng tôi khác nhiều so với nghiên cứu của Trần Văn Bé [8]. Trong tiêu chuẩn lựa chọn của chúng tôi có các yêu cầu về trọng lượng thai > 2300g, tuổi thai > 37 và thể tích máu cuống rốn > 50 ml, những chỉ số này cũng đã được TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 22 TCNCYH 123 (7) - 2019 chứng minh có nhiều ảnh hưởng đến thể tích máu cuống rốn thu thập trong nghiên cứu của Mancinelli F [9]. Không có sự khác biệt về thể tích trung bình máu cuống rốn thu thập của nghiên cứu với nghiên cứu của Huỳnh Nghĩa (giá trị trung bình 81,71 ± 18,73, p > 0,05) và nghiên cứu của N M- Reboredo (giá trị trung bình 84,6 ± 23,63, p > 0,04) [10,11]. Chúng tôi nghĩ rằng tiêu chuẩn lựa chọm mẫu máu cuống rốn của chúng tôi là hợp lí để có thể thu được thể tích máu cuống rốn tối ưu. Độ tuổi sản phụ trong nghiên cứu của chúng tôi nằm trong phạm vi từ 22 đến 40 tuổi, so sánh thể tích thu thập ở các nhóm tuổi của sản phụ chúng tôi thấy, không có sự khác nhau về thể tích thu thập được giữa nhóm sản phụ nhỏ hơn hoặc bằng 35 tuổi (trung bình là 84,13 ± 34,35ml) và nhóm lớn hơn 35 tuổi (trung bình là 92,51 ± 33,6ml) với p = 0,361. Các nhóm trọng lượng thai 3000 gram cũng không thấy sự khác biệt về thể tích. Kết quả này giống với kết quả nghiên cứu của Sara Y.Al- Deghaither và Huỳnh Nghĩa, không tìm thấy mối quan hệ nào giữa tuổi mẹ, trọng lượng thai với thể tích máu cuống rốn thu thập được[11,16]. Kết quả nghiên cứu này không phù hợp với một số nghiên cứu như của Mancinelli F [9]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số lượng hồng cầu (RBC) trung bình là 3,14 ± 0,47 x 1012 /L thấp hơn so với Đài Loan (3,22 ±0,44 x 1012 / L) và Iraq (3,98 ± 0,39 x 1012 /L). Các giá trị trung bình của các chỉ số khác về tế bào hồng cầu (Hb 10,17 ± 1,53 g/L, HCT là 37,78 ± 2,59 %, MCV là 111,56 ± 8,3 fl, MCH là 33,92 ± 4,3 pg, MCHC là 30,75 ± 1,5 g/l) đều thấp hơn các giá trị có được ở nghiên cứu tai Iraq (Hb là13,84 ± 1,35 g/L, HCT là 44,48 ± 4,67 %, MCV 111,87 ± 6,3 fl, MCH là 34,60 ± 2,43 pg, MCHC là 30,95 ± 1,17 g/l). Với Đài Loan, giá trị các chỉ số Hb là 11,2 ±1,5 g/L , MCV là 115 ± 6,8 fl, MCH là 34,9 ± 1,9 pg cao hơn kết quả của nghiên cứu, các chỉ số còn lại thì thấp hơn [4]. So sánh về số lượng tiểu cầu và số lượng bạch cầu với các nghiên cứu khác. Số lương bạch cầu (WBC) có giá trị trung bình là 9,64 ± 2,3 x 109/L, số lượng tiểu cầu (PLT) là 188,5 ±45 x 10⁹/L , giá trị của hai chỉ số này thấp hơn Đài loan có WBC là 9,8 ± 2,9 x 10⁹/L, PLT là 217 ± 45 x 10⁹/L, cũng thấp hơn giá trị của nghiên cứu tại Iraq có WBC là 10,19 ± 3,01x 10⁹/L, PLT là 268,35 ± 59,38 x 10⁹/L [4]. Nhìn chung số lượng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu của nghiên cứu đều thấp hơn so với hai nghiên cứu ở Iraq và Đài Loan, nhưng giá trị các chỉ số này lại không khác nhiều so với các kết quả thu được ở Đài Loan, có lẽ bởi cùng khu vực châu Á, còn các nước châu Phi các tham số này lớn hơn cũng là phù hợp. Tuy nhiên sự chênh lệch về giá trị các chỉ số này ở nghiên cứu của chúng tôi so với Đài Loan ở cùng khu vực châu Á, có thể do sự khác nhau về địa phương, nhưng cũng có thể do nghiên cứu này có mẫu số liệu nghiên cứu là n = 83 nhỏ hơn rất nhiều so với nghiên cứu tại Đài Loan là n = 5602, hoặc