Khảo sát liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường type 2
Mục tiêu: khảo sát mối liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc
điểm, lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân ĐTĐ typ 2. Đối tượng và phương pháp: Nghiên
cứu trên 173 bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị tại bệnh viện nội tiết trung ương.
Các bệnh nhân được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm sinh hóa máu và nước tiểu.
Kết quả: Nhóm đang điều trị có tỷ lệ ACR tăng và nồng độ ACR trung bình cao hơn có
ý nghĩa thống kê so với nhóm chẩn đoán lần đầu. Nhóm bệnh nhân có thời gian điều trị
> 10 năm có tỷ lệ giảm MLCT cao hơn và MLCT trung bình thấp hơn so với nhóm bệnh
nhân có thời gian điều trị < 10="" năm.="" tỷ="" lệ="" bệnh="" nhân="" giảm="" mlct="" và="" acr="" tăng="" ở="">
bệnh nhân có BMI tăng, THA và tăng kích thước vòng bụng cao hơn có ý nghĩa thống
kê so với nhóm có BMI bình thường, không có THA và không tăng vòng bụng. Tỷ lệ tăng
ACR và giảm MLCT ở bệnh nhân có glucose máu lúc đói và HbA1c cao cao hơn có ý
nghĩa thống kê (p<0.05) so="" với="" nhóm="" có="" glucose="" máu="" lúc="" đói="" và="" hba1c="" đạt="" mục="">0.05)>
ACR trung bình của nhóm glucose máu lúc đói > 7 cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm ≤ 7. Kết luận: Nhóm bệnh nhân đang điều trị có tổn thương thận nặng hơn so với
nhớm bệnh nhân mới được chẩn đoán. BMI và THA làm tăng mức độ tổn thương thận
ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Kiểm soát đường máu càng kém thì mức độ tổn thương thận
càng nặng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường type 2
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 13 1 Bệnh viện Quân y 103 2 Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Phạm Thanh Bình ([email protected]) Ngày nhận bài: 14/5/2018, ngày phản biện: 25/5/2018 Ngày bài báo được đăng: 30/6/2018 KHẢO SÁT LIÊN QUAN GIỮA CHỈ SỐ ACR VÀ MLCT VỚI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 Phạm Thanh Bình1, Nguyễn Song Hài1 Hoàng Trung Vinh1, Hà Thọ Minh Huyền2, Lã Văn Tuấn2 TÓM TẮT Mục tiêu: khảo sát mối liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc điểm, lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân ĐTĐ typ 2. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu trên 173 bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị tại bệnh viện nội tiết trung ương. Các bệnh nhân được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm sinh hóa máu và nước tiểu. Kết quả: Nhóm đang điều trị có tỷ lệ ACR tăng và nồng độ ACR trung bình cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chẩn đoán lần đầu. Nhóm bệnh nhân có thời gian điều trị > 10 năm có tỷ lệ giảm MLCT cao hơn và MLCT trung bình thấp hơn so với nhóm bệnh nhân có thời gian điều trị < 10 năm. Tỷ lệ bệnh nhân giảm MLCT và ACR tăng ở nhóm bệnh nhân có BMI tăng, THA và tăng kích thước vòng bụng cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có BMI bình thường, không có THA và không tăng vòng bụng. Tỷ lệ tăng ACR và giảm MLCT ở bệnh nhân có glucose máu lúc đói và HbA1c cao cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0.05) so với nhóm có glucose máu lúc đói và HbA1c đạt mục tiêu. ACR trung bình của nhóm glucose máu lúc đói > 7 cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm ≤ 7. Kết luận: Nhóm bệnh nhân đang điều trị có tổn thương thận nặng hơn so với nhớm bệnh nhân mới được chẩn đoán. BMI và THA làm tăng mức độ tổn thương thận ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Kiểm soát đường máu càng kém thì mức độ tổn thương thận càng nặng. Từ khóa: Chỉ số ACR, MLCT, glucose máu lúc đói. