Khảo sát một số chỉ số huyết học và chất lượng mẫu máu cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện nhi Trung Ương

Máu cuống rốn là một trong ba nguồn tế bào gốc tạo máu được dùng để ghép cho bệnh nhân hiện nay

với rất nhiều ưu điểm. Việc đánh giá chất lượng các mẫu máu cuống rốn đang được lưu trữ tại các ngân hàng

là rất quan trọng và có ý nghĩa trong việc cải tiến, nâng cao chất lượng và ứng dụng lâm sàng. Vì vậy chúng

tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu khảo sát một số chỉ số huyết học và đánh giá chất lượng mẫu máu

cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương. Nghiên cứu được thực hiện trên 83 mẫu máu cuống rốn

được lưu trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương từ năm 2016 - 2018. Chúng tôi đã xác định được giá trị một số trị

số huyết học trong các đơn vị máu cuống rốn như sau: RBC 3,14 ± 0,47 (T/L), Hemoglobin 10,6 ± 1,53 (g/l),

Hematocrit: 37,78 ± 25,87%, MCV: 113,4 ± 8,21 (fl), MCH: 34,9 ±2,65 (pg), MCHC: 308 ± 15,1 (G/L), RDW-CD:

16,7 ± 1,37 (G/L); WBC 9,64 ± 2.27 (G/L), Neutrophil 5,52 ± 1,72 (G/L), Lympho 2,83 ± 0,83 (G/L), Mono 2,83

± 0,83 (G/L), Eosin 0,31 ± 0,18 (G/L), Baso 0,05 ± 0,05 (G/L), PLT 188 ± 43 (G/L). Thể tích máu cuống rốn

thu thập trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 82,46 ± 17,96 (ml). Tổng số tế bào có nhân (TNC) của

máu cuống rốn trung bình là 10,34 ± 4,01 x 10⁸ tế bào, hiệu suất thu hồi đạt được 85,18%. Số lượng tế bào

CD34 trung bình là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào, tỉ lệ phần trăm sống tế bào là 95,5 ± 6,4%. Chỉ số huyết học máu

cuống rốn ban đầu thu được tương tự giá trị bình thường của trẻ sơ sinh, sản phẩm đơn vị máu cuống rốn lưu

trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương có chất lượng tốt, đa số đảm bảo liều ghép cho bệnh nhân theo phác đồ

pdf 11 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát một số chỉ số huyết học và chất lượng mẫu máu cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện nhi Trung Ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát một số chỉ số huyết học và chất lượng mẫu máu cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện nhi Trung Ương