do chất lượng sống của các bà mẹ khác nhau, do quy trình lấy mẫu là khác nhau. Kết quả nghiên cứu này có giá trị tham khảo và nghiên cứu cần được làm với số lượng lớn hơn, khu vực rộng hơn ở Việt Nam, có thể thiết lập khoảng tham chiếu dành riêng cho Việt Nam phục vụ nghiên cứu và lâm sàng. Thể tích trung bình đơn vị máu cuống rốn sau xử lý của chúng tôi đạt 26,54 ± 2,46 ml nằm trong tiêu chuẩn hệ thống lưu trữ tự động đạt hiệu quả hạ nhiệt độ và lưu trữ tối ưu khi cho thêm chất bảo quản DMSO và Dextran, thể tích sau cùng từ 25 ÷ 30ml [4]. Tế bào nhân trong máu cuống rốn thu thập là chỉ số để đánh giá khả năng phục hồi sự tạo máu khi cấy ghép sau cả quy trình thu thập và lưu trữ máu cuống rốn. Điều này cũng có nghĩa là đây là chỉ số cần thiết nói lên tỉ lệ thành công của ca ghép tế bào gốc do vậy nó là một trong những điều TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 23TCNCYH 123 (7) - 2019 kiện để quyết định có lựa chọn một mẫu MCR hay không. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng số lượng tế bào có nhân phản ánh được số lượng tế bào CD34 trong máu cuống rốn. Sử dụng cả hai tham số CD34 và TNC không làm tăng độ nhạy và độ đặc hiệu trong việc lựa chọn mẫu máu cuống rốn chất lượng. Vì vậy để lựa chọn các đơn vị máu cuống rốn để bảo quản chỉ cần một tiêu chí là số lượng tế bào có nhân là đủ và đơn vị máu cuống rốn có hàm lượng tế bào nhân từ 8 x 10⁸ tế bào trở lên là đủ số lượng CD34 thích hợp lưu trữ và bảo quản cho mục đích ghép [15]. Tổng số tế bào có nhân của MCR thu thập là 10,34 ± 4,01 x 10⁸ tế bào. Cao nhất: 20,30 x 10⁸ tế bào, thấp nhất: 4,07 x 10⁸ tế bào. Trong nghiên cứu của Solves Pilar và cs đưa ra kết quả tương tự với giá trị trung bình là 10,4 ± 4,9 x 10⁸ tế bào [12]. Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với một số tác giả trong nước như của Huỳnh Nghĩa và Trần Trung Dũng, giá trị tương ứng của các tác giả này là 8,4 ± 0,3 x 10⁸ tế bào và 8,52 ± 3,51 x 10⁸ tế bào [3,11], như vậy có thể chúng tôi đã thực hiện quy trình thu thập máu cuống rốn tốt. Theo hiệp hội những người hiến tủy trên thế giới (WMDA) khuyến cáo đưa ra mức tối thiểu về liều ghép của MCR: TNC 2 x 10⁷ /kg, với với số lượng TNC 10,34 ± 4,01 x 10⁸ tế bào, đơn vị máu cuống rốn của chúng tôi có thể ghép cho người có cân nặng từ 30 - 70 kg. Như vậy một số đơn vị máu của chúng tôi có thể đủ để ghép cho một người lớn, và tất cả trẻ em dưới 30kg thì chắc chắn đủ ghép. Hiệu suất thu hồi của chúng tôi trung bình đạt 85,18% (> 80%), kết quả này cũng tương đương các nghiên cứu của Nhật Bản (84,6 ± 6,4%), viện Huyết học và Truyền máu Thành phố Hồ Chí Minh. Theo tác giả Huỳnh Nghĩa với 960 mẫu đều cho thấy tỷ lệ giảm TNC sau xử lý tương đương nhau đều dưới 15% [3]. Các đơn vị máu cuống rốn trong nghiên cứu của chúng tôi được xử lý trong vòng 24 h sau khi thu thập, mẫu được gửi đi đếm số lượng tế bào CD34+ và xác định tỷ lệ % sống tế bào trên máy Facs Calibur (Becton-Dickinson, Mỹ). Trong nghiên cứu của chúng tôi có kết quả về số lượng tế bào CD34+ sau xử lí là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào, với giá trị thấp nhất là 0,225 x 10⁶ tế bào , giá trị cao nhất là 20,74 x 10⁶ tế bào. Với phần trăm sống tế bào là 95,5 ± 6,4%. Nghiên cứu của