Khảo sát liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường type 2

Mục tiêu: khảo sát mối liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc

điểm, lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân ĐTĐ typ 2. Đối tượng và phương pháp: Nghiên

cứu trên 173 bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị tại bệnh viện nội tiết trung ương.

Các bệnh nhân được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm sinh hóa máu và nước tiểu.

Kết quả: Nhóm đang điều trị có tỷ lệ ACR tăng và nồng độ ACR trung bình cao hơn có

ý nghĩa thống kê so với nhóm chẩn đoán lần đầu. Nhóm bệnh nhân có thời gian điều trị

> 10 năm có tỷ lệ giảm MLCT cao hơn và MLCT trung bình thấp hơn so với nhóm bệnh

nhân có thời gian điều trị < 10="" năm.="" tỷ="" lệ="" bệnh="" nhân="" giảm="" mlct="" và="" acr="" tăng="" ở="">

bệnh nhân có BMI tăng, THA và tăng kích thước vòng bụng cao hơn có ý nghĩa thống

kê so với nhóm có BMI bình thường, không có THA và không tăng vòng bụng. Tỷ lệ tăng

ACR và giảm MLCT ở bệnh nhân có glucose máu lúc đói và HbA1c cao cao hơn có ý

nghĩa thống kê (p<0.05) so="" với="" nhóm="" có="" glucose="" máu="" lúc="" đói="" và="" hba1c="" đạt="" mục="">

ACR trung bình của nhóm glucose máu lúc đói > 7 cao hơn có ý nghĩa thống kê so với

nhóm ≤ 7. Kết luận: Nhóm bệnh nhân đang điều trị có tổn thương thận nặng hơn so với

nhớm bệnh nhân mới được chẩn đoán. BMI và THA làm tăng mức độ tổn thương thận

ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Kiểm soát đường máu càng kém thì mức độ tổn thương thận

càng nặng.

pdf 8 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường type 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường type 2

