Khảo sát kiến thức thực hành phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2017

Đặt vấn đề: Chăm sóc sức khỏe sơ sinh hiện đang là một vấn đề thu hút được sự

quan tâm của các quốc gia trên toàn thế giới. Trong những năm qua, tỷ lệ tử vong

trẻ em nói chung đã giảm mạnh. Để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ toàn

cầu về giảm tử vong mẹ và trẻ em như đã cam kết với cộng đồng quốc tế, chúng ta

cần phải nỗ lực hơn nữa trong các hoạt động vì sự sống còn của trẻ em, đặc biệt

là cứu sinh mạng trẻ sơ sinh.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ có kiến thức - thực hành đúng phương pháp

da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại Bệnh

viện Hùng Vương (BVHV) năm 2017 và các yếu tố nào liên quan đến kiến thức,

thực hành da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM).

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 01

đến tháng 03 năm 2017 với 384 phụ nữ được mời tham gia phỏng vấn bằng

bảng câu hỏi đã được soạn sẵn. Dựa trên bảng câu hỏi này, chúng tôi đánh giá

kiến thức, thực hành về phương pháp da kề da và NCBSM sớm. Tần suất và tỷ

lệ phần trăm được sử dụng trong các câu trả lời của bảng câu hỏi nghiên cứu và

phép kiểm định chi bình phương được sử dụng để xác định mối liên quan giữa các

yếu tố.

Kết quả: Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành về phương pháp da kề da chiếm

47,4% và 97,4%. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ sớm là 76,6%

nhưng tỷ lệ bà mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau sanh còn thấp, chỉ 30,5%.

Kết luận: Nhân viên y tế nên hướng dẫn, tư vấn cũng như hỗ trợ về phương pháp

da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm cho các bà mẹ đến sanh tại BVHV

pdf 8 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát kiến thức thực hành phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát kiến thức thực hành phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2017

