Khảo sát mối liên quan giữa triệu chứng đường tiểu dưới với nồng độ psa và khối lượng tuyến tiền liệt ở nam giới trên 45 tuổi tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Nghiên cứu trên những nam giới ngoài 45 tuổi khám tại khoa Nam học và Y học giới tính- Bệnh viện Đại học

Y Hà Nội cho thấy tỉ lệ mắc triệu chứng đường tiểu dưới chiếm 24,8%. Trong đó, các triệu chứng chủ yếu là tiểu

đêm chiếm tỷ lệ 75,0%, tiểu nhiều lần chiếm 25,4% và tiểu khó chiếm 24,7%. Hơn 2/3 các trường hợp mắc triệu

chứng đường tiểu dưới có phì đại tuyến tiền liệt và 91,5% bệnh nhân có nồng độ PSA huyết thanh trong giới

hạn bình thường. Các triệu chứng tắc nghẽn có liên quan với PSA và kích thước tuyến tiền liệt. So với nhóm thể

tích tuyến tiền liệt < 20="" ml,="" tỉ="" lệ="" các="" triệu="" chứng="" tắc="" nghẽn="" tăng="" gấp="" 2,16="" lần="" ở="" nhóm="" thể="" tích="" tuyến="" từ="" 20="" -="">

ml (OR = 2,16; 95%CI: 1,18 - 4,24) và tăng gấp 4,48 lần ở nhóm thể tích tuyến trên 40 ml (OR = 4,48; 95%CI:

1,92 - 10,5). Tương tự, tỉ lệ các triệu chứng tắc nghẽn ở nhóm PSA trên 4 ng/ml cao gấp 2,61 lần so với nhóm

PSA dưới 4 ng/ml (OR = 2,61; 95%CI: 1,26 - 5,08). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy triệu chứng kích

thích là những lý do chính khiến bệnh nhân mắc triệu chứng đường tiểu dưới đi khám bệnh, trong đó hai triệu

chứng thường gặp là tiểu đêm và tiểu nhiều lần. Triệu chứng tắc nghẽn là yếu tố duy nhất có liên quan đến thể

tích tuyến tiền liệt và PSA. Thể tích tuyến và PSA càng tăng thì tỉ lệ mắc triệu chứng tắc nghẽn càng nhiều

pdf 12 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát mối liên quan giữa triệu chứng đường tiểu dưới với nồng độ psa và khối lượng tuyến tiền liệt ở nam giới trên 45 tuổi tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát mối liên quan giữa triệu chứng đường tiểu dưới với nồng độ psa và khối lượng tuyến tiền liệt ở nam giới trên 45 tuổi tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Khảo sát mối liên quan giữa triệu chứng đường tiểu dưới với nồng độ psa và khối lượng tuyến tiền liệt ở nam giới trên 45 tuổi tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
67TCNCYH 133 (9) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hoài Bắc
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 06/08/2020
Ngày được chấp nhận: 24/08/2020
KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA TRIỆU CHỨNG
ĐƯỜNG TIỂU DƯỚI VỚI NỒNG ĐỘ PSA VÀ KHỐI LƯỢNG
TUYẾN TIỀN LIỆT Ở NAM GIỚI TRÊN 45 TUỔI
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Nguyễn Hoài Bắc , Phạm Minh Quân
Trường Đại học Y Hà Nội 
Nghiên cứu trên những nam giới ngoài 45 tuổi khám tại khoa Nam học và Y học giới tính- Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội cho thấy tỉ lệ mắc triệu chứng đường tiểu dưới chiếm 24,8%. Trong đó, các triệu chứng chủ yếu là tiểu 
đêm chiếm tỷ lệ 75,0%, tiểu nhiều lần chiếm 25,4% và tiểu khó chiếm 24,7%. Hơn 2/3 các trường hợp mắc triệu 
chứng đường tiểu dưới có phì đại tuyến tiền liệt và 91,5% bệnh nhân có nồng độ PSA huyết thanh trong giới 
hạn bình thường. Các triệu chứng tắc nghẽn có liên quan với PSA và kích thước tuyến tiền liệt. So với nhóm thể 
tích tuyến tiền liệt < 20 ml, tỉ lệ các triệu chứng tắc nghẽn tăng gấp 2,16 lần ở nhóm thể tích tuyến từ 20 - 40 
ml (OR = 2,16; 95%CI: 1,18 - 4,24) và tăng gấp 4,48 lần ở nhóm thể tích tuyến trên 40 ml (OR = 4,48; 95%CI: 
1,92 - 10,5). Tương tự, tỉ lệ các triệu chứng tắc nghẽn ở nhóm PSA trên 4 ng/ml cao gấp 2,61 lần so với nhóm 