Khảo sát liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường type 2
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
13
1 Bệnh viện Quân y 103
2 Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Phạm Thanh Bình ([email protected])
Ngày nhận bài: 14/5/2018, ngày phản biện: 25/5/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/6/2018
KHẢO SÁT LIÊN QUAN GIỮA CHỈ SỐ ACR VÀ MLCT VỚI 
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG 
Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2
Phạm Thanh Bình1, Nguyễn Song Hài1
Hoàng Trung Vinh1, Hà Thọ Minh Huyền2, Lã Văn Tuấn2
TÓM TẮT
Mục tiêu: khảo sát mối liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc 
điểm, lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân ĐTĐ typ 2. Đối tượng và phương pháp: Nghiên 
cứu trên 173 bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị tại bệnh viện nội tiết trung ương. 
Các bệnh nhân được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm sinh hóa máu và nước tiểu. 
Kết quả: Nhóm đang điều trị có tỷ lệ ACR tăng và nồng độ ACR trung bình cao hơn có 
ý nghĩa thống kê so với nhóm chẩn đoán lần đầu. Nhóm bệnh nhân có thời gian điều trị 
> 10 năm có tỷ lệ giảm MLCT cao hơn và MLCT trung bình thấp hơn so với nhóm bệnh 
nhân có thời gian điều trị < 10 năm. Tỷ lệ bệnh nhân giảm MLCT và ACR tăng ở nhóm 
bệnh nhân có BMI tăng, THA và tăng kích thước vòng bụng cao hơn có ý nghĩa thống 
kê so với nhóm có BMI bình thường, không có THA và không tăng vòng bụng. Tỷ lệ tăng 
ACR và giảm MLCT ở bệnh nhân có glucose máu lúc đói và HbA1c cao cao hơn có ý 
nghĩa thống kê (p<0.05) so với nhóm có glucose máu lúc đói và HbA1c đạt mục tiêu. 
ACR trung bình của nhóm glucose máu lúc đói > 7 cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm ≤ 7. Kết luận: Nhóm bệnh nhân đang điều trị có tổn thương thận nặng hơn so với 
nhớm bệnh nhân mới được chẩn đoán. BMI và THA làm tăng mức độ tổn thương thận 
ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Kiểm soát đường máu càng kém thì mức độ tổn thương thận 
càng nặng.
Từ khóa: Chỉ số ACR, MLCT, glucose máu lúc đói.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018 
14
INVESTIGATING OF RELATION BETWEEN ACR INDEX AND GFR 
WITH CLINICAL AND SUBCLINICAL FEATURES ON TYPE 2 DIABETES 
MELLITUS PATIENTS
ABSTRACT
Purpose: Investigating of relation between ACR index and GFR with clinical 
and subclinical features in diabetes mellitus patients. Subject and method: Study on 173 
patients with type 2 diabetes mellitus treated at the National Hospital of Endocrinology. 
Patients has been taken exam and makes blood and urine test. Results: Proportion of 
increasing ACR and mean of ACR level of treated group are statistically significantly 
higher than those of the other. Patient with duration of treatment over 10 years has 
higher proportion of decreasing GFR and lower mean of GFR than those with duration 
of treatment under 10 years. Proportion of decreasing GFR and increasing ACR on 
patients with increasing BMI, blood pressure and waist circumference are statistically 
significantlly higher than those of patients with normal BMI, blood pressure and waist 
circumference. Proportion of increasing ACR and decreasing GFR of patients with high 
fast glucose level and HbA1c are statistically significantly higher than those of patients 
with fast plasma glucose and HbA1c achieving goal. Mean of ACR of group with FPG 
over 7 mmol/l is statistically significantlly higher than that of the other. Conclusion: 
renal injury level of treated group is more serious than that of the other. BMI, blood 
pressure and waist circumference make increasing renal injury level in type 2 diabetes 