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018 14 INVESTIGATING OF RELATION BETWEEN ACR INDEX AND GFR WITH CLINICAL AND SUBCLINICAL FEATURES ON TYPE 2 DIABETES MELLITUS PATIENTS ABSTRACT Purpose: Investigating of relation between ACR index and GFR with clinical and subclinical features in diabetes mellitus patients. Subject and method: Study on 173 patients with type 2 diabetes mellitus treated at the National Hospital of Endocrinology. Patients has been taken exam and makes blood and urine test. Results: Proportion of increasing ACR and mean of ACR level of treated group are statistically significantly higher than those of the other. Patient with duration of treatment over 10 years has higher proportion of decreasing GFR and lower mean of GFR than those with duration of treatment under 10 years. Proportion of decreasing GFR and increasing ACR on patients with increasing BMI, blood pressure and waist circumference are statistically significantlly higher than those of patients with normal BMI, blood pressure and waist circumference. Proportion of increasing ACR and decreasing GFR of patients with high fast glucose level and HbA1c are statistically significantly higher than those of patients with fast plasma glucose and HbA1c achieving goal. Mean of ACR of group with FPG over 7 mmol/l is statistically significantlly higher than that of the other. Conclusion: renal injury level of treated group is more serious than that of the other. BMI, blood pressure and waist circumference make increasing renal injury level in type 2 diabetes mellitus patients. The less the plasma glucose control is, the more serious the renal injury level is. Keyword: ACR index, GFR, FPG ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh đái tháo đường gây ra nhiều biến chứng cấp và mạn tính, để lại nhiều di chứng nặng nề cho người bệnh và là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong cho người bệnh. Đặc biệt, ĐTĐ typ 2 thường được phát hiện muộn, khi phát hiện thì đã có biến chứng. Trong số các biến chứng của bệnh ĐTĐ, tổn thương thận là xuất hiện sớm hay gặp và hậu quả nặng nề. Biểu hiện tổn thương thận ở BN ĐTĐ đó là xuất hiện albumine niệu và hoặc giảm MLCT, hậu quả cuối cùng là suy thận mạn tính. Thời gian từ lúc phát hiện ĐTĐ týp 2 đến khi xuất hiện tổn thương thận và suy thận, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Do đó chúng tôi tiến hánh nghiên cứu đề tài này với mục tiêu: khảo sát mối liên quan giữa chỉ số ACR và MLCT với một số đặc điểm lâm CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 15 sàng, cận lâm sàng bệnh nhân ĐTĐ typ 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Gồm 173 BN không phân biệt giới tính, tuổi từ 30 được chẩn đoán đái tháo đường typ 2 theo tiêu chuẩn của Tổ chức y tế thế giới điều trị tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương từ tháng 10/2016 đến tháng 5/2017. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân nhóm nghiên cứu: BN được điều trị nội trú, được chẩn đoán xác định ĐTĐ týp 2 theo IDF năm 2012, tuổi ≥ 30, tự nguyện tham gia NC, hồ sơ bệnh án đầy đủ Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng khỏi nghiên cứu: ĐTĐ týp 1 và ĐTĐ thai kỳ, Bệnh nhân bị ĐTĐ thứ phát (ĐTĐ trong hội chứng Cushing, Basedow, ĐTĐ do sỏi tụy), mắc các bệnh nội tiết kèm theo (bệnh to đầu chi, Basedow, u tủy thượng thận), đã được chẩn đoán bệnh thận mạn tính tiên phát, không đồng ý tham gia nghiên cứu. 2. Phương pháp nghiên cứu - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. - Bệnh nhân vào viện, được hỏi bệnh, khám lâm sàng, làm các xét nghiệm sinh hóa máu, nước tiểu. - Ước lượng MLCT dựa vào creatinin theo công thức 4 điểm MDRD: MLCT crc (mL/phút/l1,73) = 186 x ([Pcr]/88,4) – 1,154 x (tuổi) – 0,203 x (0.742 nếu là nữ) x (1,21) nếu là người gốc Phi - Tính tỉ số albumin/creatinin (ACR: albumin creatinin ratio), đơn vị tính là mg/mmol. - Tiến hành phân chia giai đoạn bệnh thận theo phân loại của KDIGO 2012. - Xử lí số liệu bằng phần mềm EPI- INFO 6.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN Độ tuổi trung bình của nghiên cứu là 61,96 ± 11,59, trong đó nhóm tuổi từ 61-70 chiếm tỷ lệ cao nhất (34,10%), thấp nhất là nhóm tuổi từ 30 – 50 tuổi (14,45%). Nam chiếm 39,31%, nữ chiếm 60,69%. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018 16 Bảng 1: Sự khác biệt giữa ACR và MLCT giữa nhóm ĐTĐ mới được chẩn đoán và đang điều trị. Chỉ số Số lượng (n) Chẩn đoán lần đầu Đang được điều trị PTỷ lệ (%) Số lượng (n) Tỷ lệ (%) ACR < 3 13 15,66 70 84,34 < 0,05 ≥ 3 11 12,22 79 87,78 < 0,05 X ± SD 7.82 ± 10.89 15.89 ± 38.05 < 0,05 MLCT < 60 2 5,26 36 94,74 < 0,05 ≥ 60 22 16,30 113 83,70 < 0,05 X ± SD 83,00±18,64 71,45 ± 20,18 < 0,05 Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có ACR ≥ 3 mg/mmol/l, và nồng độ ACR trung bình của nhóm đang được điều trị cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0.05) so với nhóm chẩn đoán lần đầu. Bảng 2: Mối liên quan giưa ACR, MLCT và thời gian phát hiện bệnh Chỉ số Số lượng (n) ≤ 10 năm 112 > 10 năm 61 P Tỷ lệ (%) Số lượng (n) Tỷ lệ (%) ACR 0,05 ≥ 3 54 60,00 36 40,00 > 0,05 X ± SD 9,28 ± 16,77 24,83 ± 54,40 < 0,05 MLCT < 60 16 42,11 22 57,89 < 0,05 ≥ 60 96 71,11 39 28,89 < 0,05 X ± SD 79,92 ± 20,20 65,85 ± 22,16 < 0,05 Nhận xét: ACR trung bình của nhóm bệnh nhân có thời gian bị bệnh > 10 năm cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân có thời gian bị bệnh ≤ 10 năm. Nhóm bệnh nhân có thời gian bị bệnh > 10 nămcó tỷ lệ bệnh nhân có MLCT giảm cao hơn và nồng độ MLCT trung bình thấp hơn nhóm bệnh nhân có thời gian bị bệnh nhân có thời gian bị bệnh < 10 năm. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 17 Bảng 3: Mối liên quan giữa ACR, MLCT với 1 số chỉ số lâm sàng Các yếu tố ≥ 3 ACR MLCT X ± SD < 60 X ± SD BMI Không béo phì 72,22 14,90 ± 30,91 73,68 83,57 ± 19,30 Có béo phì 27,78 27,40 ± 34,94 26,32 71,22 ± 18,60 p < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 Tăng vòng bụng Không 35,56 12,13 ± 20,96 28,95 79,94 ± 21,58 Có 64,44 19,35 ± 22,08 71,05 71,96 ± 21,66 p < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 Tăng huyết áp Không 23,33 