Khảo sát kiến thức thực hành phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2017
57
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
KHẢO SÁT KIẾN THỨC
THỰC HÀNH PHƯƠNG PHÁP DA KỀ DA 
VÀ NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ SỚM 
CỦA CÁC BÀ MẸ SANH NGẢ ÂM ĐẠO 
TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG NĂM 2017
HOÀNG THỊ HUỆ * NGUYỄN TRIỆU THANH ĐAN**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chăm sóc sức khỏe sơ sinh hiện đang là một vấn đề thu hút được sự 
quan tâm của các quốc gia trên toàn thế giới. Trong những năm qua, tỷ lệ tử vong 
trẻ em nói chung đã giảm mạnh. Để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ toàn 
cầu về giảm tử vong mẹ và trẻ em như đã cam kết với cộng đồng quốc tế, chúng ta 
cần phải nỗ lực hơn nữa trong các hoạt động vì sự sống còn của trẻ em, đặc biệt 
là cứu sinh mạng trẻ sơ sinh.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ có kiến thức - thực hành đúng phương pháp 
da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại Bệnh 
viện Hùng Vương (BVHV) năm 2017 và các yếu tố nào liên quan đến kiến thức, 
thực hành da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM).
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 01 
đến tháng 03 năm 2017 với 384 phụ nữ được mời tham gia phỏng vấn bằng 
bảng câu hỏi đã được soạn sẵn. Dựa trên bảng câu hỏi này, chúng tôi đánh giá 
kiến thức, thực hành về phương pháp da kề da và NCBSM sớm. Tần suất và tỷ 
lệ phần trăm được sử dụng trong các câu trả lời của bảng câu hỏi nghiên cứu và 
phép kiểm định chi bình phương được sử dụng để xác định mối liên quan giữa các 
yếu tố.
Kết quả: Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành về phương pháp da kề da chiếm 
47,4% và 97,4%. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ sớm là 76,6% 
nhưng tỷ lệ bà mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau sanh còn thấp, chỉ 30,5%.
Kết luận: Nhân viên y tế nên hướng dẫn, tư vấn cũng như hỗ trợ về phương pháp 
da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm cho các bà mẹ đến sanh tại BVHV. 
Từ khóa: Kiến thức - thực hành phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ 
sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại BVHV năm 2017.
* Hộ sinh Khoa Sanh - Bệnh viện Hùng Vương. ĐT 0918339556. 
Email: [email protected]
58
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
ĐẶT VẤN ĐỀ
 Chăm sóc sức khỏe sơ sinh hiện đang 
là một vấn đề thu hút được sự quan tâm 
của các quốc gia trên toàn thế giới. Trong 
những năm qua, tỷ lệ tử vong trẻ em nói 
chung đã giảm mạnh. Để đạt được mục tiêu 
phát triển thiên niên kỷ toàn cầu về giảm 
tử vong mẹ và trẻ em như đã cam kết với 
cộng đồng quốc tế, chúng ta cần phải nỗ lực 
hơn nữa trong các hoạt động vì sự sống còn 
của trẻ em, đặc biệt là cứu sinh mạng trẻ sơ 
sinh [4].
Ước tính hằng năm trên thế giới 
có khoảng 4 triệu trẻ sơ sinh tử vong, 
KNOWLEDGE - PRACTICE OF KNOWLEDGE METHODS FOR LEATHER AND 
CHILDREN BY EARLY AMERICAN MILK IN MALAYSIA HOSPITALS IN THE YEAR 2017
ABTRACT
Background: Neonatal care is currently an issue that attracts the attention of nations 
around the world. Over the years, the overall mortality rate has plummeted. In order to 
achieve the global MDG goal of reducing maternal and child mortality as committed to 