Khảo sát một số chỉ số huyết học và chất lượng mẫu máu cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện nhi Trung Ương
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
15TCNCYH 123 (7) - 2019
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thanh Bình, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 12/09/2019
Ngày được chấp nhận: 26/09/2019
KHẢO SÁT MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC 
VÀ CHẤT LƯỢNG MẪU MÁU CUỐNG RỐN LƯU TRỮ 
TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Nguyễn Thị Duyên1, Lê Thị Nghĩa³, Nguyễn Thị Thúy Mậu³,
 Đặng Thị Hà¹, Nguyễn Bảo Ngọc¹, Hà Thị Phương¹, 
Nguyễn Ngọc Phương¹, Lê Đức Minh¹, Lương Thị Nghiêm¹,
 Nguyễn Thanh Bình1,2
¹Bệnh viện Nhi Trung ương
²Trường Đại học Y Hà Nội
³Khoa Y - Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội
Máu cuống rốn là một trong ba nguồn tế bào gốc tạo máu được dùng để ghép cho bệnh nhân hiện nay 
với rất nhiều ưu điểm. Việc đánh giá chất lượng các mẫu máu cuống rốn đang được lưu trữ tại các ngân hàng 
là rất quan trọng và có ý nghĩa trong việc cải tiến, nâng cao chất lượng và ứng dụng lâm sàng. Vì vậy chúng 
tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu khảo sát một số chỉ số huyết học và đánh giá chất lượng mẫu máu 
cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương. Nghiên cứu được thực hiện trên 83 mẫu máu cuống rốn 
được lưu trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương từ năm 2016 - 2018. Chúng tôi đã xác định được giá trị một số trị 
số huyết học trong các đơn vị máu cuống rốn như sau: RBC 3,14 ± 0,47 (T/L), Hemoglobin 10,6 ± 1,53 (g/l), 
Hematocrit: 37,78 ± 25,87%, MCV: 113,4 ± 8,21 (fl), MCH: 34,9 ±2,65 (pg), MCHC: 308 ± 15,1 (G/L), RDW-CD: 
16,7 ± 1,37 (G/L); WBC 9,64 ± 2.27 (G/L), Neutrophil 5,52 ± 1,72 (G/L), Lympho 2,83 ± 0,83 (G/L), Mono 2,83 
± 0,83 (G/L), Eosin 0,31 ± 0,18 (G/L), Baso 0,05 ± 0,05 (G/L), PLT 188 ± 43 (G/L). Thể tích máu cuống rốn 
thu thập trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 82,46 ± 17,96 (ml). Tổng số tế bào có nhân (TNC) của 
máu cuống rốn trung bình là 10,34 ± 4,01 x 10⁸ tế bào, hiệu suất thu hồi đạt được 85,18%. Số lượng tế bào 
CD34 trung bình là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào, tỉ lệ phần trăm sống tế bào là 95,5 ± 6,4%. Chỉ số huyết học máu 
cuống rốn ban đầu thu được tương tự giá trị bình thường của trẻ sơ sinh, sản phẩm đơn vị máu cuống rốn lưu 
trữ tại Bệnh viện Nhi Trung Ương có chất lượng tốt, đa số đảm bảo liều ghép cho bệnh nhân theo phác đồ.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Máu cuống rốn là một trong ba nguồn tế bào 
gốc tạo máu cho phép điều trị các bệnh lý huyết 
học lành tính và ác tính [1]. Trên thế giới, mặc 
dù nhiều quốc gia đã xây dựng các ngân hàng 
tủy xương, huy động số lượng lớn người hiến 
tủy tình nguyện tuy nhiên nhiều bệnh nhân vẫn 
không có nguồn tế bào gốc phù hợp, đặc biệt 
là các bệnh nhân đa chủng tộc, không tính đến 
khoảng thời gian chờ đợi kéo dài [2]. Máu cuống 
rốn đã mở rộng khả năng tiếp cận cấy ghép, đã 
và đang được sử dụng như một nguồn tế bào 
gốc chủ yếu sử dụng trong ghép tế bào gốc tạo 
máu [1]. Hơn nữa một đơn vị máu cuống rốn 
có thể được thu thập sau sinh mà không ảnh 
hưởng đến trẻ sơ sinh; tế bào gốc máu cuống 
rốn có thể bảo quản đông lạnh và ghép cho 
Từ khóa: máu cuống rốn, ghép tế bào gốc tạo máu, ngân hàng máu cuống rốn, tế bào gốc
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
16 TCNCYH 123 (7) - 2019
bệnh nhân sau khi được tan đông mà không bị 
mất khả năng tái tạo. Những lợi thế thiết thực 
chính của việc sử dụng máu cuống rốn là dễ 
thu thập, không có rủi ro cho bà mẹ và em bé, 
giảm khả năng lây nhiễm và có sẵn để sử dụng 
ngay khi bệnh nhân có nhu cầu [1; 3]. Tuy nhiên 
chất lượng máu cuống rốn luôn là vấn đề cần 
quan tâm. Việc đánh giá chất lượng các mẫu 
máu cuống rốn qua kết quả các qui trình thu 