7,33 ± 11,89 15,79 84,88 ± 19,46 Có 66,67 17,79 ± 31,24 84,21 70,93 ± 21,64 p < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân giảm MLCT và ACR tăng ở nhóm bệnh nhân có BMI tăng, THA và tăng kích thước vòng bụng cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có BMI bình thường, không có THA và không tăng vòng bụng. Bảng 4: So sánh tỉ lệ ACR, MLCT với các chỉ số kiểm soát đường máu (n = 173) Các yếu tố ≥ 3 ACR MLCT X ± SD ≤60 X ± SD Glucose luc đói mmol/l ≤ 7 13,33 7,29 ± 14,17 18,42 73,82 ± 21,35 > 7 86,67 18,53 ± 25,83 81,58 75,23 ± 22,11 p 0,05 HbA1c % ≤ 7,5 26,67 11,45 ± 24,28 24,86 74,32 ± 19,10 > 7,5 73,33 21,23 ± 25,62 53,18 75,24 ± 23,11 p 0,05 Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có glucose máu lúc đói và HbA1c cao có tăng ACR và giảm MLCT cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0.05) so với nhóm có glucose máu lúc đói và HbA1c đạt mục tiêu. ACR trung bình của nhóm glucose máu lúc đói > 7 cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm ≤ 7. BÀN LUẬN Theo nghiên cứu của Haris và cộng sự, bệnh nhân ĐTĐ typ 2 tiến triển âm thâm từ 9 – 12 năm mới có biểu hiện lâm sàng, do đó khi đã chẩn đoán, đa số các bệnh nhân đã có biến chứng vi mạch TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018 18 như biến chứng mắt, biến chứng thận. Theo nghiên cứu của Nelson và cộng sự ở giai đoạn chẩn đoán ĐTĐ týp 2 có khoảng 10% có microalbumin niệu và tiến triển tới suy thận giai đoạn cuối trong vòng 10 năm [1]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng có 6.36% bệnh nhân có microalbumin niệu và 1.16 bệnh nhân có giảm MLCT ở thời điểm chẩn đoán, phù hợp với các nghiên cứu ở trên. Theo thời gian phụ thuộc vào mức độ kiểm soát đường máu và các yếu tố nguy cơ của bệnh nhân, tổn thương thận sẽ xuất hiện theo từng giai đoạn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng, bệnh nhân đang điều trị có tỷ lệ có microalbumin niệu, nồng độ microalbumin niệu trung bình, tỷ lệ giảm MLCT cũng như MLCT trung bình cao hơn có ý nghĩa thống kê so với bệnh nhân ở thời điểm chẩn đoán. Thời điểm xuất hiện tổn thương thận sớm hay muộn phụ thuộc vào việc kiểm soát đường máu và các yếu tô nguy cơ của bệnh nhân. Relimpio khảo sát mức thải trừ albumin niệu và bệnh tim mạch trên BN ĐTĐ typ 2 ở Tây Ban Nha cho thấy: Thời gian bị bệnh ở nhóm MAU (-) là 12,6 ± 9,6 năm, nhóm MAU(+) là 13,5 ± 9,6 năm, nhóm tiểu đạm đại thể là 13,5 ± 9,6 năm sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) [10]. Điều này cho thấy BN có thời gian phát bệnh càng lâu thì khả năng xuất hiện albumin niệu càng rất lớn. Trần Thị Ngọc Thư nghiên cứu 72 BN được chẩn đoán bị ĐTĐ typ 2 khi so sánh GTTB ACR với thời gian bị bệnh cho thấy có mối liên quan giữa ACR và thời gian phát hiện bệnh (p < 0,05) [8]. Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng có kết quả tương tự GTTB ACR nhóm bị bệnh >10 năm 24,83 mg/mmol cao hơn nhóm bị bệnh ≤ 10 năm 9,28 mg/mmol, sự khác biệt này co ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Khi xét MLCT với thời gian bị bệnh chúng tôi nhận thấy, tỉ lệ BN ở các MLCT với thời gian bị bệnh khác nhau có ý nghĩa thông kê (p < 0,05), GTTB MLCT ở nhóm có thời gian bị bệnh ≤ 10 năm là 79,92% cao hơn nhóm có thời gian bị bệnh > 10 năm là 65,85, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết quả này giống với nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Hoa, Lê Tuyết Hoa, nghiên cứu cho thấy MLCT có xu hướng giảm dần theo thời gian mắc bệnh [4],[6]. Béo bụng dẫn đến sự tích tụ quá mức các mô mỡ trong nội tạng. Chính các tế bào mỡ trong nội tạng cơ thể làm thay đổi các chất cytokines trong cơ thể và hậu quả làm tăng tryglyceride và glucose trong máu. Điều này đồng nghĩa với việc người béo bụng sẽ phải đối mặt với nguy cơ tai biến mạch máu não hay nhồi máu cơ tim và bệnh thận cao gấp 3 lần so với người không có hội chứng chuyển hóa. Nghiên cứu của nghiên cứu của Dụng Thị Kim Hạnh ghi nhận VB là yếu tố nguy cơ tương quan thận với albumin niệu[2]. Nghiên cứu của Hồ Hữu Hóa cho thấy những trường hợp vòng bụng tăng nguy cơ MAU (+) cao gấp 3,3 lần những trường hợp vòng bụng ở ngưỡng bình thường[3]. Đây chính là yếu tố ảnh hưởng tới những khó khăn trong kiểm soát glucose máu cũng như làm tăng tỉ lệ tăng HA và biến chứng thận ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 ở Việt CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 19 Nam. Nhận định này của chúng tôi cũng giống như nhiều tác giả trong nước và nước ngoài khác. Trong nghiên cứu của chúng tôi khi so sánh tỉ lệ người có và không béo phì (BMI ≥ 25) với nhóm có ACR (+) và ACR (-) cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Thư cho thấy nhóm BMI ≥ 23 có giá trị trung bình ACR cao hơn nhóm có BMI < 23, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) [8]. Nghiên cứu chúng tôi cũng cho kết quả tương tự, thấy nhóm béo phì có giá trị trung bình ACR cao hơn nhóm không co béo phì, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Theo Batty Stult ở BN ĐTĐ typ2 tỉ lệ THA là 50 % thời điểm khởi phát bệnh, tăng lên 80% khi có microalbumin niệu và tới hơn 90% khi có macroalbumin niệu[12]. Nguyễn Thị Thanh Nga cho thấy bệnh ĐTĐ kèm THA làm gia tăng tỉ lệ tổn thương thận (p < 0,05) [7] . Nguyễn Đức Phát cho thấy THA là nguy cơ có ý nghĩa biến chứng thận ở BN ĐTĐ typ 2 [5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi so sánh tỉ lệ THA ở nhóm có ACR (+) và nhóm có ACR (-) thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.Trong ĐTĐ tình trạng xuất hiện MAU thường phối hợp với kháng insulin ,nhảy cảm mối. THA và ĐTĐ làm tăng nặng nhau góp phần tạo vòng xoáy tiến triển THA, bệnh thận và bệnh thận mạn. Ở BN ĐTĐ, THA vừa là yếu tố thúc đẩy sự tiến triển của bệnh lý cầu thận. Do vậy việc kiểm soát huyết áp ở BN ĐTĐ có vai trò quan trọng trong việc làm giảm biến chứng thận. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng điều trị các thuốc UCMC, UCTT angiotensin có thể làm chậm tiến triển bệnh thận vì điều có tác dụng giảm protein niệu và kiểm soát huyết áp. Khi xem xét MLCT với THA chúng tôi nhận thấy GTTB MLCT ở nhóm có THA cao hơn nhóm không THA (p < 0,05). So sánh tỉ lệ BN giữa các MLCT với THA thấy có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết quả này giống với nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Hoa, MLCT ở BN THA thấp hơn nhóm không THA, sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) [6]. Nghiên cứu của Dụng Thị Kim Hạnh cũng ghi nhận nhóm THA có nguy cơ biến chứng cầu thận cao gấp 2,15 lần