Huỳnh Nghĩa số lượng tế bào CD34 là 3,36 ± 1,97 x 10⁶ tế bào, phần trăm sông tế bào là 97,6 ± 1,5 % [3]. Nghiên cứu của Nakagawa Ryuji và cs 2.28 ± 1,59 x 10⁶, phần trăm sống tế bào là 96,59 ± 2,88 % [14]. Nghiên cứu Trần Trung Dũng số lượng tế bào CD34 là 1,9 ± 1,8 x 10⁸ tế bào/l, phần trăm sống tế bào là 96,30 ± 4,6% [13]. Chỉ số TNC và CD34 là hai chỉ số quyết định sự thành công của một cuộc cấy ghép tế bào gốc. Trong nghiên cứu của chúng tôi kết quả CD34 thu được cao hơn so với nghiên cứu của một số tác giả trong và nước như Huỳnh Nghĩa, Trần Trung Dũng, Nakagawa Ryuji. Hiệp hội những người hiến tủy trên thế giới (WMDA) khuyến cáo đưa ra mức tối thiểu về liều ghép của MCR: TNC 2 x 10⁷ /kg và CD34+: 2 x 10⁵/kg cân nặng người nhận. Liều cao TNC cho bệnh nhân không mắc bệnh ác tính 3,9 x 10⁷ /kg [6] . Ở Việt Nam theo tác giả Huỳnh Nghĩa, đã chấp nhận liều ghép TNC: 1,7 x 10⁷ /kg, CD34+ : 0,9 x 10⁵ /kg [3]. Bộ y tế Mỹ có đề ra mức tế bào CD34+ tối thiểu cho ghép MCR tổng tế bào CD34+: 1,2 x 10⁶ dù cho chưa có khẳng định khoa học về ngưỡng này. Với số lượng tế bào CD34 trung bình là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào chúng tôi có thể ghép cho trẻ có cân nặng trung bình từ 2 - 17kg. Nếu chấp nhận liều CD34 theo nghiên cứu của Huỳnh Nghĩa chúng tôi có thể ghép cho trẻ 6 - 71 kg. Như vậy một số đơn vị máu cuống rốn của chúng tôi có đủ số lượng tế bào CD34 có thể đủ ghép cho một người lớn. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 24 TCNCYH 123 (7) - 2019 V. KẾT LUẬN Giá trị các chỉ số huyết học của máu cuống rốn tuơng tự ở trẻ sơ sinh. Thể tích máu cuống rốn thu thập trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 82,46 ± 17.96 (ml). Tổng số tế bào có nhân của MCR trung bình là 10,34 ± 4,01 x 10⁸ tế bào/l, hiệu suất thu hồi đạt được 85,18%. Số lượng tế bào CD34 trung bình là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào/l, tỉ lệ phần trăm sống tế bào là 95,5 ± 6,4%. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Appelbaum, F. R. (2012), Pursuing the goal of a donor for everyone in need”, N Engl J Med. 367(16), 1555 - 6. 2. Ballen, KK, et al. (2001), “Bigger is better: maternal and neonatal predictors of hematopoietic potential of umbilical cord blood units”, Bone marrow transplantation. 27(1), 7. 3. Huỳnh Nghĩa (2004), “Tình hình thu thập, sàng lọc và xử lý MCR tại BV Truyền máu –Huyết học TPHCM”, Nhà xuất bản Y học TPHCM, 5 - 1 4. Chang, Yu - Hsun, et al. (2011), “Complete Blood Count Reference Values of Cord Blood in Taiwan and the Influence of Gender and Delivery Route on Them”, Pediatrics & Neonatology. 52(3), 155 - 160. 5. FACHT, Netcord, ed. (2007), Internation Standards for Cord Blood Collection, Processsing, Testing, Banking, Selection and Release, 3rd Edition December ed. 6. Nunes R.D., Zandavalli F.M. (2015), “Association between maternal and fetal factors and quality of cord blood as a source of stem cells”, Revista brasileira de hematologia e hemoterapia. 37(1), 38 - 42. 7. Trần Văn Bé (2004), “Đánh giá ghép tế bào gốc MCR tại BV Truyền máu –Huyết học TPHCM”, Nhà xuất bản Y học TPHCM, 1 - 5. 8. Mancinelli F et al. (2006), “Optimizing umbilical cord blood collection: impact of obstetric factors versus quality of cord blood units”, Transplant Proc. 38(4), 1174 - 6. 