thập, xử lý, lưu trữ và khảo sát các chỉ số huyết 
học, tế bào có tầm quan trọng giúp nâng cao 
chất lượng các mẫu máu cuống rốn được lưu 
trữ tại các ngân hàng nói chung và ngân hàng 
máu cuống rốn, Bệnh viện Nhi Trung Ương nói 
riêng. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu 
“Khảo sát một số chỉ số huyết học và đánh giá 
chất lượng máu cuống rốn lưu trữ tại Bệnh viện 
Nhi Trung Ương giai đoạn 2016-2018” với mục 
tiêu: (1) Khảo sát chỉ số huyết học máu cuống 
rốn; (2) Đánh giá chất lượng máu cuống rốn lưu 
trữ tại tại Bệnh viện Nhi Trung Ương từ 2016 
đến 2018.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang
2. Phương pháp nghiên cứu 
Cỡ mẫu nghiên cứu: 83 mẫu máu cuống rốn 
được thu thập, xử lý và lưu trữ tại ngân hàng 
máu cuống rốn, Bệnh viện Nhi Trung Ương từ 
tháng 3/2016 đến hết tháng 9/2018.
Tiêu chuẩn chọn mẫu: 
• Tiêu chuẩn bà mẹ: 
+ Lâm sàng: bình thường, không có tiền sử 
bệnh tật
+ Các xét nghiệm: HIV, HBV, HCV, Giang 
mai: âm tính
• Tiêu chuẩn em bé
+ Tuổi thai ≥ 37 tuần
+ Cân nặng ≥ 2300 gram
• Tiêu chuẩn mẫu máu cuống rốn:
+ Các xét nghiệm HIV, HBV, HCV trước và 
sau xử lý: âm tính
+ Cấy vi khuẩn trước và sau xử lý: Âm tính
Các phương tiện và vật liệu nghiên cứu: 
- Máy xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu 
tự động Sysmex XN3000
- Máy phân tích tế bào dòng chảy Facs 
Canto II
- Các dụng cụ và hóa chất khác phục vụ 
cho quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ mẫu máu 
cuống rốn
Phương pháp thu thập máu cuống rốn 
Máu cuống rốn được thu thập ngay sau khi 
sản phụ sinh con và trước khi rau bong khỏi 
tử cung người mẹ. Phần đầu dây rốn được 
các bác sỹ hoặc nữ hộ sinh kẹp lại trong vòng 
15 giây và cắt rời khỏi trẻ, phần dây rốn còn 
lại được kẹp vào, khi đó người thu thập chuẩn 
bị sẵn dụng cụ thu thập để thu thập mẫu trước 
khi rau bong bình thường.
Quy trình xử lý Máu cuống rốn
Mục đích: Để đưa một đơn vị Máu cuống 
rốn vào lưu trữ áp dụng kỹ thuật loại hồng 
cầu, thu hoạch phần có chứa tế bào gốc tạo 
máu, giảm thể tích và nạp dung dịch bảo quản 
để đưa vào lưu trữ đông lạnh.
• Giai đoạn loại hồng cầu
- Thì 1: Loại hồng cầu bằng dung dịch HES 
6% với tỷ lệ 20% hoặc 40% (trọng lượng túi + 
thể tích thực và HES) trộn trong 15 phút sau đó 
ly tâm tách các lớp, thu hoạch lớp buffycoat và 
huyết tương
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
17TCNCYH 123 (7) - 2019
Hình 1. Minh họa phương pháp li tâm
- Thì 2 : Giảm thể tích, quay li tâm mạnh giảm huyết tương để giảm thể tích đưa vào lưu trữ.
• Giai đoạn giảm thể tích
- Ly tâm với tốc độ mạnh, lấy lớp buffy-coat 
cho dung dịch bảo quản DMSO và Dextran
Đánh giá chất lượng mẫu máu cuống rốn: 
Tính hiệu suất thu hồi tế bào gốc, số lượng 
CD34+ và số lượng TNC sau xử lý.
3. Các bước nghiên cứu
- Tư vấn sản phụ để chọn mẫu
- Thu thập máu cuống rốn
- Đo các chỉ số huyết học của máu cuống 
rốn
- Xử lý mẫu máu cuống rốn đã thu thập
- Đánh giá chất lượng máu cuống rốn
- Lưu mẫu đạt và loại mẫu không đạt
- Thống kê và phân tích số liệu
4. Đạo đức nghiên cứu
- Nghiên cứu mang lại lợi ích cho gia đình 
và đứa trẻ. Đặc biệt còn là nguồn hiến TBG cho 
cộng đồng
- Sản phụ người cho đơn vị Máu cuống rốn 
trong nghiên cứu đã được thông tin về mục 
đích và nội dung trong nghiên cứu, cam kết 
thực hiện sàng lọc theo yêu cầu trong nghiên 
cứu.
- Quá trình thu thập Máu cuống rốn không 
ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh và bà mẹ
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm tuổi sản phụ
Hình 2. Biểu đồ phân bố tuổi sản phụ thu thập máu cuống rốn
Các sản phụ lưu trữ máu cuống rốn tại Bệnh viện Nhi Trung Ương có tuổi trung bình 32,0 ± 4,1 
tuổi, tuổi thấp nhất là 22 và cao nhất là 40 tuổi. Hầu hết các sản phụ ở độ tuổi từ 30-35 tuổi chiếm 
7%
22%
43%
28% 20 - 25
26 - 29
30 - 35
36 - 40
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
18 TCNCYH 123 (7) - 2019
43%.
2. Đặc điểm tuổi thai khi sinh: 
