Khảo sát kiến thức thực hành phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2017
Đặt vấn đề: Chăm sóc sức khỏe sơ sinh hiện đang là một vấn đề thu hút được sự
quan tâm của các quốc gia trên toàn thế giới. Trong những năm qua, tỷ lệ tử vong
trẻ em nói chung đã giảm mạnh. Để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ toàn
cầu về giảm tử vong mẹ và trẻ em như đã cam kết với cộng đồng quốc tế, chúng ta
cần phải nỗ lực hơn nữa trong các hoạt động vì sự sống còn của trẻ em, đặc biệt
là cứu sinh mạng trẻ sơ sinh.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ có kiến thức - thực hành đúng phương pháp
da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại Bệnh
viện Hùng Vương (BVHV) năm 2017 và các yếu tố nào liên quan đến kiến thức,
thực hành da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM).
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 01
đến tháng 03 năm 2017 với 384 phụ nữ được mời tham gia phỏng vấn bằng
bảng câu hỏi đã được soạn sẵn. Dựa trên bảng câu hỏi này, chúng tôi đánh giá
kiến thức, thực hành về phương pháp da kề da và NCBSM sớm. Tần suất và tỷ
lệ phần trăm được sử dụng trong các câu trả lời của bảng câu hỏi nghiên cứu và
phép kiểm định chi bình phương được sử dụng để xác định mối liên quan giữa các
yếu tố.
Kết quả: Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành về phương pháp da kề da chiếm
47,4% và 97,4%. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ sớm là 76,6%
nhưng tỷ lệ bà mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau sanh còn thấp, chỉ 30,5%.
Kết luận: Nhân viên y tế nên hướng dẫn, tư vấn cũng như hỗ trợ về phương pháp
da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm cho các bà mẹ đến sanh tại BVHV
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát kiến thức thực hành phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2017
57 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KHẢO SÁT KIẾN THỨC THỰC HÀNH PHƯƠNG PHÁP DA KỀ DA VÀ NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ SỚM CỦA CÁC BÀ MẸ SANH NGẢ ÂM ĐẠO TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG NĂM 2017 HOÀNG THỊ HUỆ * NGUYỄN TRIỆU THANH ĐAN** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Chăm sóc sức khỏe sơ sinh hiện đang là một vấn đề thu hút được sự quan tâm của các quốc gia trên toàn thế giới. Trong những năm qua, tỷ lệ tử vong trẻ em nói chung đã giảm mạnh. Để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ toàn cầu về giảm tử vong mẹ và trẻ em như đã cam kết với cộng đồng quốc tế, chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa trong các hoạt động vì sự sống còn của trẻ em, đặc biệt là cứu sinh mạng trẻ sơ sinh. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ có kiến thức - thực hành đúng phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại Bệnh viện Hùng Vương (BVHV) năm 2017 và các yếu tố nào liên quan đến kiến thức, thực hành da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM). Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ tháng 01 đến tháng 03 năm 2017 với 384 phụ nữ được mời tham gia phỏng vấn bằng bảng câu hỏi đã được soạn sẵn. Dựa trên bảng câu hỏi này, chúng tôi đánh giá kiến thức, thực hành về phương pháp da kề da và NCBSM sớm. Tần suất và tỷ lệ phần trăm được sử dụng trong các câu trả lời của bảng câu hỏi nghiên cứu và phép kiểm định chi bình phương được sử dụng để xác định mối liên quan giữa các yếu tố. Kết quả: Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành về phương pháp da kề da chiếm 47,4% và 97,4%. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ sớm là 76,6% nhưng tỷ lệ bà mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau sanh còn thấp, chỉ 30,5%. Kết luận: Nhân viên y tế nên hướng dẫn, tư vấn cũng như hỗ trợ về phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm cho các bà mẹ đến sanh tại BVHV. Từ khóa: Kiến thức - thực hành phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại BVHV năm 2017. * Hộ sinh Khoa Sanh - Bệnh viện Hùng Vương. ĐT 0918339556. Email: [email protected] 58 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 ĐẶT VẤN ĐỀ Chăm sóc sức khỏe sơ sinh hiện đang là một vấn đề thu hút được sự quan tâm của các quốc gia trên toàn thế giới. Trong những năm qua, tỷ lệ tử vong trẻ em nói chung đã giảm mạnh. Để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ toàn cầu về giảm tử vong mẹ và trẻ em như đã cam kết với cộng đồng quốc tế, chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa trong các hoạt động vì sự sống còn của trẻ em, đặc biệt là cứu sinh mạng trẻ sơ sinh [4]. Ước tính hằng năm trên thế giới có khoảng 4 triệu trẻ sơ sinh tử vong, KNOWLEDGE - PRACTICE OF KNOWLEDGE METHODS FOR LEATHER AND CHILDREN BY EARLY AMERICAN MILK IN MALAYSIA HOSPITALS IN THE YEAR 2017 ABTRACT Background: Neonatal care is currently an issue that attracts the attention of nations around the world. Over the years, the overall mortality rate has plummeted. In order to achieve the global MDG goal of reducing maternal and child mortality as committed to the international community, we need to make greater efforts in child survival activities, Especially the neonatal life saving . Objectives: Determination of knowledge-based practice of sciatica and early breast- feeding of mothers giving birth vaginaly at BVHV in 2017 and factors related to knowl- edge and practice of skin-to-skin contact and EBF. Methods: A cross-sectional study was conducted from January to March 2017 with 384 women invited to the interview with a prepared questionnaire. Based on this questionnaire, we evaluated the knowledge, practice on skin-to-skin and early breast- feeding. Frequency and percentage used in the answers of the study questionnaire, chi-squared tests were used to determine the relationship between the factors. Results: The percentage of mothers with knowledge and practice on skin-to-skin con- tact accounted for 47.4% and 97.4%. The proportion of mothers with early breastfeed- ing knowledge is 76.6%, but the rate of mothers breastfeeding within the first hour after birth is low at only 30.5%. Conclusion: Health care workers should provide counseling and counseling as well as support on skin-to-skin and breastfeeding methods for mothers giving birth at Hung Vuong Hospital. Keywords: Knowledge-practice of skin-to-skin contact and early breastfeeding of vaginal mothers at Hung Vuong Hospital in 2017. chiếm 37% số tử vong trẻ dưới 5 tuổi và hơn 70% số tử vong trẻ dưới 1 tuổi [6]. Gần 70% số tử vong sơ sinh xảy ra trong tuần đầu, 40% trong số này xảy ra trong vòng 24 giờ đầu sau sinh [9]. Ở Việt Nam, theo điều tra Dân số và Sức khỏe, tử vong mẹ và tử vong trẻ em đã giảm đáng kể. Tử vong mẹ đã giảm hơn 3 lần từ 233/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 1990 ước còn khoảng 60/100.000 sơ sinh sống năm 2014. Mặc dù hậu quả do bệnh tật và tử vong sơ sinh rất nặng nề nhưng các can thiệp sẵn có trong phạm vi các 59 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em có thể cứu sống sinh mạng của hầu hết trẻ sơ sinh [5]. Trong đó, ủ ấm da kề da và cho trẻ bú sữa mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh là các can thiệp đơn giản, dễ thực hiện góp phần nâng cao sức khỏe và giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ. Ngoài việc điều chỉnh thân nhiệt, phương pháp da kề da giữa mẹ và trẻ sơ sinh ngay sau đẻ còn có nhiều tác dụng như: tăng tỷ lệ bú mẹ sớm và bú mẹ hoàn toàn, tăng tình cảm mẹ con, giảm nhiễm khuẩn sơ sinh [3], [7]. Cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ giúp cung cấp chất dinh dưỡng và miễn dịch, làm tăng tỷ lệ và thời gian bú mẹ hoàn toàn ở trẻ sau này, giảm bệnh tật và tử vong ở trẻ [10]. Vì đơn giản và hiệu quả nên những can thiệp này được thực hiện thường xuyên và rộng khắp ở nhiều nước trên thế giới. Tại BVHV phương pháp ủ ấm da kề da được áp dụng vào tháng 7 năm 2015. Trong quá trình thực hiện chúng tôi thấy một số vấn đề như sau: nhiều mẹ còn khá lạ lẫm với phương pháp này bởi thông thường sau khi sanh xong em bé sẽ được nhân viên y tế tách khỏi mẹ một khoảng thời gian khá dài để thực hiện các bước chăm sóc ngay sau sanh như làm rốn, nhỏ mắt, tắm, mặc áo tã, chích Vitamin K1 trước khi nằm cạnh mẹ; mẹ không đồng ý hoặc rất sợ cho bé nằm da kề da trên ngực mẹ; hầu như các bà mẹ chưa biết rõ các lợi ích của phương pháp da kề da cũng như cho bé bú mẹ sớm để đánh giá đúng và đầy đủ thực trạng kiến thức - thực hành ủ ấm da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm. Đó cũng là lý do chúng tôi chọn đề tài này. Mục đích của nghiên cứu là để xác định các yếu tố chính góp phần vào thực hành phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ đến sanh tại BVHV để thực hiện các chiến lược can thiệp hiệu quả nhằm nâng cao tỷ lệ da kề da và bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sanh. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: 1. Xác định tỷ lệ có kiến thức – thực hành đúng phương pháp da kề da và NCB- SM sớm của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại BVHV năm 2017. 2. Xác định tỷ lệ nhận nguồn thông tin truyền thông về phương pháp da kề da và NCBSM của các bà mẹ sanh ngả âm đạo tại BVHV năm 2017. 3. Xác định mối liên quan giữa đặc điểm dân số với kiến thức và thực hành phương pháp da kề da. 4. Xác định mối liên quan giữa đặc điểm dân số với kiến thức và thực hành NCB- SM. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang. Tham khảo theo kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thanh Thủy (2016), tỷ lệ thực hành đúng p=55%, với độ tin cậy 95% α sẽ là 5%, với trị số giới hạn của độ tin cậy Z = 1.96, độ chính xác d=0.05 đưa vào cách tính mẫu được số mẫu là 384 sản phụ. Tiêu chuẩn chọn mẫu là các bà mẹ sanh ngả âm đạo và có cân năng trẻ từ 2.000 gr trở lên và có chỉ định theo mẹ, mới sanh trong vòng 1-2 giờ tại khoa Sanh BVHV và đồng ý tham gia nghiên cứu. Số liệu được nhập vào máy tính và xử lý bằng phần mềm STATA 13.0. Tỷ lệ phụ nữ có kiến thức đúng và thực hành đúng về phương pháp da kề da và NCBSM sớm được tính theo tỷ lệ %. Xác định các yếu tố liên quan bằng kiểm định chi bình phương khuynh hướng. 60 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Biểu đồ 1: Đặc điểm sinh sản của đối tượng nghiên cứu (n = 384) Kết quả nghiên cứu cho thấy: Sản phụ được xem là có kiến thức đúng về phương pháp da kề da khi trả lời từ 2 nội dung kiến Kết quả nghiên cứu cho thấy: Những người sinh con lần đầu và sinh lần 2 chiếm tỷ lệ tương đương nhau, chỉ có khoảng 13% là sinh con từ lần 3 trở lên. Trong lần sinh này thì tỷ lệ sản phụ Kết quả nghiên cứu cho thấy: Chỉ có gần 64% sản phụ nhận được thông tin về phương pháp da kề da, trong đó tỷ lệ Bảng 1: Nguồn thông tin về phương pháp da kề da (n = 384) Biểu đồ 2: Kiến thức về phương pháp da kề da (n = 384) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Nhận thông tin về da kề da (có) 245 63,8 Nguồn thông tin da kề da (n = 285 lượt) Từ cơ sở y tế 170 59,6 Từ phương tiện truyền thông 115 40,4 khám thai liên tục tại BVHV chỉ có 25%, đa số là khám thai ngoài BVHV (gần 47%). Giới tính của trẻ trong lần sinh này khá cân xứng với tỷ lệ nam và nữ gần như tương đương nhau. nhận được thông tin từ cơ sở y tế nhiều hơn so với nhận thông tin từ phương tiện truyền thông. thức đúng trở lên. Kết quả cho thấy chỉ có 47,4% sản phụ có kiến thức chung đúng về phương pháp da kề da. 61 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bảng 2: Thực hành về phương pháp da kề da (n = 384) Biểu đồ 3: Nguồn thông tin về phương pháp nuôi con bằng sữa non (n = 384) Biểu đồ 4: Kiến thức về phương pháp nuôi con bằng sữa non (n = 384) Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tất cả sản phụ đều cho trẻ ủ ấm ngay sau khi sinh và tiếp xúc da kề da sau khi lau khô trẻ. Tuy nhiên, có khoảng 10% chỉ cho trẻ tiếp xúc da kề da trong vòng <60 phút. Sản phụ được xem là có Kết quả nghiên cứu cho thấy: Hầu hết sản phụ đều có nhận được thông tin về nuôi con bằng sữa non (chiếm 90%), trong đó Kết quả nghiên cứu cho thấy: Gần như tất cả sản phụ đều biết rằng sữa non tốt cho trẻ sơ sinh và cần cho trẻ bú mẹ sớm sau khi sinh. Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Lau khô rồi tiếp xúc da kề da (có) 384 100 Ủ ấm ngay sau sinh (có) 384 100 Từ cơ sở y tế 170 59,6 Thời gian da kề da với mẹ <60 phút 10 2,6 60 – 90 phút 360 93,8 >90 phút 14 3,6 Thực hành đúng 374 97,4 Thực hành chung đúng 374 97,4 (3/3 nội dung) thực hành đúng về phương pháp da kề da khi thực hành đúng cả 3 nội dung bao gồm cho tiếp xúc da kề da ít nhất ≥60 phút và ủ ấm cho trẻ ngay sau khi sinh. Hầu hết sản phụ đều có thực hành đúng, chiếm 97,4%. tỷ lệ nhận được thông tin từ phương tiện truyền thông nhiều hơn so với nhận thông tin từ cơ sở y tế. Tuy nhiên, chỉ có 44% sản phụ biết rằng nên cho trẻ bú mẹ trong 60 phút đầu sau sinh và khoảng 77% biết các dấu hiệu trẻ đòi bú mẹ. 62 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 BÀN LUẬN Nghiên cứu trên 384 bà mẹ sinh con tại BVHV năm 2017 cho thấy gần như tất cả sản phụ (99,5%) đều thích trẻ sơ sinh nằm trên ngực mình sau khi sinh nhưng chỉ có 31,3% sản phụ có kiến thức đúng về giữ ấm cho trẻ sau sinh, gần 54% sản phụ không biết về thời gian cho trẻ tiếp xúc da kề da và chỉ có 47,4% sản phụ có kiến thức chung đúng về phương pháp da kề da. Tỉ lệ các bà mẹ biết về phương pháp da kề da thấp là điều dễ hiểu vì phương pháp này mới được áp dụng tại bệnh viện (2015) cũng như trên cả nước. Kết quả này cao hơn kết quả điều tra ban đầu thực hiện tại Khoa Sản của một Biểu đồ 5: Thực hành về phương pháp nuôi con bằng sữa non (n = 384) Bảng 3: Mối liên quan giữa kiến thức với thực hành về phương pháp nuôi con bằng sữa mẹ sớm (n = 384) Kết quả nghiên cứu cho thấy: Có 87,5% sản phụ cho trẻ bú khi thấy trẻ có dấu hiệu đòi bú mẹ nhưng chỉ có 30,5% sản phụ cho trẻ sơ sinh bú sữa mẹ trong thời gian <1 giờ Đặc điểm Thực hành đúng Thực hành Giá trị p PR (KTC 95%) Tần số (%) Tần số (%) (n = 374) (n = 10) Kiến thức nuôi con bằng sữa non Đúng 172 (58,5) 122 (41,5) <0,001 1,82 (1,32 – 2,49) Chưa đúng 29 (32,2) 61 (67,8) chưa đúng Trung Tâm Y khoa Anh quốc vào tháng 3/2000 là 16% [8] và nghiên cứu tại 4 bệnh viện Hà Nội năm 2005 là 13,9% [2]. Về tỷ lệ bà mẹ thực hành ủ ấm da kề da rất cao (100%) trong