mellitus patients. The less the plasma glucose control is, the more serious the renal 
injury level is.
Keyword: ACR index, GFR, FPG
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh đái tháo đường gây ra nhiều 
biến chứng cấp và mạn tính, để lại nhiều 
di chứng nặng nề cho người bệnh và là 
một trong những nguyên nhân chính gây 
tử vong cho người bệnh. Đặc biệt, ĐTĐ 
typ 2 thường được phát hiện muộn, khi 
phát hiện thì đã có biến chứng. Trong số 
các biến chứng của bệnh ĐTĐ, tổn thương 
thận là xuất hiện sớm hay gặp và hậu quả 
nặng nề. Biểu hiện tổn thương thận ở BN 
ĐTĐ đó là xuất hiện albumine niệu và 
hoặc giảm MLCT, hậu quả cuối cùng là 
suy thận mạn tính. Thời gian từ lúc phát 
hiện ĐTĐ týp 2 đến khi xuất hiện tổn 
thương thận và suy thận, phụ thuộc vào 
nhiều yếu tố khác nhau. Do đó chúng tôi 
tiến hánh nghiên cứu đề tài này với mục 
tiêu: khảo sát mối liên quan giữa chỉ số 
ACR và MLCT với một số đặc điểm lâm 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
15
sàng, cận lâm sàng bệnh nhân ĐTĐ typ 2.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 173 BN không phân biệt 
giới tính, tuổi từ 30 được chẩn đoán đái 
tháo đường typ 2 theo tiêu chuẩn của Tổ 
chức y tế thế giới điều trị tại Bệnh viện 
Nội tiết Trung ương từ tháng 10/2016 đến 
tháng 5/2017.
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân 
nhóm nghiên cứu: BN được điều trị nội 
trú, được chẩn đoán xác định ĐTĐ týp 2 
theo IDF năm 2012, tuổi ≥ 30, tự nguyện 
tham gia NC, hồ sơ bệnh án đầy đủ
Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng 
khỏi nghiên cứu: ĐTĐ týp 1 và ĐTĐ 
thai kỳ, Bệnh nhân bị ĐTĐ thứ phát (ĐTĐ 
trong hội chứng Cushing, Basedow, ĐTĐ 
do sỏi tụy), mắc các bệnh nội tiết kèm 
theo (bệnh to đầu chi, Basedow, u tủy 
thượng thận), đã được chẩn đoán bệnh 
thận mạn tính tiên phát, không đồng ý 
tham gia nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên 
cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang.
- Bệnh nhân vào viện, được hỏi 
bệnh, khám lâm sàng, làm các xét nghiệm 
sinh hóa máu, nước tiểu.
- Ước lượng MLCT dựa vào 
creatinin theo công thức 4 điểm MDRD: 
MLCT
crc
 (mL/phút/l1,73) = 186 x 
([Pcr]/88,4) – 1,154 x (tuổi) – 0,203 x 
(0.742 nếu là nữ) x (1,21) nếu là người 
gốc Phi
- Tính tỉ số albumin/creatinin 
(ACR: albumin creatinin ratio), đơn vị 
tính là mg/mmol.
- Tiến hành phân chia giai đoạn 
bệnh thận theo phân loại của KDIGO 
2012.
- Xử lí số liệu bằng phần mềm 
EPI- INFO 6.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN 
LUẬN
Độ tuổi trung bình của nghiên 
cứu là 61,96 ± 11,59, trong đó nhóm tuổi 
từ 61-70 chiếm tỷ lệ cao nhất (34,10%), 
thấp nhất là nhóm tuổi từ 30 – 50 tuổi 
(14,45%). Nam chiếm 39,31%, nữ chiếm 
60,69%.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018 
16
Bảng 1: Sự khác biệt giữa ACR và MLCT giữa nhóm ĐTĐ mới được chẩn 
đoán và đang điều trị.
Chỉ số
Số lượng
(n)
Chẩn đoán lần đầu Đang được điều trị
PTỷ lệ
(%)
Số 
lượng
(n)
Tỷ lệ
(%)
ACR
< 3 13 15,66 70 84,34 < 0,05
≥ 3 11 12,22 79 87,78 < 0,05
X ± SD 7.82 ± 10.89 15.89 ± 38.05 < 0,05
MLCT
< 60 2 5,26 36 94,74 < 0,05
≥ 60 22 16,30 113 83,70 < 0,05
X ± SD 83,00±18,64 71,45 ± 20,18 < 0,05
 Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có ACR ≥ 3 mg/mmol/l, và nồng độ ACR trung bình 
của nhóm đang được điều trị cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0.05) so với nhóm chẩn 
đoán lần đầu.
Bảng 2: Mối liên quan giưa ACR, MLCT và thời gian phát hiện bệnh
Chỉ số
Số lượng
(n)
≤ 10 năm
112
> 10 năm
61
P
Tỷ lệ
(%)
Số 
lượng
(n)
Tỷ lệ
(%)
ACR
 0,05
≥ 3 54 60,00 36 40,00 > 0,05
X ± SD 9,28 ± 16,77 24,83 ± 54,40 < 0,05
MLCT
< 60 16 42,11 22 57,89 < 0,05
≥ 60 96 71,11 39 28,89 < 0,05