Hình 3. Biểu đồ tuổi thai khi sinh
Tuổi của thai nhi khi sinh trung bình là 39 ± 0,95 tuần, cao nhất ở nhóm 39 tuần chiếm 50%, thấp 
nhất nhóm > 40 tuần chiếm 5,9%.
3. Mối tương quan giữa tuổi mẹ và tuổi thai với thể tích máu cuống thu thập
Bảng 1. Tương quan giữa tuổi mẹ và tuổi thai với thể tích máu cuống thu thập
Yếu tố sản khoa n
Thể tích máu cuống rốn 
(ml)
p
Tuổi mẹ
22 - 35 tuổi 65 84,13 ± 34,35
0,36135 - 40 tuổi 18 92,51 ± 33,6
Trọng lượng thai 
(gram)
2300 - 3000 23 86,05 ± 32,41
0,3113000 - 4200 53 86,14 ± 35,1
Thể tích máu cuống rốn thu thập được trong nghiên cứu không có sự khác biệt giữa các nhóm 
tuổi của bà mẹ và các nhóm trọng lượng của thai nhi.
4. Giá trị các chỉ số huyết học của máu cuống rốn trước xử lý
Bảng 2. Giá trị một số chỉ số huyết học máu cuống rốn
 Giá trị
Chỉ số
Trung bình 
(n = 83)
Thấp nhất 
(n = 83)
Cao nhất
 (n = 83)
RBC (T/L) 3,14 ± 0,47 1,9 4,19
HBG (g/dL) 10,6 ± 1,53 6,8 14,7
HCT (%) 37,78 ±25,87 22,6 46,0
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
37 tuần 38 tuần 39 tuần 40 tuần >40 tuần tổng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
19TCNCYH 123 (7) - 2019
 Giá trị
Chỉ số
Trung bình 
(n = 83)
Thấp nhất 
(n = 83)
Cao nhất
 (n = 83)
MCV (fl) 113,4 ± 8,21 84,1 126,8
MCH (pg) 34,9 ± 2,65 24,7 38,7
MCHC (g/L) 308 ± 15,1 263 343
RDW-CV (%) 16,7±1,37 13,9 21,8
WBC (G/L) 9,64 ± 2,27 3,79 14,3
NEUT (G/L) 5,52 ± 1,72 1,23 9,72
LYMPH (G/L) 2,83 ± 0,83 0,90 5,33
MONO (G/L) 0,86 ± 0,29 0,31 2,00
EO (G/L) 0,31 ± 0,18 0,06 1,00
BASO (G/L) 0,05 ± 0,05 0,01 0,28
PLT (G/L) 188 ± 43 106 363
5. Thể tích máu cuống rốn thu thập và sau xử lý
Bảng 3. Thể tích máu cuống rốn thu thập và sau xử lý
 Chỉ số 
Giá trị
Thể tích máu cuống rốn 
trước xử lý (ml)
(n = 83)
Thể tích máu cuống 
rốn sau xử lý (ml)
(n = 83)
Tỉ lệ phần 
trăm thể 
tích giảm 
(%)
Trung bình 82,46 ± 17,96 26,54 ± 2,46
 67,8
Thấp nhất 52,57 21,90
Lớn nhất 109,60 38,00
Thể tích máu cuống rốn thu thập ban đầu trung bình là 82,46 ± 17,96 ml, thấp nhất 52,57 ml, cao 
nhất 109,6 ml. Sau khi xử lý, hầu hết các đơn vị máu cuống đều được cô đặc về thể tích mong muốn 
là 25 - 30ml, giảm 67,8% thể tích so với trước xử lý
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
20 TCNCYH 123 (7) - 2019
6. Số lượng tế bào có nhân trong máu cuống rốn
Bảng 4. Số lượng tế bào có nhân (TNC) trong máu cuống rốn
Chỉ số
Giá trị
TNC trước xử lý 
(10⁸ tế bào) 
(n = 83)
TNC sau xử lý
(10⁸ tế bào) 
(n = 83)
Hiệu suất xử lý
Trung bình 12,14 ± 4,5 10,34 ± 4,01
85,18%Nhỏ nhất 5,51 4,07
Lớn nhất 24,33 20,30
Sau xử lý số lượng tế bào có nhân trung bình là 10,34 ± 4,01 thay đổi 14,83 % so với trước xử lí 
là 12,14 ± 4,5, hiệu suất thu hồi đạt 85,18%. 
7. Tương quan giữa một số yếu tố sản khoa với số lượng tế bào có nhân trước xử lý 
Bảng 5. Tương quan giữa một số yếu tố sản khoa với số lượng tế bào có nhân trước xử lý
Yếu tố ảnh hưởng
Số lượng tế bào có nhân sau xử lý (108/L)
Hệ số tương quan (r) p
Tuổi mẹ 0,058 0,603
Tuổi thai 0,206 0,093
Trọng lượng thai 0,288 0,008
Thể tích Máu cuống rốn thu thập 
(ml)
0,07 0,533
Các yếu tố sản khoa như tuổi mẹ, tuổi thai và thể tích Máu cuống rốn thu thập không có tương 
quan tuyến tính đến số lượng tế bào có nhân sau xử lý, trọng lượng thai nhi có ảnh hưởng sự thay 
đổi số lượng của tế bào có nhân sau xử lý.
8. Số lượng tế bào CD34+ trong đơn vị mẫu máu cuống rốn
Bảng 6. Số lượng tế bào CD34+ trong đơn vị mẫu máu cuống rốn
 Chỉ số
Giá trị
Số lượng tế bào CD34+
(10⁶ tế bào)
Tỉ lệ tế bào 
CD34+ sống (%)
Trung bình 3,49 ± 2,95 95,5 ± 6,4
Thấp nhất 0,225 53,3
Lớn nhất 20,74 100
Số lượng tế bào CD34+ trong mẫu máu cuống rốn sau xử lí là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào, với giá 
trị thấp nhất là 0,225 x 10⁶ tế bào , giá trị cao nhất là 20,74 x 10⁶ tế bào . Tỉ lệ tế bào CD34 sống sau 
xử lý, trung bình 95,5% ± 6,4%. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
21TCNCYH 123 (7) - 2019
IV. BÀN LUẬN