9. N M - Reboredo, ADı´az, ACastro and RG Villaescusa (2000), “Collection, processing and cryopreservation of umbilical cord blood for unrelated transplantation”, Bone Marrow Transplantation, 26, 1263 – 1270. 10. Huỳnh Nghĩa, Trần Quốc Dũng, Lê Thị Dịu Hiền (6/2004), “Bước đầu đánh giá chất lượng sản phẩm tế bào gốc từ MCR bằng kỹ thuật đếm CD34 và nuôi cấy cụm tế bào gốc”, Nhà xuất bản Y học TPHCM, 36 - 40. 11. Atsuko O. et al (2008), “Maternal and Neonatal Factors Associated with High Yeild of Mononuclear Low Desity/CD34+ Cells from Placental/Umbilical Cord Blood”, Tohocu. J. Exp. Med, 23 - 32. 12. Trần Trung Dũng and Lê Thị Dịu Hiền (2013), “Đánh giá chất lượng MCR thu thập tại ngân hàng máu cuống rốn BV Truyền máu - Huyết học TPHCM”, Nhà xuất bản Y học TPHCM, 4,92 - 96. 13. Ryuji N. et al (2004), “Analysis of maternal and neonatal factors that influence the nucleated and CD34+ cell yield for cord blood banking”, Transfusion, 44, 262 - 267. 14. Jaime - Perez, J. C., et al. (2011), “Evaluation of volume and total nucleated cell count as cord blood selection parameters: a receiver operating characteristic curve modeling approach”, Am J Clin Pathol, 136(5), 721 - 6. 15. Jan, Rong - Hwa, et al. (2008), “Impact of maternal and neonatal factors on CD34+ cell count, total nucleated cells, and volume of cord blood”, Pediatric Transplantation. 12(8), 868 - 873. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 25TCNCYH 123 (7) - 2019 Summary STUDY SOME HEMATOLOGICAL INDEXES AND EVALUATE THE QUALITY OF UMBILICAL CORD BLOOD STORED AT NATIONAL CHILDREN HOSPITAL Umbilical cord blood is one of three sources of hematopoietic stem cells used in transplantation; umbilical cord blood provides many advantages, therefore, the study of cord blood hematology indicators and the evaluation of cord blood quality is important. We conducted this study with the aim of examining some hematological indicators and assessing the quality of umbilical cord blood samples stored at the National Children’s Hospital. The study was performed on 83 cord blood samples stored at the National Hospital of Pediatrics from 2016 - 2018. We determined the values of hematological indicators in umbilical cord blood as follows: RBC 3.14 ± 0.47 (T/L), Hemoglobin 10.6 ± 1.53 (g/l), Hematocrit: 37.78 ± 25.87 (%), MCV: 113.4 ± 8.21 (fl), MCH: 34.9 ± 2.65 (pg), MCHC: 308 ± 15.1 (G/L), RDW-CD: 16.7 ± 1.37 (G/L); WBC 9.64 ± 2.27 (G/L), Neutrophil 5.52 ± 1.72 (G/L), Lympho 2.83 ± 0.83 (G/L), Mono 2.83 ± 0.83 (G/L), Eosin 0.31 ± 0.18 (G/L) ), Baso 0.05 ± 0.05 (G/L), PLT 188 ± 43 (G/L). The mean of umbilical cord blood volume collected in our study was 82.46 ± 17.96 (ml). The average value of total nucleated cells (TNC) in umbilical cord blood is 10.34 ± 4.01 x 10⁸ cells, the recovery efficiency is 85.18%. The average number of CD34 cells is 3.49 ± 2.95 x 10⁶ cells, the percentage of viable cells is 95.5% ± 6.4%. We found that the umbilical cord blood hematological values are similar to the. Keywords: cord blood, hematopoietic stem cell transplant, cord blood bank, stem cell
File đính kèm:
khao_sat_mot_so_chi_so_huyet_hoc_va_chat_luong_mau_mau_cuong.pdf