PSA dưới 4 ng/ml (OR = 2,61; 95%CI: 1,26 - 5,08). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy triệu chứng kích 
thích là những lý do chính khiến bệnh nhân mắc triệu chứng đường tiểu dưới đi khám bệnh, trong đó hai triệu 
chứng thường gặp là tiểu đêm và tiểu nhiều lần. Triệu chứng tắc nghẽn là yếu tố duy nhất có liên quan đến thể 
tích tuyến tiền liệt và PSA. Thể tích tuyến và PSA càng tăng thì tỉ lệ mắc triệu chứng tắc nghẽn càng nhiều.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Triệu chứng đường tiểu dưới (LUTS) là 
một trong các rối loạn chức năng đường tiểu 
thường gặp. Bệnh gây ảnh hưởng nhiều đến 
chất lượng cuộc sống và là một trong những 
nguyên nhân làm tăng gánh nặng chi phí điều 
trị y tế cho cá nhân và xã hội do sự phối hợp 
với nhiều bệnh lý nền khác. Bệnh gặp nhiều 
ở nam giới lớn tuổi, tuổi càng cao tỉ lệ mắc 
bệnh càng nhiều. Tỷ lệ lưu hành LUTS khá 
cao, khoảng 18,5% - 64,3% dân số ít nhất đã 
từng mắc LUTS ở một thời điểm nào đó trong 
cuộc đời, và đặc biệt thường gặp ở nam giới 
trên 45 tuổi. 1 Ngoài ra, các nghiên cứu gần đây 
cho thấy, bệnh thường đi kèm với hội chứng 
chuyển hoá (béo phì, rối loạn mỡ máu, tăng 
đường máu, tình trạng đề kháng insulin và tăng 
huyết áp), một số bệnh lý tim mạch, và rối loạn 
hoạt động tình dục. 2
Bệnh đã được Abrams.P mô tả vào năm 
1994. Ban đầu bệnh để chỉ tình trạng tắc nghẽn 
cổ bàng quang do bệnh lý phì đại tuyến tiền liệt. 
3 Tuy nhiên, gần đây với quan điểm coi đường 
tiểu dưới như một đơn vị chức năng thì nguyên 
nhân của bệnh không chỉ là ở tuyến tiền liệt mà 
còn liên quan đến chức năng của bàng quang, 
chức năng của niệu đạo và một số tình trạng rối 
Từ khóa: Triệu chứng đường tiểu dưới, nam giới lớn tuổi, tiểu đêm, triệu chứng kích thích, triệu chứng 
tắc nghẽn, PSA, thể tích tuyến tiền liệt
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
68 TCNCYH 133 (9) - 2020
loạn toàn thân khác 4. 
Tại Việt Nam, trong hai thập niên gần đây, 
dân số đang bị già hóa, tỉ lệ người lớn tuổi (> 60 
tuổi ) chiếm 11,95% (2018). Do vậy, triệu chứng 
đường tiểu dưới đang trở thành vấn đề sức 
khỏe cộng đồng lớn cần được quan tâm. Tuy 
nhiên, khái niệm triệu chứng đường tiểu dưới 
vẫn ít được nhắc đến. Việc đánh giá và tiếp cận 
triệu chứng đường tiểu dưới chưa được toàn 
diện với nguyên nhân chủ yếu chỉ là các bệnh 
lý của tuyến tiền liệt. Vậy thực sự tiền liệt tuyến 
có vai trò như thế nào trong cơ chế bệnh sinh 
của triệu chứng đường tiểu dưới vẫn chưa có 
nghiên cứu về vấn đề này. Một số nghiên cứu 
trước đây mới chỉ đánh giá mối liên quan giữa 
triệu chứng đường tiểu dưới với tình trạng rối 
loạn cương dương ở nam giới 5, hay với tình 
trạng tổn thương thần kinh như dị tật nứt đốt 
sống ở trẻ em 6. 
Trước thực tế đó, chúng tôi tiến hành đề tài: 
Khảo sát mối liên quan giữa triệu chứng đường 
tiểu dưới với nồng độ PSA và khối lượng tuyến 
tiền liệt ở nam giới trên 45 tuổi tại Bệnh viện Đại 
học Y Hà Nội nhằm mục tiêu sau:
- Mô tả đặc điểm lâm sàng, khối lượng tuyến 
tiền liệt và nồng độ PSA của những bệnh nhân 
có triệu chứng đường tiểu dưới trên 45 tuổi .
- Phân tích mối liên quan giữa triệu chứng 
đường tiểu dưới với nồng độ PSA và thể tích 
tuyến tiền liệt ở những bệnh nhân trên 45 tuổi.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng 
Trong thời gian từ tháng 1 năm 2014 đến 
tháng 12 năm 2019 có 5.279 bệnh nhân nam 
trên 45 tuổi đến khám tại Khoa Nam học & Y 
học giới tính Bệnh viện Đại học Y được khám 
sàng lọc phát hiện triệu chứng đường tiểu dưới. 