9. Mối liên quan giữa một số yếu tố sản khoa với số lượng tế bào CD34+
Bảng 7. Mối liên quan giữa một số yếu tố sản khoa với số lượng tế bào CD34+
Yếu tố ảnh hưởng
Số lượng tế bào CD34+(n = 83)
Hệ số tương quan (r) p
Tuổi mẹ - 0,169 0,128
Tuổi thai - 0,055 0,655
Trọng lượng thai 0,237 0,031
Thể tích Máu cuống rốn thu thập (ml) 0,137 0,128
Số lượng tế bào nhân (x107 ) 0,610 < 0,001
Các yếu tố như tuổi mẹ, tuổi thai, thể tích Máu cuống rốn thu thập trong nghiên cứu không cho 
thấy có sự ảnh hưởng đến số lượng tế bào CD34+. Trong khi trọng lượng thai nhi và số lượng tế 
bào có nhân trước xử lý lại có ảnh hưởng tuyến tính đến CD34+.
Các bà mẹ đăng ký lưu trữ máu cuống rốn 
và tham gia nghiên cứu của chúng tôi có độ tuổi 
trung bình là 32 ± 4,07 tuổi. Kết quả này khác 
với kết quả ở một số nghiên cứu của Ballen KK 
tuổi trung bình là 30 ± 3, hay nghiên cứu của 
Yu - Hsan Chang là 30 ± 3,9 [2; 4], sự khác biệt 
này có thể là do mẫu nghiên cứu của chúng 
tôi quá bé so với các nghiên cứu trên lần lượt 
là 5602 và 1269 mẫu máu cuống rốn được họ 
phân tích. Ngoài ra nghiên cứu chưa ghi nhận 
được máu cuống rốn của sản phụ tương ứng 
với con thứ mấy, vì các sản phụ lưu mẫu máu 
cuống rốn ngay cho đứa bé đầu tiên thường có 
độ tuổi trẻ hơn. Theo nghiên cứu của Huỳnh 
Nghĩa tại viện Huyết học Truyền máu TP HCM 
các chỉ số chất lượng đạt tốt nhất khi tuổi bà 
mẹ từ 25 ÷ 35 tuổi [3], độ tuổi này trong nghiên 
cứu của chúng tôi chiếm 65%. Như vậy các sản 
phụ tham gia nghiên cứu của chúng tôi đang ở 
độ tuổi phù hợp nhất để thu được đơn vị máu 
cuống rốn chất lượng.
Tuổi thai nhi trong nghiên cứu của chúng tôi 
trung bình là 39 ± 0,95 tuần, cao nhất ở nhóm 
39 tuần chiếm 50%, thấp nhất nhóm > 40 tuần 
chiếm 5,9%. Độ tuổi này cũng gần giống như 
độ tuổi thai được lựa chọn trong nghiên cứu 
của Ballen KK là 39,8 ± 1,1 tuần, cũng trong 
phạm vi từ 37 đến 42 tuần [5]. Theo Net Cord 
2007 tối thiểu thai 34 tuần mới được lựa chọn 
thu thập [6]. Còn theo một số nghiên cứu lại cho 
thấy tuổi thai từ 38 tuần trở lên có những ảnh 
hưởng tích cực đến thể tích máu cuống rốn thu 
thập [7].
Giá trị trung bình thể tích máu cuống rốn thu 
thập trong nghiên cứu của chúng tôi là 82,46 ± 
17,96 (ml). So sánh với một số nghiên cứu của 
một số tác giá trong nước và ngoài nước chúng 
tôi thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
nghiên cứu của Trần Văn Bé (giá trị trung bình 
59,39 ±18,68, p< 0.001), có thể do tiêu chuẩn 
lựa chọn mẫu chọn mẫu máu cuống rốn của 
chúng tôi khác nhiều so với nghiên cứu của 
Trần Văn Bé [8]. Trong tiêu chuẩn lựa chọn của 
chúng tôi có các yêu cầu về trọng lượng thai 
> 2300g, tuổi thai > 37 và thể tích máu cuống 
rốn > 50 ml, những chỉ số này cũng đã được 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
22 TCNCYH 123 (7) - 2019
chứng minh có nhiều ảnh hưởng đến thể tích 
máu cuống rốn thu thập trong nghiên cứu của 
Mancinelli F [9]. Không có sự khác biệt về thể 
tích trung bình máu cuống rốn thu thập của 
nghiên cứu với nghiên cứu của Huỳnh Nghĩa 
(giá trị trung bình 81,71 ± 18,73, p > 0,05) và 
nghiên cứu của N M- Reboredo (giá trị trung 
bình 84,6 ± 23,63, p > 0,04) [10,11]. Chúng tôi 
nghĩ rằng tiêu chuẩn lựa chọm mẫu máu cuống 
rốn của chúng tôi là hợp lí để có thể thu được 
thể tích máu cuống rốn tối ưu.
Độ tuổi sản phụ trong nghiên cứu của chúng 
tôi nằm trong phạm vi từ 22 đến 40 tuổi, so 
sánh thể tích thu thập ở các nhóm tuổi của sản 
phụ chúng tôi thấy, không có sự khác nhau về 
thể tích thu thập được giữa nhóm sản phụ nhỏ 
hơn hoặc bằng 35 tuổi (trung bình là 84,13 ± 
34,35ml) và nhóm lớn hơn 35 tuổi (trung bình là 
92,51 ± 33,6ml) với p = 0,361. Các nhóm trọng 
lượng thai 3000 gram cũng 
không thấy sự khác biệt về thể tích. Kết quả này 
giống với kết quả nghiên cứu của Sara Y.Al-
Deghaither và Huỳnh Nghĩa, không tìm thấy mối 
quan hệ nào giữa tuổi mẹ, trọng lượng thai với 
thể tích máu cuống rốn thu thập được[11,16]. 