the international community, we need to make greater efforts in child survival activities, 
Especially the neonatal life saving .
Objectives: Determination of knowledge-based practice of sciatica and early breast-
feeding of mothers giving birth vaginaly at BVHV in 2017 and factors related to knowl-
edge and practice of skin-to-skin contact and EBF.
Methods: A cross-sectional study was conducted from January to March 2017 with 
384 women invited to the interview with a prepared questionnaire. Based on this 
questionnaire, we evaluated the knowledge, practice on skin-to-skin and early breast-
feeding. Frequency and percentage used in the answers of the study questionnaire, 
chi-squared tests were used to determine the relationship between the factors.
Results: The percentage of mothers with knowledge and practice on skin-to-skin con-
tact accounted for 47.4% and 97.4%. The proportion of mothers with early breastfeed-
ing knowledge is 76.6%, but the rate of mothers breastfeeding within the first hour after 
birth is low at only 30.5%.
Conclusion: Health care workers should provide counseling and counseling as well 
as support on skin-to-skin and breastfeeding methods for mothers giving birth at Hung 
Vuong Hospital.
Keywords: Knowledge-practice of skin-to-skin contact and early breastfeeding of 
vaginal mothers at Hung Vuong Hospital in 2017.
chiếm 37% số tử vong trẻ dưới 5 tuổi 
và hơn 70% số tử vong trẻ dưới 1 tuổi 
[6]. Gần 70% số tử vong sơ sinh xảy ra 
trong tuần đầu, 40% trong số này xảy ra 
trong vòng 24 giờ đầu sau sinh [9]. Ở 
Việt Nam, theo điều tra Dân số và Sức 
khỏe, tử vong mẹ và tử vong trẻ em đã 
giảm đáng kể. Tử vong mẹ đã giảm hơn 
3 lần từ 233/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 
1990 ước còn khoảng 60/100.000 sơ sinh 
sống năm 2014. Mặc dù hậu quả do bệnh 
tật và tử vong sơ sinh rất nặng nề nhưng 
các can thiệp sẵn có trong phạm vi các 
59
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ 
- trẻ em có thể cứu sống sinh mạng của 
hầu hết trẻ sơ sinh [5]. Trong đó, ủ ấm 
da kề da và cho trẻ bú sữa mẹ sớm trong 
vòng 1 giờ đầu sau khi sinh là các can 
thiệp đơn giản, dễ thực hiện góp phần 
nâng cao sức khỏe và giảm tỷ lệ tử vong 
ở trẻ. Ngoài việc điều chỉnh thân nhiệt, 
phương pháp da kề da giữa mẹ và trẻ sơ 
sinh ngay sau đẻ còn có nhiều tác dụng 
như: tăng tỷ lệ bú mẹ sớm và bú mẹ hoàn 
toàn, tăng tình cảm mẹ con, giảm nhiễm 
khuẩn sơ sinh [3], [7]. Cho trẻ bú sớm 
trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ giúp cung 
cấp chất dinh dưỡng và miễn dịch, làm 
tăng tỷ lệ và thời gian bú mẹ hoàn toàn 
ở trẻ sau này, giảm bệnh tật và tử vong ở 
trẻ [10].
Vì đơn giản và hiệu quả nên những 
can thiệp này được thực hiện thường 
xuyên và rộng khắp ở nhiều nước trên 
thế giới. Tại BVHV phương pháp ủ ấm 
da kề da được áp dụng vào tháng 7 năm 
2015. Trong quá trình thực hiện chúng 
tôi thấy một số vấn đề như sau: nhiều mẹ 
còn khá lạ lẫm với phương pháp này bởi 
thông thường sau khi sanh xong em bé 
sẽ được nhân viên y tế tách khỏi mẹ một 
khoảng thời gian khá dài để thực hiện 
các bước chăm sóc ngay sau sanh như 
làm rốn, nhỏ mắt, tắm, mặc áo tã, chích 
Vitamin K1 trước khi nằm cạnh mẹ; 
mẹ không đồng ý hoặc rất sợ cho bé nằm 
da kề da trên ngực mẹ; hầu như các bà mẹ 
chưa biết rõ các lợi ích của phương pháp 
da kề da cũng như cho bé bú mẹ sớm để 