Số liệu của 1.309 bệnh nhân có triệu chứng 
đường tiểu dưới, chiếm tỷ lệ 24,8%, đáp ứng 
được tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ 
của nghiên cứu được đưa vào xử lý.
Tiêu chuẩn lựa chọn
Những bệnh nhân có ít nhất một trong triệu 
chứng đường tiểu dưới theo tiêu chuẩn của Hội 
tự chủ quốc tế (ICS) 7: 
Các triệu chứng xuất hiện liên tục trong vòng 
một tháng, gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc 
sống bao gồm: 
- Nhóm triệu chứng kích thích: Tiểu đêm, 
tiểu nhiều lần ban ngày, tiểu gấp, tiểu không 
tự chủ. 
- Nhóm các triệu chứng tắc nghẽn: Tiểu 
ngập ngừng, dòng tiểu yếu, tiểu ngắt quãng, 
tiểu khó, tiểu tách dòng, nhỏ giọt cuối dòng.
- Nhóm các triệu chứng sau tiểu: Tiểu không 
hết, nhỏ giọt sau tiểu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân được chẩn đoán triệu chứng 
đường tiểu dưới do nhiễm khuẩn tiết niệu để 
loại trừ các nguyên nhân gây tăng PSA tạm 
thời. 
- Bệnh nhân được chẩn đoán triệu chứng 
đường tiểu dưới do các bệnh lây truyền qua 
đường tình dục
- Bệnh nhân được chẩn đoán triệu chứng 
đường tiểu dưới được điều trị bằng các thuốc 
làm ảnh hưởng đến nồng độ PSA như: thuốc 
chặn 5-alpha redutase
- Bệnh nhân được chẩn đoán triệu chứng 
đường tiểu dưới sau khi dùng tia xạ, hóa chất 
điều trị các bệnh ác tính.
- Bệnh nhân được chẩn đoán triệu chứng 
đường tiểu dưới do các nguyên nhân thần kinh.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
Quy trình nghiên cứu:
Nam giới trên 45 tuổi đến khám tại tại Khoa 
Nam học và Y học giới tính- Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội sẽ được:
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
69TCNCYH 133 (9) - 2020
 Khám lâm sàng xác định triệu chứng đường 
tiểu dưới theo định nghĩa của Hội tiểu tự chủ 
Quốc tế (ICS). 
Bệnh nhân sau đó được chỉ định một số xét 
nghiệm về máu, nồng độ PSA huyết thanh, tổng 
phân tích nước tiểu để loại trừ nhiễm khuẩn tiết 
niệu và siêu âm đo kích thước tuyến tiền liệt.
Kích thước chiều dài, chiều cao, chiều rộng 
của tuyến tiền liệt được xác định trên siêu âm 
qua đường bụng trong trạng thái bàng quang 
căng nước tiểu. Thể tích tuyến tiền liệt được 
tính theo công thức: Chiều cao × Chiều dài × 
Chiều rộng × π/6. Trên siêu âm thể tích tuyến 
tiền liệt trên 20 ml được xem là phì đại tuyến 
tiền liệt 8.
Xét nghiệm PSA được làm sau khi kiêng 
xuất tinh 3 ngày, trước đó không có thăm khám 
qua trực tràng hoặc can thiệp qua đường niệu 
đạo. Những trường hợp có PSA cao nằm ngoài 
giá trị tham khảo (PSA > 4 ng/ml) sẽ được điều 
trị kháng sinh 10 ngày và làm xét nghiệm sau 
đó 2 tuần nhằm loại trừ các nguyên nhân gây 
tăng PSA tạm thời do nhiễm khuẩn tiết niệu làm 
ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Kết quả 
PSA xét nghiệm lần 2 được đưa vào phân tích.
3. Xử lý số liệu
Phần mềm R phiên bản 3.6.1 cho hệ điều 
hành Windows được dùng để xử lý số liệu 
trong nghiên cứu này. Tính chuẩn của phân bố 
được kiểm định bằng thuật toán Kolmogorov-
Smirnov. Fisher’s exact test được dùng để kiểm 
định khác biệt về tỷ lệ các triệu chứng đường 
tiểu theo nhóm tuổi và BMI. Kiểm định Kruskal-
Wallis được dùng để so sánh sự khác biệt giữa 
nhiều nhóm đối với biến phân bố không chuẩn. 