Kết quả nghiên cứu này không phù hợp với một 
số nghiên cứu như của Mancinelli F [9].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số lượng 
hồng cầu (RBC) trung bình là 3,14 ± 0,47 x 
1012 /L thấp hơn so với Đài Loan (3,22 ±0,44 
x 1012 / L) và Iraq (3,98 ± 0,39 x 1012 /L). Các 
giá trị trung bình của các chỉ số khác về tế bào 
hồng cầu (Hb 10,17 ± 1,53 g/L, HCT là 37,78 ± 
2,59 %, MCV là 111,56 ± 8,3 fl, MCH là 33,92 
± 4,3 pg, MCHC là 30,75 ± 1,5 g/l) đều thấp 
hơn các giá trị có được ở nghiên cứu tai Iraq 
(Hb là13,84 ± 1,35 g/L, HCT là 44,48 ± 4,67 %, 
MCV 111,87 ± 6,3 fl, MCH là 34,60 ± 2,43 pg, 
MCHC là 30,95 ± 1,17 g/l). Với Đài Loan, giá trị 
các chỉ số Hb là 11,2 ±1,5 g/L , MCV là 115 ± 
6,8 fl, MCH là 34,9 ± 1,9 pg cao hơn kết quả của 
nghiên cứu, các chỉ số còn lại thì thấp hơn [4]. 
So sánh về số lượng tiểu cầu và số lượng bạch 
cầu với các nghiên cứu khác. Số lương bạch 
cầu (WBC) có giá trị trung bình là 9,64 ± 2,3 x 
109/L, số lượng tiểu cầu (PLT) là 188,5 ±45 x 
10⁹/L , giá trị của hai chỉ số này thấp hơn Đài 
loan có WBC là 9,8 ± 2,9 x 10⁹/L, PLT là 217 ± 
45 x 10⁹/L, cũng thấp hơn giá trị của nghiên cứu 
tại Iraq có WBC là 10,19 ± 3,01x 10⁹/L, PLT là 
268,35 ± 59,38 x 10⁹/L [4]. Nhìn chung số lượng 
hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu của nghiên cứu 
đều thấp hơn so với hai nghiên cứu ở Iraq và 
Đài Loan, nhưng giá trị các chỉ số này lại không 
khác nhiều so với các kết quả thu được ở Đài 
Loan, có lẽ bởi cùng khu vực châu Á, còn các 
nước châu Phi các tham số này lớn hơn cũng là 
phù hợp. Tuy nhiên sự chênh lệch về giá trị các 
chỉ số này ở nghiên cứu của chúng tôi so với 
Đài Loan ở cùng khu vực châu Á, có thể do sự 
khác nhau về địa phương, nhưng cũng có thể 
do nghiên cứu này có mẫu số liệu nghiên cứu là 
n = 83 nhỏ hơn rất nhiều so với nghiên cứu tại 
Đài Loan là n = 5602, hoặc do chất lượng sống 
của các bà mẹ khác nhau, do quy trình lấy mẫu 
là khác nhau. Kết quả nghiên cứu này có giá trị 
tham khảo và nghiên cứu cần được làm với số 
lượng lớn hơn, khu vực rộng hơn ở Việt Nam, 
có thể thiết lập khoảng tham chiếu dành riêng 
cho Việt Nam phục vụ nghiên cứu và lâm sàng.
Thể tích trung bình đơn vị máu cuống rốn 
sau xử lý của chúng tôi đạt 26,54 ± 2,46 ml nằm 
trong tiêu chuẩn hệ thống lưu trữ tự động đạt 
hiệu quả hạ nhiệt độ và lưu trữ tối ưu khi cho 
thêm chất bảo quản DMSO và Dextran, thể tích 
sau cùng từ 25 ÷ 30ml [4]. Tế bào nhân trong 
máu cuống rốn thu thập là chỉ số để đánh giá 
khả năng phục hồi sự tạo máu khi cấy ghép 
sau cả quy trình thu thập và lưu trữ máu cuống 
rốn. Điều này cũng có nghĩa là đây là chỉ số 
cần thiết nói lên tỉ lệ thành công của ca ghép 
tế bào gốc do vậy nó là một trong những điều 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
23TCNCYH 123 (7) - 2019
kiện để quyết định có lựa chọn một mẫu MCR 
hay không. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng số 
lượng tế bào có nhân phản ánh được số lượng 
tế bào CD34 trong máu cuống rốn. Sử dụng cả 
hai tham số CD34 và TNC không làm tăng độ 
nhạy và độ đặc hiệu trong việc lựa chọn mẫu 
máu cuống rốn chất lượng. Vì vậy để lựa chọn 
các đơn vị máu cuống rốn để bảo quản chỉ cần 
một tiêu chí là số lượng tế bào có nhân là đủ 
và đơn vị máu cuống rốn có hàm lượng tế bào 
nhân từ 8 x 10⁸ tế bào trở lên là đủ số lượng 
CD34 thích hợp lưu trữ và bảo quản cho mục 
đích ghép [15]. Tổng số tế bào có nhân của 
MCR thu thập là 10,34 ± 4,01 x 10⁸ tế bào. 
Cao nhất: 20,30 x 10⁸ tế bào, thấp nhất: 4,07 
x 10⁸ tế bào. Trong nghiên cứu của Solves 
Pilar và cs đưa ra kết quả tương tự với giá trị 
trung bình là 10,4 ± 4,9 x 10⁸ tế bào [12]. Kết 
quả nghiên cứu này cao hơn so với một số tác 
giả trong nước như của Huỳnh Nghĩa và Trần 
Trung Dũng, giá trị tương ứng của các tác giả 
này là 8,4 ± 0,3 x 10⁸ tế bào và 8,52 ± 3,51 x 
10⁸ tế bào [3,11], như vậy có thể chúng tôi đã 
