Khảo sát mối liên quan giữa HLA-B*1502 và phản ứng da do thuốc chống động kinh
Đặt vấn đề: Phản ứng da là phản ứng phụ thường gặp nhất khi sử dụng thuốc chống động kinh. Sự hiện
diện của HLA-B*1502 làm tăng nguy cơ phản ứng da nghiêm trọng không chỉ với carbamazepine và cả với nhiều
thuốc chống động kinh khác.
Mục tiêu: Khảo sát tỉ lệ bệnh nhân động kinh mang alen HLA-B*1502 và mối liên hệ của alen này với phản
ứng da do thuốc chống động kinh.
Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên bệnh nhân động kinh, điều trị nội trú và
ngoại trú tại bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế từ 05/2017 đến 09/2019. Bệnh nhân sử dụng
thuốc trên 2 tháng không có phản ứng da được xem như dung nạp với thuốc đó.
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát mối liên quan giữa HLA-B*1502 và phản ứng da do thuốc chống động kinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát mối liên quan giữa HLA-B*1502 và phản ứng da do thuốc chống động kinh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 82 KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA HLA-B*1502 VÀ PHẢN ỨNG DA DO THUỐC CHỐNG ĐỘNG KINH Trần Quang Tuyến1, Cao Phi Phong2, Nguyễn Hữu Công1 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Phản ứng da là phản ứng phụ thường gặp nhất khi sử dụng thuốc chống động kinh. Sự hiện diện của HLA-B*1502 làm tăng nguy cơ phản ứng da nghiêm trọng không chỉ với carbamazepine và cả với nhiều thuốc chống động kinh khác. Mục tiêu: Khảo sát tỉ lệ bệnh nhân động kinh mang alen HLA-B*1502 và mối liên hệ của alen này với phản ứng da do thuốc chống động kinh. Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên bệnh nhân động kinh, điều trị nội trú và ngoại trú tại bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế từ 05/2017 đến 09/2019. Bệnh nhân sử dụng thuốc trên 2 tháng không có phản ứng da được xem như dung nạp với thuốc đó. Kết quả: Nghiên cứu gồm 259 bệnh nhân (nam 56%, nữ 44%); tuổi trung bình 20,83. Bệnh nhân mang HLA-B*1502 chiếm tỉ lệ 25,9%. Ở bệnh nhân phản ứng da thì tỉ lệ alen này là 51,4%, trong đó tỉ lệ ở nhóm phản ứng da nghiêm trọng và không nghiêm trọng lần lượt là 75% và 48,5% so với nhóm không phản ứng da là 21,6%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Tỉ lệ HLA-B*1502 trong nhóm bệnh nhân động kinh là 25,9%, sự có mặt của len này làm tăng nguy cơ phản ứng da do thuốc chống động kinh. Từ khóa: thuốc chống động kinh, phản ứng da ABSTRACT ASSOCIATION OF HLA-B*1502 WITH CUTANEOUS ADVERSE REACTIONS IN ANTIEPILEPTIC DRUGS Tran Quang Tuyen, Cao Phi Phong, Nguyen Huu Cong * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 82 - 86 Background: Cutaneous reactions are the most common adverse reactions in antiepileptic drugs (AEDs). Some recent studies have reported that HLA-B*1502 allele is associated with an increased risk of carbamazepine and others - related cutaneous reactions. Objective: We investigated the frequency of HLA-B*1502 allele and the relation between HLA-B*1502 allele and AEDs-related cutaneous reactions in Vietnamese epileptic patients. Methods: This was a cross-sectional study with Vietnamese epileptic patients were treated with AEDs in Neurosurgery International Hospital from April 2017 to September 2019. The patients who had taken AEDs for at least 2 months without developing cutaneous adverse reactions were AEDs-tolerant patients. Results: Among 259 subjects (56% men, 44% women, mean age at diagnosis 20.83 ± 13.79 years), the frequency of HLA-B*1502 was 25,9%. In cutaneous reaction patients, the ratio of this allele was 51,4% (75% in serious cases, 48,5% non serious cases) and the ratio in tolerant patients was 21,6%, the difference was statistically significant. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 83 Conclusion: In Vietnamese epileptic patients, the frequency of HLA-B*1502 was 25,9%, the presence of this allele was increased risk of AEDs - related cutaneous reactions. Key words: HLA-B*1502, antiepiletic drugs, cutaneous adverse reactions ĐẶT VẤN ĐỀ Phản ứng da là phản ứng phụ thường gặp nhất khi sử dụng thuốc chống động kinh. Yếu tố nguy cơ phản ứng da do thuốc khá đa dạng và không hằng định, thường gặp ở người lớn tuổi, giới nữ hay một số rối loạn miễn dịch như bệnh Lupus, dùng corticoid kéo dài hay gia đình có tiền căn phát ban da nặng nề(1,2). Cho đến năm 2004, của tác giả Chung WH đã làm nổi bật mối liên hệ giữa HLA và điều trị động kinh với kết quả 100% bệnh nhân phản ứng da nặng do sử dụng carbamazepine đều có mang HLA-B*1502, trong khi chỉ có 3% bệnh nhân dung nạp thuốc mang alen này(3). Chính vì mối liên quan chặt chẽ giữa HLA- B*1502 với carbamazepine, FDA đã khuyến cáo cần phải thử HLA-B*1502 trên những bệnh nhân gốc Châu Á trước khi sử dụng(4). Tuy nhiên, không chỉ đối với cazbamazepine mà alen này còn được chứng minh liên quan đến phản ứng da do các thuốc chống động kinh khác ở nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt là các nước Châu Á(5,6). Vì vậy, nhu cầu đánh giá mối liên quan HLA-B*1502 với phản ứng da do các thuốc chống động kinh tại Việt Nam là một nhu cầu rất cần thiết. Từ đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với các mục tiêu: - Khảo sát tỉ lệ bệnh nhân động kinh mang alen HLA-B*1502. - Đánh giá mối liên hệ HLA-B*1502 với phản ứng da do thuốc chống động kinh. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân động kinh Việt Nam thuộc dân tộc Kinh điều trị ngoại trú, nội trú tại bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế từ 5/2017 đến 09/2019. Tiêu chuẩn chọn Bệnh nhân được chẩn đoán động kinh trên lâm sàng, có sự hỗ trợ của các phương tiện khác như EEG, hình ảnh học khi cần (tiêu chuẩn chẩn đoán ILAE 2014). Đồng ý tham gia nghiên cứu (trường hợp bệnh nhân dưới 16 tuổi hoặc chậm phát triển sẽ có sự đồng ý của người thân đi cùng). Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân không theo dõi đủ 2 tháng đối với một loại thuốc chống động kinh thì thuốc chống động kinh đó không được ghi nhận (ngoại trừ trường hợp thuốc đó gây phản ứng da). Bệnh nhân xảy ra phản ứng da khi đang điều trị thuốc chống động kinh, trong đó có ≥2 thuốc chống động kinh chưa theo dõi đủ 2 tháng (không xác định được thuốc nào gây phản ứng). Bệnh nhân phản ứng da không phân biệt được tác nhân là thuốc chống động kinh hay thuốc điều trị bệnh lý khác được sử dụng cùng lúc (kháng sinh, thuốc kháng viêm không steroid) hoặc do các yếu tố khác không phải do thuốc như thức ăn, mỹ phẩm. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca có phân tích. Các bước tiến hành Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu được thu thập thông tin hành chánh, chuẩn đoán, điều trị, phản ứng phụ do thuốc chống động kinh và kết quả xét nghiệm HLA-B*1502 thông qua thăm khám trực tiếp và hồi cứu bệnh án (nếu có). Sau đó được tư vấn xét nghiệm HLA-B*1502 (nếu chưa thức hiện) và tư vấn tái khám sau 2 tháng hoặc bất cứ khi nào có phản ứng da đối với thuốc chống động kinh mới được sử dụng. 1Bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế 2Bộ môn Thần Kinh, Đại học Y Dược TP. HCM Tác giả liên lạc: ThS. Trần Quang Tuyến ĐT: 0909181636 Email: [email protected] Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 84 Các biến số chính HLA-B*1502: biến định tính (dương tính, âm tính)(7). Mức độ phản ứng da: biến định tính (nghiêm trọng, không nghiêm trọng)(8). Phản ứng da do thuốc: biến định tính (có, không)(9). Các phương pháp đo lường Mối liên quan phản ứng da và thuốc: dựa trên Thang đánh giá mối quan hệ giữa thuốc nghi ngờ và ADR của Bộ Y Tế (2003), trong đó mối liên quan ở mức độ chắc chắn, có khả năng, có thể sẽ được phân loại phản ứng da do thuốc chống động kinh đang sử dụng. Mức độ phản ứng da: phản ứng da được đánh giá là nghiêm trọng khi thỏa định nghĩa của Bộ Y Tế (2003)“các phản ứng có hại dẫn đến một trong những hậu quả sau: tử vong; đe dọa tính mạng; buộc người bệnh phải nhập viện để điều trị hoặc kéo dài thời gian nằm viện của người bệnh; để lại di chứng nặng nề hoặc vĩnh viễn cho người bệnh; gây dị tật bẩm sinh ở thai nhi; hoặc bất kỳ phản ứng có hại được cán bộ y tế nhận định là gây ra hậu quả nghiêm trọng về mặt lâm sàng”. Phân tích HLA-B*1502 theo phương pháp Real-time PCR thực hiện tạiTrung Tâm Y Sinh Học Phân Tử Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh trong vòng 12 giờ. Phương pháp xử lý số liệu Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. Kiểm định sự khác biệt giữa 2 tỷ lệ bằng test Chi-Square, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Kiểm định sự khác biệt giữa 2 giá trị trung bình bằng test t-student, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Y đức Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 149/HĐĐĐ, ngày 5/5/2017. KẾT QUẢ Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Bảng 1: Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Giới Nam Nữ Tần số (Tỷ lệ) 145 (56%) 114 (44%) Nghiên cứu của chúng tôi gồm 259 bệnh nhân động kinh, trong đó ghi nhận số bệnh nhân nam nhiều hơn so với số bệnh nhân nữ. Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 20,83 ± 13,79, trung vị là 17 tuổi, nhỏ nhất 1 tuổi, lớn nhất 71 tuổi. HLA-B*1502 trong nhóm bệnh nhân động kinh Bảng 2: Sự phân bố theo tỉ lệ bệnh nhân HLA-B*1502 HLA-B*1502 Dương tính Âm tính Tần số (Tỷ lệ) 67 (25,9%) 192 (79,1%) Trong 259 bệnh nhân động kinh thì tỉ lệ dương tính chiếm 25,9%, phần lớn còn lại là bệnh nhân không mang alen này (Bảng 2). Mối liên quan giữa HLA-B*1502 và phản ứng da do các thuốc chống động kinh Bảng 3: Phân bố HLA-B*1502 theo phản ứng da do thuốc chống động kinh Phản ứng da Tổng số bệnh nhân Không Có HLA- B*1502 Âm tính 174 18 192 Dương tính 48 19 67 Tổng số bệnh nhân 222 37 259 p <0,001 Nghiên cứu của chúng tôi gồm 259 bệnh nhân động kinh; có 51,4% bệnh nhân trong nhóm phản ứng da và 21,6% bệnh nhân trong nhóm không phản ứng da dương tính với HLA- B*1502. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p <0,001. Phân tích sâu hơn trong 37 bệnh nhân phản ứng da thì 4 trường hợp phản ứng da nghiêm trọng và 33 trường hợp không nghiêm trọng, trong đó 75% bệnh nhân phản ứng da nghiêm trọng và 48,5% bệnh nhân phản ứng da không nghiêm trọng dương tính với HLA- B*1502; so với chỉ 21,6% bệnh nhân trong nhóm không phản ứng da mang alen này, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p lần lượt là 0,024 và 0,001) (Bảng 3). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 85 BÀN LUẬN Tỉ lệ HLA-B*1502 khác nhau ở những dân tộc và vùng địa lý khác nhau. Nhìn chung tỉ lệ HLA-B*1502 rất thấp ở người da trắng, kế đến là ở những người gốc Phi và Mỹ Latin. Ở những vùng dân cư như Bắc Á, Ấn Độ tỉ lệ này bắt đầu tăng lên từ 1-5%. HLA-B*1502 thường tìm thấy ở những cư dân sống ở vùng từ trung tâm Trung Quốc trở về phía nam với xu hướng tương đối cao, dao động từ 4,4% và có thể lên đến 35,6% theo báo cáo của tác giả Ou GJ(10). Tại Việt Nam, nghiên cứu công bố năm 2015 của tác giả Nguyen D trên 25 người thì tỉ lệ này là 24%(11). Tác giả Châu Quốc Vinh nghiên cứu trên những bệnh nhân dự kiến điều trị bằng carbamazepine và oxcarbamazepine ở nhóm bệnh nhân động kinh và đau thần kinh thì cho tỉ lệ lên đến 27,1%(12). Nghiên cứu của chúng tôi với số mẫu lớn hơn các nghiên cứu trên (259 bệnh nhân động kinh) cho tỉ lệ alen này là 25,9% khá gần với đa số các tác giả nghiên cứu ở miền Nam Việt Nam và cả tác giả Nguyen ở Miền Bắc Việt Nam. Từ đó cho thấy Việt Nam là quốc gia có số người mang HLA-B*1502 với tỉ lệ cao không những so với thế giới nói chung mà còn khá cao trong khu vực Đông Nam Á nói riêng. Tác giả Cheung YK nghiên cứu tại Hong Kong trên các bệnh nhân phản ứng da nặng do 7 loại thuốc chống động kinh có tỉ lệ bệnh nhân mang alen HLA-B*1502 là 63%, nhóm bệnh nhân không phản ứng da mang alen này là 15,3%, sự khác biệt 2 nhóm có ý nghĩa thống kê(5). Tác giả Man cũng nghiên cứu trên người Hán tại Hong Kong như tác giả Cheung YK thì nhận thấy tỉ lệ dương tính đối với alen này ở nhóm phản ứng da nghiêm trọng lên tới 75%, tương tự nghiên cứu của chúng tôi; so sánh với nhóm không phản ứng da với tỉ lệ dương tính là 14,5% thì khác biệt có ý nghĩa thống kê; tuy nhiên ở nhóm phản ứng da không nghiêm trọng thì không có khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm(13). Trong nghiên cứu của tác giả Zhang J, trên bệnh nhân phản ứng da cả nghiêm trọng và không nghiêm trọng với các thuốc chống động kinh, tỉ lệ dương tính lên đến 83,3% so với nhóm dung nạp thuốc chỉ 11,6% và khác biệt giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê(14). Nghiên cứu của chúng tôi cũng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh tỉ lệ HLA-B*1502 ở cả 2 mức độ tương tự như nghiên cứu của Zhang J thực hiện tại Thượng Hải, tuy nhiên tỉ lệ HLA-B*1502 ở nhóm phản ứng da thấp hơn so với Zhang J(14). Phân tích sâu hơn về 2 mức độ phản ứng da, ở mức độ phản ứng da nghiêm trọng thì thì sự chênh lệch tỉ lệ alen này giữa nhóm có và không phản ứng da là rất rõ ràng trong nghiên cứu của chúng tôi lẫn của Cheung YK và Man CB, tuy nhiên ở mức độ không nghiêm trọng thì Man CB cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa trong khi sự khác biệt của nghiên cứu chúng tôi có ý nghĩa thống kê; điều này có thể do cỡ mẫu của chúng tôi cao hơn Man cũng như dân số lấy mẫu là khác nhau(5,13). KẾT LUẬN Trong 259 bệnh nhân động kinh thì tỉ lệ dương tính HLA-B*1502 chiếm 25,9%. Sự hiện diện HLA-B*1502 làm tăng nguy cơ phản ứng da cả ở mức độ nghiêm trọng lẫn không nghiêm trọng khi sử dụng thuốc chống động kinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bermeo-Ovalle A (2019). Making Rash Decisions in Epilepsy: Evaluating Hypersensitivity Reactions to Anti-seizure Medications. Epilepsy Currents, 19(2):96-98. 2. Ye YM, Thong BY, Park HS (2014). Hypersensitivity to antiepileptic drugs. Immunol Allergy Clin North Am, 34(3):633- 643. 3. Chung WH, Hung SI, Hong HS, Hsih MS, Yang LC, et al (2004). A marker for Stevens–Johnson syndrome. Nature, 428(6982):486-486. 4. Ferrell PB, Mcleod HL (2008). Carbamazepine, HLA-B*1502 and risk of Stevens-Johnson syndrome. Pharmacogenomics, 9(10):1543-1546. 5. Cheung YK, Cheng SH, Chan EJ, Lo SV, et al (2013). HLA-B alleles associated with severe cutaneous reactions to antiepileptic drugs in Han Chinese. Epilepsia, 54(7):1307-1314. 6. Deng Y, Li S, Zhang L, Jin H, Zou X (2018). Association between HLA alleles and lamotrigine-induced cutaneous adverse drug reactions in Asian populations: A meta-analysis. Seizure, 60(2):163-171. 7. Lương Bắc An, Bùi Nguyễn Nhật Minh, Nguyễn Thị Hà Giang, Đỗ Thị Thanh Thủy (2016). Xác định kiểu gen HLA- B*1502 ở bệnh nhân mới được chẩn đoán mắc bệnh động kinh. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 20(1):100-104. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 86 8. Bộ Y Tế (2013). Quyết định về việc ban hành hướng dẫn hoạt động giám sát phản ứng có hại của thuốc (ADR) tại các cơ sở khám, chữa bệnh. 9. Sharma Sa, Jayakumar D, Palappallil DS (2019). Pharmacovigilance of Cutaneous Adverse Drug Reactions among Patients Attending Dermatology Department at a Tertiary Care Hospital. Indian Dermatology Online Journal, 10(5):547-554. 10. Ou GJ, Wang J, Ji X, Yu H, Jiang L, et al (2017). A study of HLA-B*1502 in 9 different Chinese ethnics: Implications for carbamazepine related SJS/TEN. HLA, 89(4):225-229. 11. Nguyen D, Chi Hieu C, Vidal C, Nguyen N, Do N, et al (2017). Genetic Susceptibility to Carbamazepine and Allopurinol– Induced Severe Cutaneous Adverse Reactions in Vietnamese. Journal of Allergy and Clinical Immunology, 139(2):AB118. 12. Châu Quốc Vinh, Nguyễn Hữu Công (2017). Tầm soát allele HLA-B*1502 ở những bệnh nhân có chỉ định dùng Carbamazepine hay Oxcarbamazepine. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 21(2):150-54. 13. Man CB, Kwan P, Baum L, Yu E, Lau Km, et al (2007). Association between HLA-B*1502 allele and antiepileptic drug- induced cutaneous reactions in Han Chinese. Epilepsia, 48(5):1015-1018. 14. Zhang J, Li X, Su Y, Sun M, Wang J, et al (2018). Association between HLA gene polymorphism and cutaneous adverse reactions caused by antiepileptic drugs. Experimental and Therapeutic Medicine, 15(4):3399-3403. Ngày nhận bài báo: 10/11/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021
File đính kèm:
khao_sat_moi_lien_quan_giua_hla_b1502_va_phan_ung_da_do_thuo.pdf