Kết quả được coi là có ý nghĩa thống kê với giá 
trị p < 0,05 (độ tin cậy 95%). Mô hình hồi quy 
logistic đơn biến được dùng trên 941 đối tượng 
(chỉ có các triệu chứng kích thích hoặc các triệu 
chứng tắc nghẽn hoặc triệu chứng sau tiểu) để 
đánh giá ảnh hưởng của thể tích tuyến tiền liệt 
và nồng độ PSA huyết thanh đến sự xuất hiện 
của các triệu chứng này.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban giám 
đốc bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Các thông tin 
liên quan đến người tham gia nghiên cứu được 
đảm bảo bí mật.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm của 1.309 đối tượng tham gia nghiên cứu
n (%)
Trung bình (SD)
Trung vị [GTNN - GTLN]
Tuổi
58,5 (8,60)
58,0 [45,0 - 84,0]
45-54 470 (35,9%)
55-64 543 (41,5%)
65-74 222 (17,0%)
≥ 75 74 (5,7%)
Chiều cao (cm) a
168 (5,47)
165 [150,0-180,0]
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
70 TCNCYH 133 (9) - 2020
n (%)
Trung bình (SD)
Trung vị [GTNN - GTLN]
Cân nặng (kg) b
62,1 (8,09)
62,0 [39,0 - 95,0]
BMI (kg/m2) a
22,9 (2,50)
23,0 [15,2 - 33,1]
BMI < 18,5 51 (4,4%)
18,5 ≤ BMI < 23 535 (46,3%)
23 ≤ BMI < 25 346 (30,0%)
BMI ≥ 25 223 (19,3%)
Hút thuốc lá c 
Có 240 (19,7%)
Không 976 (80,3%)
Nghề nghiệp d
Chuyên gia 40 (3,1%)
Kinh doanh - dịch vụ 96 (7,4%)
Lực lượng vũ trang 26 (2,0%)
Lao động phổ thông 528 (40,9%)
Nhân viên văn phòng 57 (4,4%)
Quản lý 28 (2,2%)
Hưu trí 515 (39,9%)
a Trên 1.155 đối tượng; b Trên 1.156 đối tượng; 
c Trên 1.216 đối tượng; d Trên 1.290 đối tượng.
SD: Độ lệch chuẩn; GTNN: Giá trị nhỏ nhất; GTLN: Giá trị lớn nhất
Khoảng gần 80% đối tượng tham gia nghiên cứu nằm trong độ tuổi từ 45 đến 65, trong số đó tỷ 
lệ thừa cân, béo phì (BMI ≥ 23) chiếm gần 50%.
2. Đặc điểm lâm sàng
2.1. Tỉ lệ các triệu chứng đường tiểu dưới ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Trong số các triệu chứng đường tiểu dưới được khảo sát, ba triệu chứng thường gặp nhất là tiểu 
đêm, tiểu nhiều lần và tiểu khó chiếm tỷ lệ lần lượt là 75,0%, 25,4% và 24,7%.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
71TCNCYH 133 (9) - 2020
Biểu đồ 1. Tỉ lệ các triệu chứng đường tiểu dưới trên 1309 đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 2. Phân bố tỉ lệ ba nhóm triệu chứng đường tiểu dưới
Trong số 1.309 đối tượng tham gia nghiên cứu có 58,4% bệnh nhân có các triệu chứng kích thích, 
9,5% bệnh nhân có các triệu chứng tắc nghẽn và chỉ có 4% bệnh nhân có triệu chứng sau tiểu đơn 
thuần. Còn lại các triệu chứng đường tiểu dưới thường đi kèm với nhau.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
72 TCNCYH 133 (9) - 2020
2.2. Phân bố các nhóm triệu chứng đường tiểu dưới theo nhóm tuổi và chỉ số khối cơ thể
Biểu đồ 3. Phân bố các nhóm triệu chứng đường tiểu dưới theo nhóm tuổi
Các triệu chứng kích thích và triệu chứng tắc nghẽn có xu hướng tăng theo tuổi đặc biệt sau 55 
tuổi. Đối với các bệnh nhân có triệu chứng đường tiểu dưới trên 45 tuổi, sự khác biệt về tỷ lệ xuất 
hiện triệu chứng kích thích, triệu chứng tắc nghẽn và các triệu chứng sau tiểu giữa các nhóm tuổi 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Biểu đồ 4. Phân bố các nhóm triệu chứng đường tiểu dưới theo nhóm BMI
Sự khác biệt về tỷ lệ xuất hiện các triệu chứng tiểu dưới giữa các nhóm có BMI khác nhau không 
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3. Đặc điểm cận lâm sàng
Trong số các đối tượng có kết quả nồng độ PSA huyết thanh và thể tích tuyến tiền liệt phần lớn 
đều nằm trong giới hạn bình thường. Khoảng hơn 8% đối tượng có nồng độ PSA vượt ngưỡng 4 ng/
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
73TCNCYH 133 (9) - 2020
ml và hơn 12% có thể tích tuyến tiền liệt lớn hơn 40 ml.