đánh giá đúng và đầy đủ thực trạng kiến 
thức - thực hành ủ ấm da kề da và nuôi 
con bằng sữa mẹ sớm. Đó cũng là lý do 
chúng tôi chọn đề tài này. 
Mục đích của nghiên cứu là để xác 
định các yếu tố chính góp phần vào thực 
hành phương pháp da kề da và nuôi con 
bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ đến sanh 
tại BVHV để thực hiện các chiến lược 
can thiệp hiệu quả nhằm nâng cao tỷ lệ 
da kề da và bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ 
đầu sau sanh. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: 
1. Xác định tỷ lệ có kiến thức – thực 
hành đúng phương pháp da kề da và NCB-
SM sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại 
BVHV năm 2017.
2. Xác định tỷ lệ nhận nguồn thông tin 
truyền thông về phương pháp da kề da và 
NCBSM của các bà mẹ sanh ngả âm đạo 
tại BVHV năm 2017.
3. Xác định mối liên quan giữa đặc điểm 
dân số với kiến thức và thực hành phương 
pháp da kề da.
4. Xác định mối liên quan giữa đặc điểm 
dân số với kiến thức và thực hành NCB-
SM.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt 
ngang. Tham khảo theo kết quả nghiên cứu 
của tác giả Trần Thị Thanh Thủy (2016), tỷ 
lệ thực hành đúng p=55%, với độ tin cậy 
95% α sẽ là 5%, với trị số giới hạn của độ 
tin cậy Z = 1.96, độ chính xác d=0.05 đưa 
vào cách tính mẫu được số mẫu là 384 sản 
phụ.
Tiêu chuẩn chọn mẫu là các bà mẹ 
sanh ngả âm đạo và có cân năng trẻ từ 
2.000 gr trở lên và có chỉ định theo mẹ, 
mới sanh trong vòng 1-2 giờ tại khoa 
Sanh BVHV và đồng ý tham gia nghiên 
cứu.
Số liệu được nhập vào máy tính và xử 
lý bằng phần mềm STATA 13.0. Tỷ lệ phụ 
nữ có kiến thức đúng và thực hành đúng 
về phương pháp da kề da và NCBSM sớm 
được tính theo tỷ lệ %. Xác định các yếu tố 
liên quan bằng kiểm định chi bình phương 
khuynh hướng.
60
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Biểu đồ 1: Đặc điểm sinh sản của đối tượng nghiên cứu (n = 384)
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Sản phụ 
được xem là có kiến thức đúng về phương 
pháp da kề da khi trả lời từ 2 nội dung kiến 
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Những người 
sinh con lần đầu và sinh lần 2 chiếm tỷ lệ tương 
đương nhau, chỉ có khoảng 13% là sinh con từ 
lần 3 trở lên. Trong lần sinh này thì tỷ lệ sản phụ 
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Chỉ có 
gần 64% sản phụ nhận được thông tin 
về phương pháp da kề da, trong đó tỷ lệ 
Bảng 1: Nguồn thông tin về phương pháp da kề da (n = 384)
Biểu đồ 2: Kiến thức về phương pháp da kề da (n = 384)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Nhận thông tin về da kề da (có) 245 63,8
Nguồn thông tin da kề da (n = 285 lượt)
Từ cơ sở y tế 170 59,6
Từ phương tiện truyền thông 115 40,4
khám thai liên tục tại BVHV chỉ có 25%, đa số 
là khám thai ngoài BVHV (gần 47%). Giới tính 
của trẻ trong lần sinh này khá cân xứng với tỷ lệ 
nam và nữ gần như tương đương nhau.
nhận được thông tin từ cơ sở y tế nhiều 
hơn so với nhận thông tin từ phương tiện 
truyền thông. 
thức đúng trở lên. Kết quả cho thấy chỉ có 
47,4% sản phụ có kiến thức chung đúng về 
phương pháp da kề da.
61
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 2: Thực hành về phương pháp da kề da (n = 384)
Biểu đồ 3: Nguồn thông tin về phương pháp nuôi con bằng sữa non (n = 384)
Biểu đồ 4: Kiến thức về phương pháp nuôi con bằng sữa non (n = 384)