nhóm không có THA [2]. Nhiều thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng đã chứng minh hiệu quả kiểm soát glucose máu trên các biến chứng mạch máu lớn và vi mạch [11]. Nghiên cứu Hashim R. và cộng sự (2004) cho thấy nồng độ glucose máu ở BN ĐTĐ có MAU (+) cao hơn có ý nghĩa so với BN MAU (-) (p < 0,001). Tuy nhiên, nồng độ glucose máu lúc đói của BN chỉ phản ánh ở một thời điểm nhất định. Chỉ số giá trị hơn cả, phản ánh sự kiểm soát đường huyết đạt tiêu chuẩn hay không là HbA1c. Nghiên cứu DCCT trên 1441 BN ĐTĐ typ 1 thấy ở nhóm điều trị tích cực (glucose máu 8,2 mmol/L, HbA1c 7,2%) giảm trên 70% nguy cơ phát triển bệnh võng mạc, 39% nguy cơ xuất hiện microalbumin niệu, 64% nguy cơ bệnh thần kinh, 46% nguy cơ các biến chứng mạch máu lớn so với TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018 20 nhóm điều trị thông thường (glucose máu 12,8 mmol/L, HbA1c 9,1%) [9]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu ở trên khi thấy rằng, nhóm các bệnh nhân kiểm soát glucose và HbA1c đạt mục tiêu có tỷ lệ tăng ACR và giảm MLCT thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm kiểm soát không đạt mục tiêu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Trung Quân (2007), Đái tháo đường và điều trị Nhà xuất bản y hoc. 2. Dụng Thị Kim Hạnh, Nghiên cứu biến chứng cầu thận ở bệnh nhân đái tháo đường Tuýp 2 mới phát hiện, in Bệnh viện đa khoa Bình Thạnh. 2015. 3. Hồ Hữu Hóa (2009), “Chẩn đoán sớm biến chứng thận bằng xét nghiệm Microalbumin niệu ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên”, Luận Văn Thạc sĩ y học, Đại học y Thái Nguyên. 4. Lê Tuyết Hoa (2014), “Tỉ lệ giảm độ lọc cầu thận ở người bệnh đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại bv Nguyễn Tri Phương”, Y học TP. Hồ Chí Minh, 18(6), 91-98. 5. Nguyễn Đức Phát, Hoàng Trung Vinh (2012), “Tỷ lệ, đặc điểm biến chứng thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2”, Y học thực hành, 6, 52- 54. 6. Nguyễn Thị Kim Hoa (2010), “Nghiên cứu mức lọc cầu thận ở bệnh nhân đái tháo đường tại bệnh viện trung ương Huế”, Y học thực hành, 1(696), 16-19. 7. Nguyễn Thị Thanh Nga, Hoàng Trung Vinh (2009), “Tỷ lệ và đặc điểm tổn thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị tại bệnh viện Nguyễn Trãi thành phố Hồ Chí Minh”, Y học thực hành, 1-4. 8. Trần Thị Ngọc Thư (2013), “Nghiên cứu microalumin niệu và một số yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2”, binhdinhhospital, available. 9. Control Diabetes, Trial Complications, Interventions Epidemiology of Diabetes, et al. (2000), “Retinopathy and nephropathy in patients with type 1 diabetes four years after a trial of intensive therapy”, The New England journal of medicine, 342(6), 381. 10. Relimpio F, Pumar A, Losada F, et al. (1997), “Urinary albumin excretion rate and cardiovascular disease in Spaniard type 2 diabetic patients”, Diabetes research and clinical practice, 36(2), 127-134. 11. Ritz Eberhard, Stefanski Adam (1996), “Diabetic nephropathy in type II diabetes”, American Journal of Kidney Diseases, 27(2), 167-194. 12. Stults Barry, Jones Robert E (2006), “Management of hypertension in diabetes”, Diabetes Spectrum, 19(1), 25-31.
File đính kèm:
khao_sat_lien_quan_giua_chi_so_acr_va_mlct_voi_mot_so_dac_di.pdf