X ± SD 79,92 ± 20,20 65,85 ± 22,16 < 0,05
 Nhận xét: ACR trung bình của nhóm bệnh nhân có thời gian bị bệnh > 10 năm 
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân có thời gian bị bệnh ≤ 10 năm. 
Nhóm bệnh nhân có thời gian bị bệnh > 10 nămcó tỷ lệ bệnh nhân có MLCT giảm cao 
hơn và nồng độ MLCT trung bình thấp hơn nhóm bệnh nhân có thời gian bị bệnh nhân 
có thời gian bị bệnh < 10 năm.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
17
Bảng 3: Mối liên quan giữa ACR, MLCT với 1 số chỉ số lâm sàng
Các yếu tố
≥ 3
ACR MLCT
X ± SD < 60 X ± SD
BMI
Không béo phì 72,22 14,90 ± 30,91 73,68 83,57 ± 19,30
Có béo phì 27,78 27,40 ± 34,94 26,32 71,22 ± 18,60
p < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05
Tăng 
vòng 
bụng
Không 35,56 12,13 ± 20,96 28,95 79,94 ± 21,58
Có 64,44 19,35 ± 22,08 71,05 71,96 ± 21,66
p < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05
Tăng 
huyết áp
Không 23,33 7,33 ± 11,89 15,79 84,88 ± 19,46
Có 66,67 17,79 ± 31,24 84,21 70,93 ± 21,64
p < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05
 Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân giảm MLCT và ACR tăng ở nhóm bệnh nhân có BMI 
tăng, THA và tăng kích thước vòng bụng cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có 
BMI bình thường, không có THA và không tăng vòng bụng.
Bảng 4: So sánh tỉ lệ ACR, MLCT với các chỉ số kiểm soát đường máu (n = 173)
Các yếu tố
≥ 3
ACR MLCT
X ± SD ≤60 X ± SD
Glucose luc 
đói
mmol/l
≤ 7 13,33 7,29 ± 14,17 18,42 73,82 ± 21,35
> 7 86,67 18,53 ± 25,83 81,58 75,23 ± 22,11
p 0,05
HbA1c
%
≤ 7,5 26,67 11,45 ± 24,28 24,86 74,32 ± 19,10
> 7,5 73,33 21,23 ± 25,62 53,18 75,24 ± 23,11
p 0,05
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có 
glucose máu lúc đói và HbA1c cao có 
tăng ACR và giảm MLCT cao hơn có ý 
nghĩa thống kê (p<0.05) so với nhóm có 
glucose máu lúc đói và HbA1c đạt mục 
tiêu. ACR trung bình của nhóm glucose 
máu lúc đói > 7 cao hơn có ý nghĩa thống 
kê so với nhóm ≤ 7.
BÀN LUẬN
Theo nghiên cứu của Haris và 
cộng sự, bệnh nhân ĐTĐ typ 2 tiến triển 
âm thâm từ 9 – 12 năm mới có biểu hiện 
lâm sàng, do đó khi đã chẩn đoán, đa số 
các bệnh nhân đã có biến chứng vi mạch 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018 
18
như biến chứng mắt, biến chứng thận. 
Theo nghiên cứu của Nelson và cộng 
sự ở giai đoạn chẩn đoán ĐTĐ týp 2 có 
khoảng 10% có microalbumin niệu và 
tiến triển tới suy thận giai đoạn cuối trong 
vòng 10 năm [1]. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi thấy rằng có 6.36% bệnh nhân 
có microalbumin niệu và 1.16 bệnh nhân 
có giảm MLCT ở thời điểm chẩn đoán, 
phù hợp với các nghiên cứu ở trên. Theo 
thời gian phụ thuộc vào mức độ kiểm soát 
đường máu và các yếu tố nguy cơ của 
bệnh nhân, tổn thương thận sẽ xuất hiện 
theo từng giai đoạn. Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi thấy rằng, bệnh nhân đang 
điều trị có tỷ lệ có microalbumin niệu, 
nồng độ microalbumin niệu trung bình, 
tỷ lệ giảm MLCT cũng như MLCT trung 
bình cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 
bệnh nhân ở thời điểm chẩn đoán. Thời 
điểm xuất hiện tổn thương thận sớm hay 
muộn phụ thuộc vào việc kiểm soát đường 
máu và các yếu tô nguy cơ của bệnh nhân.
Relimpio khảo sát mức thải trừ 
albumin niệu và bệnh tim mạch trên BN 
ĐTĐ typ 2 ở Tây Ban Nha cho thấy: Thời 
gian bị bệnh ở nhóm MAU (-) là 12,6 ± 
9,6 năm, nhóm MAU(+) là 13,5 ± 9,6 
năm, nhóm tiểu đạm đại thể là 13,5 ± 9,6 
năm sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê (p < 0,01) [10]. Điều này cho thấy 
BN có thời gian phát bệnh càng lâu thì 
khả năng xuất hiện albumin niệu càng 
rất lớn. Trần Thị Ngọc Thư nghiên cứu 
72 BN được chẩn đoán bị ĐTĐ typ 2 khi 
so sánh GTTB ACR với thời gian bị bệnh 