Bảng 2. Đặc điểm thể tích tuyến tiền liệt và nồng độ PSA huyết thanh
n (%)
Trung bình (SD)
Trung vị [GTNN - GTLN]
Thể tích tuyến tiền liệt (ml) a
26,9 (12,68)
25,0 [6,30 – 109]
VTLT < 20 263 (29,9%)
20 ≤ VTLT < 40 511 (58,0%)
40 ≤ VTLT < 60 81 (9,2%)
VTLT ≥ 60 26 (2,9%)
Nồng độ PSA huyết thanh (ng/ml) b
1,85 (3,56)
1,02 [0,03 – 69,4]
< 4 958 (91,5%)
4 - 10 69 (6,6%)
> 10 20 (1,9%)
a Trên 881 đối tượng; b Trên 1.047 đối tượng.
SD: Độ lệch chuẩn; GTNN: Giá trị nhỏ nhất; GTLN: Giá trị lớn nhất; VTLT: Thể tích tuyến tiền liệt
4. Mối liên quan giữa triệu chứng đường tiểu dưới với thể tích tuyến tiền liệt và nồng độ PSA 
huyết thanh
Bảng 3. Mô hình hồi quy logistic đơn biến về ảnh hưởng của thể tích tuyến tiền liệt và nồng 
độ PSA huyết thanh đến sự xuất hiện của các triệu chứng đường tiểu dưới (N = 941)
OR p Khoảng tin cậy 95%
Có các triệu chứng kích thích
 Thể tích tuyến tiền liệt (ml)
VTLT < 20 -
20 ≤ VTLT < 40 0,75 0,23 0,47 – 1,18
≥ 40 0,57 0,14 0,28 – 1,22
 Nồng độ PSA huyết thanh (ng/ml)
< 4 -
≥ 4 0.59 0.12 0,31 – 1,19
Có các triệu chứng tắc nghẽn
 Thể tích tuyến tiền liệt (ml)
VTLT < 20 -
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
74 TCNCYH 133 (9) - 2020
20 ≤ VTLT < 40 2,16 0,02 1,18 – 4,24
OR p Khoảng tin cậy 95%
≥ 40 4,18 < 0,001 1,92 – 10,5
 Nồng độ PSA huyết thanh (ng/ml)
< 4 -
≥ 4 2,61 0,007 1,26 – 5,08
Có các triệu chứng sau tiểu
 Thể tích tuyến tiền liệt (ml)
VTLT < 20 -
20 ≤ VTLT < 40 0,68 0,26 0,36 – 1,33
≥ 40 0,00 0,99 NA – 1,13
 Nồng độ PSA huyết thanh (ng/ml)
< 4 -
≥ 4 0,30 0,24 0,02 – 1,41
VTLT : Thể tích tuyến tiền liệt (ml)
So với những người có thể tích tuyến tiền liệt < 20 ml, tỷ lệ có triệu chứng tắc nghẽn cao gấp lần 
lượt 2,16 và 4,48 lần ở những đối tượng có thể tích tuyến tiền liệt từ 20 ml đến 40 ml và trên 40 ml. 
Tỷ lệ triệu chứng tắc nghẽn ở những đối tượng có nồng độ PSA huyết thanh trên 4 ng/ml cũng cao 
gấp 2,61 lần những người có nồng độ PSA huyết thanh dưới 4 ng/ml. Không có sự khác biệt về tỷ lệ 
xuất hiện triệu chứng kích thích và triệu chứng sau tiểu ở các nhóm thể tích tuyến tiền liệt và nồng 
độ PSA huyết thanh khác nhau.
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi trên 5.279 
bệnh nhân nam giới trên 45 tuổi, cho thấy tỉ lệ 
bệnh nhân trên 45 tuổi mắc triệu chứng LUTS 
không do nguyên nhân thần kinh chiếm 28,4%. 
Tỷ lệ này khá tương đồng với nghiên cứu của 
Engström.G và cộng sự tại Thụy Điển, trong đó 
24% trên tổng số 2.217 nam giới tuổi từ 40 – 
80 có LUTS 9, còn nghiên cứu của Kupelian và 
cộng sự trên 2.301 nam giới Mỹ từ 30 – 79 tuổi 
cho thấy tỷ lệ này là 18,7%. 10 Tuy nhiên, trong 
một số khảo sát được tiến hành trên internet, 
tỷ lệ nam giới từng có ít nhất một triệu chứng 
LUTS chiếm đến hơn 60% tại các nước Châu 
Âu, Bắc Mỹ và Đông Á. 1,11 Điều này cho thấy, 
triệu chứng đường tiểu dưới khá phổ biến ở 
nam giới và khá tương đồng giữa các vùng địa 
lý.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng, 
tiểu đêm là triệu chứng phổ biến nhất và ảnh 
hưởng nhiều nhất đến chất lượng cuộc sống 
của bệnh nhân. 11 Theo định nghĩa của Hội tiểu 
không tự chủ (ICS), tiểu đêm là tình trạng phải 
thức giấc nhiều hơn một lần để đi tiểu. 3 Khảo 
sát trên cộng đồng cho thấy 9 – 14% nam giới 
trưởng thành nói chung có triệu chứng tiểu 
đêm, đặc biệt tỷ lệ này lên đến 74,0% đối với 
nam giới trên 40 tuổi. 11 Đối với bệnh nhân có 
triệu chứng đường tiểu dưới, nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy có 75,0% đối tượng tham 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
75TCNCYH 133 (9) - 2020
gia nghiên cứu phải thức dậy ít nhất một lần 
để đi tiểu (Biểu đồ 1). Đây là một trong những 
nguyên nhân gây suy giảm chất lượng cuộc 
sống của những bệnh nhân LUTS vì tiểu đêm 
đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ 
của người bệnh.