thực hiện quy trình thu thập máu cuống rốn tốt. 
Theo hiệp hội những người hiến tủy trên thế 
giới (WMDA) khuyến cáo đưa ra mức tối thiểu 
về liều ghép của MCR: TNC 2 x 10⁷ /kg, với với 
số lượng TNC 10,34 ± 4,01 x 10⁸ tế bào, đơn vị 
máu cuống rốn của chúng tôi có thể ghép cho 
người có cân nặng từ 30 - 70 kg. Như vậy một 
số đơn vị máu của chúng tôi có thể đủ để ghép 
cho một người lớn, và tất cả trẻ em dưới 30kg 
thì chắc chắn đủ ghép. Hiệu suất thu hồi của 
chúng tôi trung bình đạt 85,18% (> 80%), kết 
quả này cũng tương đương các nghiên cứu 
của Nhật Bản (84,6 ± 6,4%), viện Huyết học và 
Truyền máu Thành phố Hồ Chí Minh. Theo tác 
giả Huỳnh Nghĩa với 960 mẫu đều cho thấy tỷ 
lệ giảm TNC sau xử lý tương đương nhau đều 
dưới 15% [3].
Các đơn vị máu cuống rốn trong nghiên cứu 
của chúng tôi được xử lý trong vòng 24 h sau 
khi thu thập, mẫu được gửi đi đếm số lượng 
tế bào CD34+ và xác định tỷ lệ % sống tế bào 
trên máy Facs Calibur (Becton-Dickinson, Mỹ). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có kết quả 
về số lượng tế bào CD34+ sau xử lí là 3,49 ± 
2,95 x 10⁶ tế bào, với giá trị thấp nhất là 0,225 
x 10⁶ tế bào , giá trị cao nhất là 20,74 x 10⁶ tế 
bào. Với phần trăm sống tế bào là 95,5 ± 6,4%. 
Nghiên cứu của Huỳnh Nghĩa số lượng tế bào 
CD34 là 3,36 ± 1,97 x 10⁶ tế bào, phần trăm 
sông tế bào là 97,6 ± 1,5 % [3]. Nghiên cứu của 
Nakagawa Ryuji và cs 2.28 ± 1,59 x 10⁶, phần 
trăm sống tế bào là 96,59 ± 2,88 % [14]. Nghiên 
cứu Trần Trung Dũng số lượng tế bào CD34 là 
1,9 ± 1,8 x 10⁸ tế bào/l, phần trăm sống tế bào 
là 96,30 ± 4,6% [13]. Chỉ số TNC và CD34 là 
hai chỉ số quyết định sự thành công của một 
cuộc cấy ghép tế bào gốc. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi kết quả CD34 thu được cao hơn 
so với nghiên cứu của một số tác giả trong và 
nước như Huỳnh Nghĩa, Trần Trung Dũng, 
Nakagawa Ryuji. Hiệp hội những người hiến 
tủy trên thế giới (WMDA) khuyến cáo đưa ra 
mức tối thiểu về liều ghép của MCR: TNC 2 x 
10⁷ /kg và CD34+: 2 x 10⁵/kg cân nặng người 
nhận. Liều cao TNC cho bệnh nhân không mắc 
bệnh ác tính 3,9 x 10⁷ /kg [6] . Ở Việt Nam 
theo tác giả Huỳnh Nghĩa, đã chấp nhận liều 
ghép TNC: 1,7 x 10⁷ /kg, CD34+ : 0,9 x 10⁵ /kg 
[3]. Bộ y tế Mỹ có đề ra mức tế bào CD34+ tối 
thiểu cho ghép MCR tổng tế bào CD34+: 1,2 
x 10⁶ dù cho chưa có khẳng định khoa học về 
ngưỡng này. Với số lượng tế bào CD34 trung 
bình là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào chúng tôi có 
thể ghép cho trẻ có cân nặng trung bình từ 2 
- 17kg. Nếu chấp nhận liều CD34 theo nghiên 
cứu của Huỳnh Nghĩa chúng tôi có thể ghép 
cho trẻ 6 - 71 kg. Như vậy một số đơn vị máu 
cuống rốn của chúng tôi có đủ số lượng tế bào 
CD34 có thể đủ ghép cho một người lớn.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
24 TCNCYH 123 (7) - 2019
V. KẾT LUẬN 
Giá trị các chỉ số huyết học của máu cuống 
rốn tuơng tự ở trẻ sơ sinh.
Thể tích máu cuống rốn thu thập trung bình 
trong nghiên cứu của chúng tôi là 82,46 ± 17.96 
(ml). Tổng số tế bào có nhân của MCR trung 
bình là 10,34 ± 4,01 x 10⁸ tế bào/l, hiệu suất thu 
hồi đạt được 85,18%. Số lượng tế bào CD34 
trung bình là 3,49 ± 2,95 x 10⁶ tế bào/l, tỉ lệ 
phần trăm sống tế bào là 95,5 ± 6,4%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Appelbaum, F. R. (2012), Pursuing the 
goal of a donor for everyone in need”, N Engl J 
Med. 367(16), 1555 - 6.
2. Ballen, KK, et al. (2001), “Bigger is 
better: maternal and neonatal predictors of 
hematopoietic potential of umbilical cord blood 
units”, Bone marrow transplantation. 27(1), 7.
3. Huỳnh Nghĩa (2004), “Tình hình thu 
thập, sàng lọc và xử lý MCR tại BV Truyền 
máu –Huyết học TPHCM”, Nhà xuất bản Y học 
TPHCM, 5 - 1
4. Chang, Yu - Hsun, et al. (2011), 
“Complete Blood Count Reference Values 
of Cord Blood in Taiwan and the Influence 
of Gender and Delivery Route on Them”, 
Pediatrics & Neonatology. 52(3), 155 - 160.