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tất cả sản 
phụ đều cho trẻ ủ ấm ngay sau khi sinh và tiếp 
xúc da kề da sau khi lau khô trẻ. Tuy nhiên, 
có khoảng 10% chỉ cho trẻ tiếp xúc da kề da 
trong vòng <60 phút. Sản phụ được xem là có 
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Hầu hết sản 
phụ đều có nhận được thông tin về nuôi 
con bằng sữa non (chiếm 90%), trong đó 
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Gần như tất 
cả sản phụ đều biết rằng sữa non tốt cho trẻ sơ 
sinh và cần cho trẻ bú mẹ sớm sau khi sinh. 
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Lau khô rồi tiếp xúc da kề da (có) 384 100
Ủ ấm ngay sau sinh (có) 384 100
Từ cơ sở y tế 170 59,6
Thời gian da kề da với mẹ
<60 phút 10 2,6
60 – 90 phút 360 93,8
>90 phút 14 3,6
Thực hành đúng 374 97,4
Thực hành chung đúng 374 97,4
(3/3 nội dung)
thực hành đúng về phương pháp da kề da khi 
thực hành đúng cả 3 nội dung bao gồm cho 
tiếp xúc da kề da ít nhất ≥60 phút và ủ ấm cho 
trẻ ngay sau khi sinh. Hầu hết sản phụ đều có 
thực hành đúng, chiếm 97,4%.
tỷ lệ nhận được thông tin từ phương tiện 
truyền thông nhiều hơn so với nhận thông 
tin từ cơ sở y tế. 
Tuy nhiên, chỉ có 44% sản phụ biết rằng nên 
cho trẻ bú mẹ trong 60 phút đầu sau sinh và 
khoảng 77% biết các dấu hiệu trẻ đòi bú mẹ. 
62
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
BÀN LUẬN
Nghiên cứu trên 384 bà mẹ sinh con tại 
BVHV năm 2017 cho thấy gần như tất cả 
sản phụ (99,5%) đều thích trẻ sơ sinh nằm 
trên ngực mình sau khi sinh nhưng chỉ có 
31,3% sản phụ có kiến thức đúng về giữ ấm 
cho trẻ sau sinh, gần 54% sản phụ không 
biết về thời gian cho trẻ tiếp xúc da kề da 
và chỉ có 47,4% sản phụ có kiến thức chung 
đúng về phương pháp da kề da. Tỉ lệ các bà 
mẹ biết về phương pháp da kề da thấp là 
điều dễ hiểu vì phương pháp này mới được 
áp dụng tại bệnh viện (2015) cũng như trên 
cả nước. Kết quả này cao hơn kết quả điều 
tra ban đầu thực hiện tại Khoa Sản của một 
Biểu đồ 5: Thực hành về phương pháp nuôi con bằng sữa non (n = 384)
Bảng 3: Mối liên quan giữa kiến thức với thực hành về phương pháp nuôi con bằng sữa 
mẹ sớm (n = 384)
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Có 87,5% 
sản phụ cho trẻ bú khi thấy trẻ có dấu hiệu 
đòi bú mẹ nhưng chỉ có 30,5% sản phụ cho 
trẻ sơ sinh bú sữa mẹ trong thời gian <1 giờ 
Đặc điểm Thực hành đúng Thực hành Giá trị p PR
 (KTC 95%)
 Tần số (%) Tần số (%)
 (n = 374) (n = 10) 
Kiến thức nuôi con bằng sữa non
Đúng 172 (58,5) 122 (41,5) <0,001 1,82 (1,32 – 2,49)
Chưa đúng 29 (32,2) 61 (67,8) 
chưa đúng
Trung Tâm Y khoa Anh quốc vào tháng 
3/2000 là 16% [8] và nghiên cứu tại 4 bệnh 
viện Hà Nội năm 2005 là 13,9% [2]. 
Về tỷ lệ bà mẹ thực hành ủ ấm da kề da 
rất cao (100%) trong nghiên cứu này cũng 
là điều dễ hiểu vì đây là phương pháp mà 
bệnh viện đã áp dụng trong chăm sóc 
thiết yếu cho trẻ sơ sinh. Tỷ lệ các bà mẹ 
biết về phương pháp là 63,8%, trong đó tỷ 
lệ nhận được thông tin từ cơ sở y tế nhiều 
hơn so với nhận thông tin từ phương tiện 
truyền thông. 
Nghiên cứu cho thấy gần như tất cả 
sản phụ đều biết rằng sữa non tốt cho trẻ 
sơ sinh. Nguồn thông tin về sữa non là tốt 
sau sinh. Khi quan sát cách sản phụ cho trẻ 
bú mẹ thì chỉ có gần 52% là cho bú với tư 
thế bú đúng và cách ngậm vú đúng. 
63