Đối với các bệnh nhân có triệu chứng 
đường tiểu dưới, mặc dù có sự trồng lấp giữa 
các triệu chứng kích thích, triệu chứng tắc 
nghẽn và triệu chứng sau tiểu, tuy nhiên triệu 
chứng kích thích vẫn thường gặp hơn so với 
các triệu chứng khác và tỷ lệ xuất hiện thường 
lớn hơn gấp 2 lần so với triệu chứng tắc nghẽn. 
12 Nghiên cứu của chúng tôi, triệu chứng kích 
thích xuất hiện đơn thuần chiếm 58,4% các 
trường hợp, phối hợp cùng với triệu chứng tắc 
nghẽn là 17% các trường hợp. Tỷ lệ này có sự 
khác biệt với một số nghiên cứu trên thế giới: 
nghiên cứu EpiLUTS trên 14.139 nam giới trên 
40 tuổi có ít nhất một triệu chứng LUTS cho 
thấy, triệu chứng kích thích chiếm 64,4%, triệu 
chứng tắc nghẽn 65,8%, triệu chứng sau tiểu 
55,9% 13; nghiên cứu của Yoo và cộng sự lại 
cho thấy ở nam giới tỷ lệ triệu chứng kích thích, 
triệu chứng tắc nghẽn và triệu chứng sau tiểu 
lần lượt là 79,5%, 71,1%, 46,9%. 14 
Tỷ lệ xuất hiện của các triệu chứng đường 
tiểu dưới ở nam giới chịu ảnh hưởng của nhiều 
yếu tố, đặc biệt có xu hướng tăng lên theo tuổi. 
1,10 Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, triệu 
chứng chứng kích thích và triệu chứng tắc 
nghẽn có xu hướng tăng theo tuổi đặc biệt sau 
55 tuổi, Ở tất cả các nhóm tuổi, tỉ lệ triệu chứng 
kích thích chiếm cao nhất, đứng hàng thứ hai 
sau đó là triệu chứng tắc nghẽn (Biểu đồ 3). 
Việc gia tăng tỉ lệ các triệu chứng kích thích hơn 
các triệu chứng tắc nghẽn cho thấy triệu chức 
năng hoạt động của bàng quang cũng đóng 
góp một phần quan trọng trong cơ chế bệnh 
sinh của LUTS. Trái với những quan niệm trước 
đây cho rằng LUTS là bệnh lý của phì đại lành 
tính tuyến tiền liệt.
Một số nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên quan 
giữa triệu chứng đường tiểu dưới với chỉ số 
khối cơ thể 12, tuy nhiên tỷ lệ các triệu chứng 
LUTS không có sự khác biệt giữa các nhóm 
bệnh nhân có BMI khác nhau trong nghiên cứu 
của chúng tôi (Biểu đồ 4). Điều này cho thấy 
vai trò quyết định của tuổi trong cơ chế bệnh 
sinh của LUTS, thông qua quá trình tăng sản 
tuyến tiền liệt cũng như thay đổi khác của cơ 
thể theo tuổi.
LUTS có thể là hậu quả của rất nhiều bệnh 
lý khác nhau, tuy nhiên tăng sản lành tính tuyến 
tiền liệt là một trong những nguyên nhân phổ 
biến nhất, liên quan trực tiếp đến cơ chế bệnh 
sinh của bệnh. Trên thực tế, có đến 50% số 
trường hợp có LUTS mà không có tăng sản lành 
tính tuyến tiền liệt, cũng như 50% số trường 
hợp tăng sản lành tính tuyến tiền liệt lại không 
có LUTS. 8 Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ 
lệ bệnh nhân có tăng kích thước tuyến tiền liệt 
(trên 20 ml) chiếm 70% đối tượng nghiên cứu. 
Tuy nhiên, khoảng hơn 90% các trường hợp có 
nồng độ PSA trong giới hạn bình thường (Bảng 
2). 