cho thấy có mối liên quan giữa ACR và 
thời gian phát hiện bệnh (p < 0,05) [8].
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng có 
kết quả tương tự GTTB ACR nhóm bị 
bệnh >10 năm 24,83 mg/mmol cao hơn 
nhóm bị bệnh ≤ 10 năm 9,28 mg/mmol, 
sự khác biệt này co ý nghĩa thống kê (p 
< 0,05).
Khi xét MLCT với thời gian bị 
bệnh chúng tôi nhận thấy, tỉ lệ BN ở các 
MLCT với thời gian bị bệnh khác nhau có 
ý nghĩa thông kê (p < 0,05), GTTB MLCT 
ở nhóm có thời gian bị bệnh ≤ 10 năm 
là 79,92% cao hơn nhóm có thời gian bị 
bệnh > 10 năm là 65,85, sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết quả 
này giống với nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Kim Hoa, Lê Tuyết Hoa, nghiên cứu cho 
thấy MLCT có xu hướng giảm dần theo 
thời gian mắc bệnh [4],[6].
 Béo bụng dẫn đến sự tích tụ quá 
mức các mô mỡ trong nội tạng. Chính các 
tế bào mỡ trong nội tạng cơ thể làm thay 
đổi các chất cytokines trong cơ thể và 
hậu quả làm tăng tryglyceride và glucose 
trong máu. Điều này đồng nghĩa với việc 
người béo bụng sẽ phải đối mặt với nguy 
cơ tai biến mạch máu não hay nhồi máu 
cơ tim và bệnh thận cao gấp 3 lần so với 
người không có hội chứng chuyển hóa. 
Nghiên cứu của nghiên cứu của Dụng Thị 
Kim Hạnh ghi nhận VB là yếu tố nguy 
cơ tương quan thận với albumin niệu[2].
Nghiên cứu của Hồ Hữu Hóa cho thấy 
những trường hợp vòng bụng tăng nguy 
cơ MAU (+) cao gấp 3,3 lần những trường 
hợp vòng bụng ở ngưỡng bình thường[3]. 
Đây chính là yếu tố ảnh hưởng tới những 
khó khăn trong kiểm soát glucose máu 
cũng như làm tăng tỉ lệ tăng HA và biến 
chứng thận ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 ở Việt 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
19
Nam. Nhận định này của chúng tôi cũng 
giống như nhiều tác giả trong nước và 
nước ngoài khác. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi khi so sánh tỉ lệ người có và 
không béo phì (BMI ≥ 25) với nhóm có 
ACR (+) và ACR (-) cho thấy sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
 Nghiên cứu của Trần Thị Ngọc 
Thư cho thấy nhóm BMI ≥ 23 có giá trị 
trung bình ACR cao hơn nhóm có BMI 
< 23, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p 
< 0,05) [8]. Nghiên cứu chúng tôi cũng 
cho kết quả tương tự, thấy nhóm béo phì 
có giá trị trung bình ACR cao hơn nhóm 
không co béo phì, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05).
Theo Batty Stult ở BN ĐTĐ typ2 
tỉ lệ THA là 50 % thời điểm khởi phát 
bệnh, tăng lên 80% khi có microalbumin 
niệu và tới hơn 90% khi có macroalbumin 
niệu[12]. Nguyễn Thị Thanh Nga cho 
thấy bệnh ĐTĐ kèm THA làm gia tăng tỉ 
lệ tổn thương thận (p < 0,05) [7] . Nguyễn 
Đức Phát cho thấy THA là nguy cơ có ý 
nghĩa biến chứng thận ở BN ĐTĐ typ 2 
[5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi 
so sánh tỉ lệ THA ở nhóm có ACR (+) và 
nhóm có ACR (-) thấy sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê.Trong ĐTĐ tình trạng 
xuất hiện MAU thường phối hợp với 
kháng insulin ,nhảy cảm mối. THA và 
ĐTĐ làm tăng nặng nhau góp phần tạo 
vòng xoáy tiến triển THA, bệnh thận và 
bệnh thận mạn. Ở BN ĐTĐ, THA vừa là 
yếu tố thúc đẩy sự tiến triển của bệnh lý 
cầu thận. Do vậy việc kiểm soát huyết áp 
ở BN ĐTĐ có vai trò quan trọng trong 
việc làm giảm biến chứng thận. Nhiều 
nghiên cứu đã chứng minh rằng điều trị 
các thuốc UCMC, UCTT angiotensin có 
thể làm chậm tiến triển bệnh thận vì điều 
có tác dụng giảm protein niệu và kiểm 
soát huyết áp.
Khi xem xét MLCT với THA 
chúng tôi nhận thấy GTTB MLCT ở nhóm 
có THA cao hơn nhóm không THA (p < 
0,05). So sánh tỉ lệ BN giữa các MLCT 
với THA thấy có sự khác nhau có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). Kết quả này giống 
với nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Hoa, 
MLCT ở BN THA thấp hơn nhóm không 
THA, sự khác nhau này có ý nghĩa thống 
kê (p < 0,05) [6]. Nghiên cứu của Dụng 
Thị Kim Hạnh cũng ghi nhận nhóm THA 
có nguy cơ biến chứng cầu thận cao gấp 
2,15 lần nhóm không có THA [2].
Nhiều thử nghiệm lâm sàng 
ngẫu nhiên có đối chứng đã chứng minh 
hiệu quả kiểm soát glucose máu trên các 
biến chứng mạch máu lớn và vi mạch 
[11]. Nghiên cứu Hashim R. và cộng sự 
(2004) cho thấy nồng độ glucose máu 
ở BN ĐTĐ có MAU (+) cao hơn có ý 
nghĩa so với BN MAU (-) (p < 0,001).
Tuy nhiên, nồng độ glucose máu lúc đói 
của BN chỉ phản ánh ở một thời điểm 
nhất định. Chỉ số giá trị hơn cả, phản 
ánh sự kiểm soát đường huyết đạt tiêu 
chuẩn hay không là HbA1c. Nghiên cứu 
DCCT trên 1441 BN ĐTĐ typ 1 thấy ở 
nhóm điều trị tích cực (glucose máu 8,2 
mmol/L, HbA1c 7,2%) giảm trên 70% 
nguy cơ phát triển bệnh võng mạc, 39% 
nguy cơ xuất hiện microalbumin niệu, 
64% nguy cơ bệnh thần kinh, 46% nguy 
cơ các biến chứng mạch máu lớn so với 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018 
20
nhóm điều trị thông thường (glucose máu 
12,8 mmol/L, HbA1c 9,1%) [9]. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp 
với các nghiên cứu ở trên khi thấy rằng, 
nhóm các bệnh nhân kiểm soát glucose và 
HbA1c đạt mục tiêu có tỷ lệ tăng ACR và 
giảm MLCT thấp hơn có ý nghĩa thống 
kê so với nhóm kiểm soát không đạt mục 
tiêu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Trung Quân (2007), Đái 
tháo đường và điều trị Nhà xuất bản y 
hoc.
2. Dụng Thị Kim Hạnh, Nghiên 
cứu biến chứng cầu thận ở bệnh nhân 
đái tháo đường Tuýp 2 mới phát hiện, in 
Bệnh viện đa khoa Bình Thạnh. 2015.
3. Hồ Hữu Hóa (2009), “Chẩn 
đoán sớm biến chứng thận bằng xét 
nghiệm Microalbumin niệu ở bệnh 
nhân đái tháo đường týp 2 điều trị 
ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Trung 
Ương Thái Nguyên”, Luận Văn Thạc 
sĩ y học, Đại học y Thái Nguyên.
4. Lê Tuyết Hoa (2014), “Tỉ lệ 
giảm độ lọc cầu thận ở người bệnh đái 
tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại 
bv Nguyễn Tri Phương”, Y học TP. Hồ 
Chí Minh, 18(6), 91-98.
5. Nguyễn Đức Phát, Hoàng 
Trung Vinh (2012), “Tỷ lệ, đặc điểm 
biến chứng thận ở bệnh nhân đái tháo 
đường typ 2”, Y học thực hành, 6, 52-
54.
6. Nguyễn Thị Kim Hoa 
(2010), “Nghiên cứu mức lọc cầu thận 
ở bệnh nhân đái tháo đường tại bệnh 
viện trung ương Huế”, Y học thực 
hành, 1(696), 16-19.
7. Nguyễn Thị Thanh Nga, 
Hoàng Trung Vinh (2009), “Tỷ lệ và 
đặc điểm tổn thương thận ở bệnh nhân 
đái tháo đường typ 2 điều trị tại bệnh 
viện Nguyễn Trãi thành phố Hồ Chí 
Minh”, Y học thực hành, 1-4.
8. Trần Thị Ngọc Thư (2013), 
“Nghiên cứu microalumin niệu và một 
số yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân đái 
tháo đường typ 2”, binhdinhhospital, 
available.
9. Control Diabetes, 
Trial Complications, Interventions 
Epidemiology of Diabetes, et al. 
(2000), “Retinopathy and nephropathy 
in patients with type 1 diabetes four 
years after a trial of intensive therapy”, 
The New England journal of medicine, 
342(6), 381.
10. Relimpio F, Pumar A, 
Losada F, et al. (1997), “Urinary 
albumin excretion rate and 
cardiovascular disease in Spaniard 
type 2 diabetic patients”, Diabetes 
research and clinical practice, 36(2), 
127-134.
11. Ritz Eberhard, Stefanski 
Adam (1996), “Diabetic nephropathy 
in type II diabetes”, American Journal 
of Kidney Diseases, 27(2), 167-194.
12. Stults Barry, Jones 
Robert E (2006), “Management of 
hypertension in diabetes”, Diabetes 
Spectrum, 19(1), 25-31.

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_lien_quan_giua_chi_so_acr_va_mlct_voi_mot_so_dac_di.pdf