5. FACHT, Netcord, ed. (2007), 
Internation Standards for Cord Blood Collection, 
Processsing, Testing, Banking, Selection and 
Release, 3rd Edition December ed.
6. Nunes R.D., Zandavalli F.M. (2015), 
“Association between maternal and fetal factors 
and quality of cord blood as a source of stem 
cells”, Revista brasileira de hematologia e 
hemoterapia. 37(1), 38 - 42.
7. Trần Văn Bé (2004), “Đánh giá ghép tế 
bào gốc MCR tại BV Truyền máu –Huyết học 
TPHCM”, Nhà xuất bản Y học TPHCM, 1 - 5.
8. Mancinelli F et al. (2006), “Optimizing 
umbilical cord blood collection: impact of 
obstetric factors versus quality of cord blood 
units”, Transplant Proc. 38(4), 1174 - 6.
9. N M - Reboredo, ADı´az, ACastro and 
RG Villaescusa (2000), “Collection, processing 
and cryopreservation of umbilical cord blood 
for unrelated transplantation”, Bone Marrow 
Transplantation, 26, 1263 – 1270.
10. Huỳnh Nghĩa, Trần Quốc Dũng, Lê 
Thị Dịu Hiền (6/2004), “Bước đầu đánh giá 
chất lượng sản phẩm tế bào gốc từ MCR bằng 
kỹ thuật đếm CD34 và nuôi cấy cụm tế bào 
gốc”, Nhà xuất bản Y học TPHCM, 36 - 40.
11. Atsuko O. et al (2008), “Maternal and 
Neonatal Factors Associated with High Yeild 
of Mononuclear Low Desity/CD34+ Cells from 
Placental/Umbilical Cord Blood”, Tohocu. J. 
Exp. Med, 23 - 32.
12. Trần Trung Dũng and Lê Thị Dịu 
Hiền (2013), “Đánh giá chất lượng MCR thu 
thập tại ngân hàng máu cuống rốn BV Truyền 
máu - Huyết học TPHCM”, Nhà xuất bản Y học 
TPHCM, 4,92 - 96.
13. Ryuji N. et al (2004), “Analysis of 
maternal and neonatal factors that influence the 
nucleated and CD34+ cell yield for cord blood 
banking”, Transfusion, 44, 262 - 267.
14. Jaime - Perez, J. C., et al. (2011), 
“Evaluation of volume and total nucleated cell 
count as cord blood selection parameters: a 
receiver operating characteristic curve modeling 
approach”, Am J Clin Pathol, 136(5), 721 - 6.
15. Jan, Rong - Hwa, et al. (2008), “Impact 
of maternal and neonatal factors on CD34+ cell 
count, total nucleated cells, and volume of cord 
blood”, Pediatric Transplantation. 12(8), 868 - 
873.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
25TCNCYH 123 (7) - 2019
Summary
STUDY SOME HEMATOLOGICAL INDEXES AND EVALUATE 
THE QUALITY OF UMBILICAL CORD BLOOD STORED AT 
NATIONAL CHILDREN HOSPITAL
Umbilical cord blood is one of three sources of hematopoietic stem cells used in transplantation; 
umbilical cord blood provides many advantages, therefore, the study of cord blood hematology 
indicators and the evaluation of cord blood quality is important. We conducted this study with the aim 
of examining some hematological indicators and assessing the quality of umbilical cord blood samples 
stored at the National Children’s Hospital. The study was performed on 83 cord blood samples stored 
at the National Hospital of Pediatrics from 2016 - 2018. We determined the values of hematological 
indicators in umbilical cord blood as follows: RBC 3.14 ± 0.47 (T/L), Hemoglobin 10.6 ± 1.53 (g/l), 
Hematocrit: 37.78 ± 25.87 (%), MCV: 113.4 ± 8.21 (fl), MCH: 34.9 ± 2.65 (pg), MCHC: 308 ± 15.1 (G/L), 
RDW-CD: 16.7 ± 1.37 (G/L); WBC 9.64 ± 2.27 (G/L), Neutrophil 5.52 ± 1.72 (G/L), Lympho 2.83 ± 0.83 
(G/L), Mono 2.83 ± 0.83 (G/L), Eosin 0.31 ± 0.18 (G/L) ), Baso 0.05 ± 0.05 (G/L), PLT 188 ± 43 (G/L). The 
mean of umbilical cord blood volume collected in our study was 82.46 ± 17.96 (ml). The average value 
of total nucleated cells (TNC) in umbilical cord blood is 10.34 ± 4.01 x 10⁸ cells, the recovery efficiency 
is 85.18%. The average number of CD34 cells is 3.49 ± 2.95 x 10⁶ cells, the percentage of viable 
cells is 95.5% ± 6.4%. We found that the umbilical cord blood hematological values are similar to the.
Keywords: cord blood, hematopoietic stem cell transplant, cord blood bank, stem cell

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_mot_so_chi_so_huyet_hoc_va_chat_luong_mau_mau_cuong.pdf