Trong ba nhóm triệu chứng đường tiểu dưới 
thì nhóm triệu chứng tắc nghẽn là yếu tố duy 
nhất có liên quan đến tuyền tiền liệt và nồng 
độ PSA. Bảng 3 cho thấy, so với nhóm thể tích 
tuyến tiền liệt < 20 ml thì tỉ lệ các triệu chứng 
tắc nghẽn tăng gấp 2,16 lần ở nhóm kích thước 
tuyến từ 20-40 ml (OR = 2,16; 95%CI:1,18 - 
4.24) và tăng lên 4,48 lần ở nhóm kích thước 
tuyến trên 40 ml (OR= 4,48; 95%CI: 1,92-10.5). 
Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của các 
nghiên cứu trước đây. Cho thấy vai trò của 
tăng sinh tuyến tiền liệt trong bệnh sinh triệu 
chứng đường tiểu dưới. 15 Tương tự, tỉ lệ các 
triệu chứng tắc nghẽn tăng gấp 2,61 lần ở 
nhóm PSA > 4 ng/ml so với nhóm PSA < 4 ng/
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
76 TCNCYH 133 (9) - 2020
ml (OR= 2,61; 95%CI: 1,26-5,08). Mối liên quan 
này cũng được khảng định qua các nghiên cứu 
trước đây, cho thấy vai trò của PSA trong việc 
dự đoán mức độ các triệu chứng đường tiểu 
dưới. 2 Chỉ các triệu chứng tắc nghẽn có liên 
quan đến khối lượng tuyến tiền liệt và nồng độ 
PSA còn các triệu chứng kích thích lại không có 
liên quan. Điều này cho thấy vai trò của tuyến 
tiền liệt chỉ đóng góp một phần trong cơ chế 
bệnh sinh của hội chứng đường tiểu dưới, ngoài 
ra còn có các nguyên nhân khác. Trong thực tế 
lâm sàng nếu tiếp cận bệnh nhân dưới góc độ 
triệu chứng đường tiểu dưới thì cần hướng tới 
tìm các nguyên nhân khác nữa ngoài nguyên 
nhân từ tuyến tiền liệt. Các nguyên nhân ngoài 
nguyên nhân là tuyến tiền liệt cần nghĩ đến là 
đa niệu về đêm, hội chứng chuyển hóa, rối loạn 
chức năng bàng quang, rối loạn chức năng 
của niệu đạo. Điều này sẽ giúp lựa chọn các 
phác đồ điều trị hợp lý và hiệu quả cho người 
bệnh. Ngoài ra, sự ra tăng PSA và kích thước 
tuyến tiền liền cũng làm gia tăng nguy cơ xuất 
hiện các triệu chứng tắc nghẽn. PSA và thể tích 
tuyến tiền liệt có thể được coi là một trong các 
yếu tố tiên lượng dự đoán sự xuất hiện và mức 
độ nặng của các triệu chứng tắc nghẽn, để từ 
đó đưa ra được các quyết định điều trị hợp lý 
tránh các biến chứng của bệnh cũng như các 
ảnh hưởng của bệnh lên chất lượng cuộc sống. 
Cần thêm các nghiên cứu trong tương lai để 
xác định vai trò của PSA và thể tích tuyến tiền 
liệt trong việc tiên lượng xuất hiện và mức độ 
của LUTS.
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
triệu chứng kích thích là những lý do chính 
khiến bệnh nhân mắc triệu chứng đường tiểu 
dưới đi khám bệnh. Hai triệu chứng kích thích 
thường gặp là tiểu đêm và tiểu nhiều lần. Triệu 
chứng tắc nghẽn là yếu tố duy nhất có liên quan 
đến thể tích tuyến tiền liệt và PSA. Thể tích 
tuyến và PSA càng tăng thì tỉ lệ mắc các triệu 
chứng tắc nghẽn càng nhiều.
Lời cảm ơn
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến 
những bệnh nhân và tập thể cán bộ nhân viên 
thuộc Trung tâm Y Khoa số 1 Tôn Thất Tùng 
cũng như Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã hết 
lòng hỗ trợ chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Irwin DE, Milsom I, Hunskaar S, et 
al. Population-Based Survey of Urinary 
Incontinence, Overactive Bladder, and Other 
Lower Urinary Tract Symptoms in Five 
Countries: Results of the EPIC Study. Eur Urol. 
2006;50(6):1306-1315.
2. S. Gravas (Chair) JNC, M. Gacci, C. 
Gratzke, T.R.W. Herrmann, C. Mamoulakis, 
M. Rieken, M.J. Speakman,. EAU Guidelines 
on Management of Non-Neurogenic Male 
Lower Urinary Tract Symptoms (LUTS), incl. 
Benign Prostatic Obstruction (BPO). European 
Urology. 2020.
3. Abrams P, Blaivas JG, Stanton SL, 
Andersen JT. The standardisation of terminology 
of lower urinary tract function: Produced by the 
international continence society committee on 
standardisation of terminology. World J Urol. 