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
được biết đến nhiều hơn qua phương tiện 
truyền thông (77%) so với từ cơ sở y tế. Và 
hầu hết các bà mẹ đều biết là cần cho trẻ bú 
sớm (94%) tuy nhiên chỉ có 44% bà mẹ biết 
rằng nên cho trẻ bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu 
sau sinh. Về thực hành NCBSM thì hầu như 
các bà mẹ có thấy được dấu hiệu đòi bú của 
trẻ (87,5%) nhưng trẻ bắt vú tốt và đúng chỉ 
đạt 51% và bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh 
thì tỉ lệ này càng thấp hơn, chỉ đạt 30,5%. 
Kiến thức đúng chung trong thực hành cho 
trẻ bú chỉ đạt 52,3% và trong số khảo sát này 
thì số bà mẹ khám thai tại viện và cho bé bú 
mẹ sớm trong 1 giờ đầu sau sinh cũng đạt 
rất thấp (gần 32%) trong tổng số sản phụ 
khám thai tại viện.
Ở Việt Nam, theo một nghiên cứu của 
Viện Dinh dưỡng Quốc gia, tỷ lệ cho trẻ 
bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh 
chiếm 57% [1], tỷ lệ này có sự khác biệt rất 
lớn giữa các vùng. Ở miền Trung tỷ lệ cho 
con bú sớm 1 giờ đầu sau sinh chỉ chiếm 
39%, trong đó ở miền núi miền Bắc là 68%. 
Theo nghiên cứu 4 bệnh viện Hà Nội năm 
2005, tỉ lệ bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu 
sau sinh là 44,3% [2]. Tỷ lệ bú mẹ sớm trong 
vòng 1 giờ đầu sau khi sinh trong nghiên 
cứu này cao hơn so với kết quả một số ng-
hiên cứu của nước ngoài, nhưng thấp hơn 
so với kết quả phân tích của Viện Dinh 
dưỡng [1] và 4 bệnh viện Hà Nội năm 2005 
[2], có thể do nghiên cứu được tiến hành ở 
một quần thể bà mẹ với các đặc trưng riêng 
không thể đồng nhất với kết quả trên các bà 
mẹ trên cả nước.
Kết quả nghiên cứu cho thấy 64% sản phụ 
có nhận được nguồn thông tin về phương 
pháp da kề da, trong đó sản phụ nhận được 
thông tin từ cơ sở y tế nhiều hơn từ phương 
tiện truyền thông, đặc biệt nhận được 
nguồn thông tin nhiều nhất qua nhân viên 
y tế trong chuyển dạ chiếm tỷ lệ gần 50%. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hầu hết 
sản phụ đều có nhận thông tin về phương 
pháp nuôi con bằng sữa non (NCBSN) đến 
90% trong đó tỷ lệ nhận được thông tin từ 
phương tiện truyền thông nhiều hơn cơ 
sở y tế (trong quá trình chuyển dạ chiếm 
11%). Có mối liên quan giữa trình độ học 
vấn của sản phụ và kiến thức về phương 
pháp NCBSN với p = 0,013. Theo đó, học 
vấn càng tăng thì tỷ lệ kiến thức đúng cũng 
tăng theo. Có sự khác biệt về tỷ lệ kiến thức 
đúng đối với phương pháp NCBSN của sản 
phụ ở những nhóm nghề nghiệp khác nhau 
với p = 0,015. Những sản phụ là công nhân 
viên có tỷ lệ kiến thức đúng cao hơn so với 
những sản phụ không phải là công nhân 
viên. Có mối liên quan giữa số lần sinh và 
kiến thức với p = 0,003. Theo đó, sản phụ 
càng sinh nhiều lần thì tỷ lệ kiến thức đúng 
cũng tăng theo. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy có sự khác biệt về tỷ lệ thực hành về 
NCBSM sớm giữa trẻ trai so với trẻ gái với 
p = 0,023. 
Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy thực 
hành về ủ ấm cho trẻ sơ sinh ngay sau sinh 
như áp dụng phương pháp da kề da thì cao 
và cho trẻ bú ngay trong vòng một giờ đầu 
sau sinh của các bà mẹ sinh con tại BVHV 
năm 2017 còn thấp (tương ứng là 97,4% 
và 30,5%). Gần như không có sự khác biệt 
giữa các nhóm bà mẹ khác nhau về các thực 
hành này. 
KẾT LUẬN
Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng và thực 