nghiên cứu này cũng là điều dễ hiểu vì đây là phương pháp mà bệnh viện đã áp dụng trong chăm sóc thiết yếu cho trẻ sơ sinh. Tỷ lệ các bà mẹ biết về phương pháp là 63,8%, trong đó tỷ lệ nhận được thông tin từ cơ sở y tế nhiều hơn so với nhận thông tin từ phương tiện truyền thông. Nghiên cứu cho thấy gần như tất cả sản phụ đều biết rằng sữa non tốt cho trẻ sơ sinh. Nguồn thông tin về sữa non là tốt sau sinh. Khi quan sát cách sản phụ cho trẻ bú mẹ thì chỉ có gần 52% là cho bú với tư thế bú đúng và cách ngậm vú đúng. 63 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC được biết đến nhiều hơn qua phương tiện truyền thông (77%) so với từ cơ sở y tế. Và hầu hết các bà mẹ đều biết là cần cho trẻ bú sớm (94%) tuy nhiên chỉ có 44% bà mẹ biết rằng nên cho trẻ bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh. Về thực hành NCBSM thì hầu như các bà mẹ có thấy được dấu hiệu đòi bú của trẻ (87,5%) nhưng trẻ bắt vú tốt và đúng chỉ đạt 51% và bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh thì tỉ lệ này càng thấp hơn, chỉ đạt 30,5%. Kiến thức đúng chung trong thực hành cho trẻ bú chỉ đạt 52,3% và trong số khảo sát này thì số bà mẹ khám thai tại viện và cho bé bú mẹ sớm trong 1 giờ đầu sau sinh cũng đạt rất thấp (gần 32%) trong tổng số sản phụ khám thai tại viện. Ở Việt Nam, theo một nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, tỷ lệ cho trẻ bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh chiếm 57% [1], tỷ lệ này có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng. Ở miền Trung tỷ lệ cho con bú sớm 1 giờ đầu sau sinh chỉ chiếm 39%, trong đó ở miền núi miền Bắc là 68%. Theo nghiên cứu 4 bệnh viện Hà Nội năm 2005, tỉ lệ bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh là 44,3% [2]. Tỷ lệ bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh trong nghiên cứu này cao hơn so với kết quả một số ng- hiên cứu của nước ngoài, nhưng thấp hơn so với kết quả phân tích của Viện Dinh dưỡng [1] và 4 bệnh viện Hà Nội năm 2005 [2], có thể do nghiên cứu được tiến hành ở một quần thể bà mẹ với các đặc trưng riêng không thể đồng nhất với kết quả trên các bà mẹ trên cả nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy 64% sản phụ có nhận được nguồn thông tin về phương pháp da kề da, trong đó sản phụ nhận được thông tin từ cơ sở y tế nhiều hơn từ phương tiện truyền thông, đặc biệt nhận được nguồn thông tin nhiều nhất qua nhân viên y tế trong chuyển dạ chiếm tỷ lệ gần 50%. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hầu hết sản phụ đều có nhận thông tin về phương pháp nuôi con bằng sữa non (NCBSN) đến 90% trong đó tỷ lệ nhận được thông tin từ phương tiện truyền thông nhiều hơn cơ sở y tế (trong quá trình chuyển dạ chiếm 11%). Có mối liên quan giữa trình độ học vấn của sản phụ và kiến thức về phương pháp NCBSN với p = 0,013. Theo đó, học vấn càng tăng thì tỷ lệ kiến thức đúng cũng tăng theo. Có sự khác biệt về tỷ lệ kiến thức đúng đối với phương pháp NCBSN của sản phụ ở những nhóm nghề nghiệp khác nhau với p = 0,015. Những sản phụ là công nhân viên có tỷ lệ kiến thức đúng cao hơn so với những sản phụ không phải là công nhân viên. Có mối liên quan giữa số lần sinh và kiến thức với p = 0,003. Theo đó, sản phụ càng sinh nhiều lần thì tỷ lệ kiến thức đúng cũng tăng theo. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ thực hành về NCBSM sớm giữa trẻ trai so với trẻ gái với p = 0,023. Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy thực hành về ủ ấm cho trẻ sơ sinh ngay sau sinh như áp dụng phương pháp da kề da thì cao và cho trẻ bú ngay trong vòng một giờ đầu sau sinh của các bà mẹ sinh con tại BVHV năm 2017 còn thấp (tương ứng là 97,4% và 30,5%). Gần như không có sự khác biệt giữa các nhóm bà mẹ khác nhau về các thực hành này. KẾT LUẬN Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng và thực hành đúng phương pháp ủ ấm da kề da cho trẻ sơ sinh tương ứng là 47,4% và 97,4%. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về NCBSM sớm là 76,6%, nhưng tỷ lệ bà mẹ cho con bú trong vòng một giờ đầu sau sinh còn thấp 30,5%. Nguồn tiếp cận thông tin về phương pháp ủ ấm da kề da của các bà mẹ: 64% trong đó tỷ lệ nhận được thông tin từ cơ sở y tế nhiều hơn so với nhận thông tin từ phương tiện truyền thông. Nguồn tiếp cận thông tin về NCBSM của các bà mẹ là 90%, trong đó tỷ lệ nhận được thông tin từ phương tiện 64 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 truyền thông nhiều hơn so với nhận thông tin từ cơ sở y tế. Kiến thức đúng da kề da cũng giống kiến thức đúng NCBSM sớm: các bà mẹ có học vấn càng tăng thì tỷ lệ kiến thức đúng cũng tăng theo; bà mẹ không phải là công nhân viên có tỷ lệ kiến thức đúng thấp hơn những bà mẹ là công nhân viên. Ngoài ra, bà mẹ càng sinh nhiều lần thì tỷ lệ kiến thức đúng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Viện Dinh dưỡng (2002). Nghiên cứu quốc gia về dinh dưỡng. Nhà xuất bản Y học Hà Nội. 2. Nghiên cứu 4 bệnh viện Hà Nội 2005. Kiến thức- thực hành phương pháp da kề da và nuôi con bằng sữa mẹ sớm. 3. American Academy of Pediatrics (AAP) and American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG) (2002). Guidelines for perinatal care. Elk Grove Village, IL: AAP or Washington, DC: 4. 4. Awi DD, Alikor EA (2005). “The influence of pre - and port - partum factors on the time of contact between mother and her new-born after vaginal delivery”. Niger J Med. Oct-Dec; 14(4), pp. 460-464. 5. Black RE, Moris SS, Bryce J. (2003). “Where and Why are 10 million children dying every year”. The Lancet, Jun 28,361: pp.2227. 6. Bystrova K, Widstrom AM, Matthiesen AS,Ransjo-Arvidson AB, Welles- Nystrom B and Wassberg C et al. (2003). “Skin-to-skin contact may reduce negative consequences of “ the stress of being born””: A study on temperature in newborn infants subjected to different ward outines in St. Petersburg. Acta Paediatrica, 92 (3), pp. 320-326. 7. Chhabra P, Grover VL,Aggarwal OP,Dubey KK. (1998). “Breast feeding patterns in an urban resettle- ment colony of Delhi”. Indian J Pediatr. Nov-Dec 65(6), pp.867-72. 8. Hastings J, Naylor J. (2001). “Breast feeding in Tower Hamlets: Evaluation of breastfeeding workshops”. October 2000-March 2001 Final report to CELEC. Available on://www.city.ac.uk/sonm/dps/research/ research_reports/naylo_j/breastfeed.pdf. 9. Saving Newborn lives. State of the World Newborn. Washington, DC: Save Children 2001, pp. 20-22. 10. World Health Organization (2005). “Effect of breastfeeding on infant and child mortality due to infectious diseases in less developed countries: a pooled analysis”. Lancet 2005; 355, pp. 451-455. về NCBSM sớm cũng tăng theo. Thực hành đúng da kề da: trẻ sinh ra nhẹ cân thì bà mẹ đều có thực hành da kề da đúng. Thực hành NCBSM sớm: trẻ gái có tỷ lệ được mẹ cho bé bú sữa non cao hơn so với bé trai; trẻ có cân nặng sơ sinh từ 2.500 gram trở lên sẽ được mẹ cho bú sữa non nhiều hơn so với trẻ sơ sinh nhẹ cân. Người phản hồi: Hoàng Thị Huệ Email: [email protected] Ngày nhận bài: 18/11/2018 Ngày phản biện: 10/10/2018 Ngày đăng báo: 12/12/2018
File đính kèm:
khao_sat_kien_thuc_thuc_hanh_phuong_phap_da_ke_da_va_nuoi_co.pdf