1989;6(4):233-245.
4. Chapple CR, Wein AJ, Abrams P, et 
al. Lower urinary tract symptoms revisited: 
a broader clinical perspective. Eur Urol. 
2008;54(3):563-569.
5. Quang N, Hợp LĐ. Nghiên cứu liên quan 
giữa tình trạng rối loạn cương dương và triệu 
chứng đường tiểu dưới ở những bệnh nhân phì 
đại lành tính tuyến tiền liệt. Tạp chí Y học Việt 
Nam. 2017;453(Số 2 tháng 4 năm 2017):166-
169.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
77TCNCYH 133 (9) - 2020
6. Nga NT, Vũ ĐĐ. Rối loạn chức năng đường 
tiểu dưới ở bệnh nhân bị tật nứt đốt sống tại 
Bệnh viện Bạch Mai 2013-2018. Tạp chí Y học 
Việt Nam 2019; 481(Tháng 8-2019):224-229.
7. Abrams P, Cardozo L, Fall M, et al. The 
standardisation of terminology in lower urinary 
tract function: report from the standardisation 
sub-committee of the International Continence 
Society. Urology. 2003;61(1):37-49.
8. Foo KT. Decision making in the 
management of benign prostatic enlargement 
and the role of transabdominal ultrasound: 
Decision making for BPH and TAUS. International 
Journal of Urology. 2010;17(12):974-979.
9. Engström G, Walker-Engström M-L, Lööf 
L, Leppert J. Prevalence of three lower urinary 
tract symptoms in men-a population-based 
study. Fam Pract. 2003;20(1):7-10.
10. Kupelian V, Wei JT, O'Leary MP, et al. 
Prevalence of lower urinary tract symptoms 
and effect on quality of life in a racially and 
ethnically diverse random sample: the Boston 
Area Community Health (BACH) Survey. Arch 
Intern Med. 2006;166(21):2381-2387.
11. Chow P-M, Liu S-P, Chuang Y-C, et al. 
The prevalence and risk factors of nocturia in 
China, South Korea, and Taiwan: results from a 
cross-sectional, population-based study. World 
J Urol. 2018;36(11):1853-1862.
12. Members of the Florey Adelaide Male 
Ageing S, Martin SA, Haren MT, Marshall 
VR, Lange K, Wittert GA. Prevalence and 
factors associated with uncomplicated storage 
and voiding lower urinary tract symptoms in 
community-dwelling Australian men. World J 
Urol. 2011;29(2):179-184.
13. Sexton CC, Coyne KS, Kopp ZS, 
et al. The overlap of storage, voiding and 
postmicturition symptoms and implications for 
treatment seeking in the USA, UK and Sweden: 
EpiLUTS. BJU International. 2009;103:12-23.
14. Yoo TK, Lee K-S, Sumarsono B, et al. 
The prevalence of lower urinary tract symptoms 
in population aged 40 years or over, in South 
Korea. Investig Clin Urol. 2018;59(3):166-176.
15. Fowke JH, Phillips S, Koyama T, et al. 
Association between physical activity, lower 
urinary tract symptoms (LUTS) and prostate 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
78 TCNCYH 133 (9) - 2020
Summary
EVALUATE THE ASSOCIATION BETWEEN LOW URINARY TRACT 
SYMPTOMS WITH SERUM PSA LEVEL AND PROSTATIC VOLUME 
IN MEN AGED OVER 45 YEARS OLD
A study on men over 45 years old presenting to the Andrology and Sexual Medicine Department 
- Hanoi Medical University Hospital showed that 24.8% of participants had Lower Urinary Tract 
Symptoms (LUTS). The most commonly reported symptoms were nocturia, frequency, and 
straining (75.0%, 25.4%, and 24.7% of participants, respectively). More than two out of three 
patients with LUTS had prostate hyperplasia; however, serum PSA concentration was normal in 
91.5% of participants. Compared with patients having less than 20 ml, prostate volume from 20 
ml to 40 ml and more than 40 ml increased the risk of storage symptoms with an odds ratio (OR) 
2.16 (95%CI 1.18 - 4.24) and OR 4.48 (95%CI 1.92 - 10.5). Beside, patients with high serum PSA 
concentration (≥ 4 ng/ml) had a higher risk of storage symptoms (OR= 2.61; 95%CI: 1.26 - 5.08). 
In conclusion, most of the patients had voiding symptoms, and the most common symptoms were 
nocturia and frequency. There were direct relationships between storage symptoms with PSA and 
prostate volume, high PSA level and prostrate volume increase the risks of storage symptoms.
Keywords: LUTs, Elderly men, Nocturia, Obstruction symptoms, Voiding symptoms, PSA, 
Prostate volume.

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_moi_lien_quan_giua_trieu_chung_duong_tieu_duoi_voi.pdf