hành đúng phương pháp ủ ấm da kề da cho 
trẻ sơ sinh tương ứng là 47,4% và 97,4%. 
Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về NCBSM 
sớm là 76,6%, nhưng tỷ lệ bà mẹ cho con bú 
trong vòng một giờ đầu sau sinh còn thấp 
30,5%.
Nguồn tiếp cận thông tin về phương pháp 
ủ ấm da kề da của các bà mẹ: 64% trong đó 
tỷ lệ nhận được thông tin từ cơ sở y tế nhiều 
hơn so với nhận thông tin từ phương tiện 
truyền thông. Nguồn tiếp cận thông tin về 
NCBSM của các bà mẹ là 90%, trong đó 
tỷ lệ nhận được thông tin từ phương tiện 
64
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
truyền thông nhiều hơn so với nhận thông 
tin từ cơ sở y tế.
Kiến thức đúng da kề da cũng giống kiến 
thức đúng NCBSM sớm: các bà mẹ có học 
vấn càng tăng thì tỷ lệ kiến thức đúng cũng 
tăng theo; bà mẹ không phải là công nhân 
viên có tỷ lệ kiến thức đúng thấp hơn những 
bà mẹ là công nhân viên. Ngoài ra, bà mẹ 
càng sinh nhiều lần thì tỷ lệ kiến thức đúng 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Dinh dưỡng (2002). Nghiên cứu quốc gia về dinh dưỡng. Nhà xuất bản Y học Hà Nội.
2. Nghiên cứu 4 bệnh viện Hà Nội 2005. Kiến thức- thực hành phương pháp da kề da và nuôi con 
bằng sữa mẹ sớm.
3. American Academy of Pediatrics (AAP) and American College of Obstetricians and Gynecologists 
(ACOG) (2002). Guidelines for perinatal care. Elk Grove Village, IL: AAP or Washington, DC: 4.
4. Awi DD, Alikor EA (2005). “The influence of pre - and port - partum factors on the time of contact 
between mother and her new-born after vaginal delivery”. Niger J Med. Oct-Dec; 14(4), pp. 460-464.
5. Black RE, Moris SS, Bryce J. (2003). “Where and Why are 10 million children dying every year”. 
The Lancet, Jun 28,361: pp.2227.
6. Bystrova K, Widstrom AM, Matthiesen AS,Ransjo-Arvidson AB, Welles- Nystrom B and Wassberg 
C et al. (2003). “Skin-to-skin contact may reduce negative consequences of “ the stress of being born””: 
A study on temperature in newborn infants subjected to different ward outines in St. Petersburg. Acta 
Paediatrica, 92 (3), pp. 320-326.
7. Chhabra P, Grover VL,Aggarwal OP,Dubey KK. (1998). “Breast feeding patterns in an urban resettle-
ment colony of Delhi”. Indian J Pediatr. Nov-Dec 65(6), pp.867-72.
8. Hastings J, Naylor J. (2001). “Breast feeding in Tower Hamlets: Evaluation of breastfeeding workshops”. 
October 2000-March 2001 Final report to CELEC. Available on://www.city.ac.uk/sonm/dps/research/
research_reports/naylo_j/breastfeed.pdf.
9. Saving Newborn lives. State of the World Newborn. Washington, DC: Save Children 2001, pp. 
20-22.
10. World Health Organization (2005). “Effect of breastfeeding on infant and child mortality due to 
infectious diseases in less developed countries: a pooled 
analysis”. Lancet 2005; 355, pp. 451-455.
về NCBSM sớm cũng tăng theo. Thực hành 
đúng da kề da: trẻ sinh ra nhẹ cân thì bà mẹ 
đều có thực hành da kề da đúng. Thực hành 
NCBSM sớm: trẻ gái có tỷ lệ được mẹ cho 
bé bú sữa non cao hơn so với bé trai; trẻ có 
cân nặng sơ sinh từ 2.500 gram trở lên sẽ 
được mẹ cho bú sữa non nhiều hơn so với 
trẻ sơ sinh nhẹ cân.
Người phản hồi: Hoàng Thị Huệ
Email: [email protected]
Ngày nhận bài: 18/11/2018
Ngày phản biện: 10/10/2018
Ngày đăng báo: 12/12/2018

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_kien_thuc_thuc_hanh_phuong_phap_da_ke_da_va_nuoi_co.pdf