Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ khi chăm sóc trẻ sốt tại khoa nhi Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

Sốt là một triệu chứng thường gặp ở trẻ em. Khi sốt nhiệt độ cơ thể trẻ lớn hơn

37.20C (đo ở nách) [15]. Nguyên nhân gây sốt ở trẻ em thường gặp là do nhiễm khuẩn

(viêm họng, viêm amiđan, viêm phổi.), nhiễm virus (cúm, sởi.). Thông thường, sốt

là một phản ứng có lợi của cơ thể chống lại sự nhiễm khuẩn. Khi trẻ sốt nhẹ nhỏ hơn

38.50C thì không cần dùng thuốc hạ sốt. Tuy nhiên, nếu để trẻ sốt cao có nguy cơ co

giật, đe dọa đến tính mạng của trẻ hoặc để lại di chứng tổn thương não, đặc biệt là ở

trẻ < 5="" tuổi.="">

Sốt ở trẻ em luôn là biểu hiện được các bậc cha mẹ quan tâm, là lý do chủ yếu khiến

cha mẹ hoặc người chăm sóc đưa trẻ đi khám bệnh, cấp cứu. Nếu có kiến thức đúng và

cách chăm sóc phù hợp có thể giúp cho các bậc cha mẹ yên tâm chăm sóc, điều trị trẻ

tại nhà hoặc đưa trẻ đi khám và điều trị đúng lúc tại các cơ sở y tế.

pdf 10 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ khi chăm sóc trẻ sốt tại khoa nhi Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ khi chăm sóc trẻ sốt tại khoa nhi Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang

Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ khi chăm sóc trẻ sốt tại khoa nhi Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 181 
KHẢO SÁT KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH 
CỦA BÀ MẸ KHI CHĂM SÓC TRẺ SỐT TẠI KHOA NHI 
BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC TỈNH AN GIANG 
Đào Châu Khôi, Salê Mohamad 
Phạm Thị Thanh Danh; Nguyễn Hồng Hải 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 
 Sốt là một triệu chứng thường gặp ở trẻ em. Khi sốt nhiệt độ cơ thể trẻ lớn hơn 
37.20C (đo ở nách) [15]. Nguyên nhân gây sốt ở trẻ em thường gặp là do nhiễm khuẩn 
(viêm họng, viêm amiđan, viêm phổi...), nhiễm virus (cúm, sởi...). Thông thường, sốt 
là một phản ứng có lợi của cơ thể chống lại sự nhiễm khuẩn. Khi trẻ sốt nhẹ nhỏ hơn 
38.50C thì không cần dùng thuốc hạ sốt. Tuy nhiên, nếu để trẻ sốt cao có nguy cơ co 
giật, đe dọa đến tính mạng của trẻ hoặc để lại di chứng tổn thương não, đặc biệt là ở 
trẻ < 5 tuổi. [6] 
 Sốt ở trẻ em luôn là biểu hiện được các bậc cha mẹ quan tâm, là lý do chủ yếu khiến 
cha mẹ hoặc người chăm sóc đưa trẻ đi khám bệnh, cấp cứu. Nếu có kiến thức đúng và 
cách chăm sóc phù hợp có thể giúp cho các bậc cha mẹ yên tâm chăm sóc, điều trị trẻ 
tại nhà hoặc đưa trẻ đi khám và điều trị đúng lúc tại các cơ sở y tế. 
 Bà mẹ thường là người gần gũi và chăm sóc chính cho trẻ, đặc biệt là khi trẻ bị sốt. 
Tuy nhiên theo tổng quan y văn cho thấy, việc chăm sóc và xử trí sốt của các bà mẹ 
còn hạn chế. Theo một nghiên cứu của Bệnh viện Nhi Trung ương trên 100 bà mẹ có 
con nhập viện tại Khoa Truyền nhiễm năm 2012 chỉ có khoảng 37% bà mẹ có kiến 
thức đúng, 21% bà mẹ có hành vi đúng. [12] Cũng theo một nghiên cứu của Đặng Thị 
Hà về kiến thức, thái độ và hành vi của bà mẹ khi trẻ bị sốt; thì có 35.8% bà mẹ có thái 
độ xử trí đúng và chỉ có 17.9% có hành vi xử trí đúng. Kết quả của nghiên cứu này 
cũng cho thấy có mối liên hệ giữa kiến thức đúng với hành vi đúng. Điều này cho thấy 
chúng ta cần tăng cường kiến thức cho bà mẹ, từ đó bà mẹ sẽ có hành vi đúng khi xử 
trí và chăm sóc trẻ sốt. [3] 
 Khoa Nhi – Bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang , trung bình mỗi ngày tiếp 
nhận khoảng 100-150 lượt khám, trong đó số trẻ đến khám vì triệu chứng sốt chiếm tỉ 
lệ khoảng 60-70%. Tuy nhiên theo nhìn nhận thực tế, vẫn còn phần lớn bà mẹ có kiến 
thức và thực hành không đúng khi chăm sóc trẻ sốt. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu “Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ khi chăm sóc trẻ bị sốt tại 
Khoa Nhi-BV Đa khoa KV Tỉnh”. Từ kết quả của nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu 
có thể đưa ra chương trình giáo dục sức khỏe phù hợp nhằm góp phần nâng cao chất 
lượng khám bệnh cũng như giúp các bà mẹ có kiến thức đúng và thực hành đúng trong 
chăm sóc trẻ bị sốt- với mục tiêu sau : 
 1. Mô tả một số đặc điểm của bà mẹ có con bị sốt đến khám tại tại Khoa Nhi 
Bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang từ tháng 11/05/2019 đến tháng 30/06/2019. 
 2. Xác định tỉ lệ bà mẹ có kiến thức đúng, thái độ đúng và thực hành đúng khi 
chăm sóc trẻ bị sốt trong lô nghiên cứu. 
 3. Tìm ra mối liên hệ giữa kiến thức và thực hành của bà mẹ khi chăm sóc trẻ bị 
sốt trong lô nghiên cứu. 
 4. Tìm ra mối liên hệ giữa thái độ và thực hành của bà mẹ khi chăm sóc trẻ bị sốt 
trong lô nghiên cứu. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 182 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
 2.1. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang tiến cứu. 
 2.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu: từ 11/05/2019 đến 30/06/2019 tại Khoa Nhi 
Bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang 
 2.3. Đối tượng nghiên cứu: 
 Dân số mục tiêu: Bà mẹ có con bị sốt đến khám tại Khoa Nhi Bệnh viện đa khoa 
khu vực tỉnh An Giang 
 Dân số chọn mẫu: Bà mẹ có con bị sốt đến khám tại Khoa Nhi Bệnh viện đa 
khoa khu vực tỉnh An Giang từ ngày 11/05/2019 đến 30/06/2019. 
 2.4. Tiêu chí chọn mẫu: 
 - Bà mẹ có con bị sốt đến khám tại Khoa Nhi Bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh 
An Giang 
 - Bà mẹ hoàn toàn tỉnh táo, có đủ năng lực hành vi trả lời bảng câu hỏi khảo sát. 
 - Bà mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu. 
 2.5. Tiêu chí loại trừ: 
 Không thỏa tiêu chí chọn; không hoàn tất bộ câu hỏi. 
 2.6. Cỡ mẫu nghiên cứu: 
 Công thức tính cỡ mẫu: 
 Z(1-α/2): trị số của phân phối chuẩn (với độ tin cậy 95%, Z(1-α/2)=1,96). 
 d: độ chính xác hay sai số cho phép, chọn d = 0,05. 
 n: là cỡ mẫu ước lượng. 
 α: xác xuất sai lầm loại 1, chọn α = 0,05 bởi vậy Z(1-α/2) = 1,96. 
 p: tỉ lệ bà mẹ có thực hành đúng khi chăm sóc trẻ sốt, dựa theo kết quả từ 
nghiên cứu của Đặng Thị Hà [3], chọn p=0.349, làm tròn lấy p=0.35. 
 Tính được n=350. Đây là cỡ mẫu tối thiểu tính theo công thức. 
 Nhóm nghiên cứu chúng tôi quyết định chọn cỡ mẫu là 350. 
 2.7. Phương pháp chọn mẫu: 
 Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống 
 2.8. Công cụ thu thập số liệu: 
 - Bộ câu hỏi được thiết kế sẵn dạng nghiên cứu viên phỏng vấn đối tượng tham 
gia nghiên cứu, thời gian phỏng vấn khoảng 15 phút. 
 - Cấu trúc bộ câu hỏi gồm 4 phần: 
 + Phần 1: gồm các câu hỏi để đánh giá đặc tính dân số mẫu gồm các thông 
tin như: tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo, trình độ học vấn... (10 câu). 
 + Phần 2: gồm các câu hỏi khảo sát về kiến thức khi chăm sóc trẻ sốt. 
 . Bộ câu hỏi gồm 11 câu do nhóm nghiên cứu tự phát triển dựa trên bộ câu 
hỏi từ nghiên cứu của Trần Thị Khánh Linh [12], cải tiến cho phù hợp với mục tiêu 
và đối tượng nghiên cứu. Bộ câu hỏi có CVI>80%. Sau khi nghiên cứu thử nghiệm 
trên 30 đối tượng có đặc tính tương tự với đối tượng nghiên cứu, bộ câu hỏi có độ tin 
cậy KR/20>.7. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 183 
 . Cách đánh giá: nhóm nghiên cứu quy định nếu đối tượng nghiên cứu trả 
lời đúng ≥80% các câu hỏi thì đánh giá là có kiến thức đúng. 
 + Phần 3: gồm các câu hỏi khảo sát về thái độ khi chăm sóc trẻ sốt. Sử dụng 
bộ câu hỏi có sẵn từ nghiên cứu của Trần Thị Khánh Linh. [12] 
 . Bộ câu hỏi gồm 9 câu, sử dụng thang đo Likert để đánh giá thái độ của 
đối tượng nghiên cứu gồm 5 cấp độ: 
 Cấp 1: Rất đồng ý. 
 Cấp 2: Đồng ý. 
 Cấp 3:Không chắc. 
 Cấp 4:Không đồng ý 
 Cấp 5:Rất không đồng ý 
 . Sau khi tiến hành nghiên cứu thử nghiệm trên 30 đối tượng có đặc tính 
tương tự với đối tượng nghiên cứu, bộ câu hỏi có độ tin cậy CRONCH’s Alpha>.8. 
 + Phần 4: gồm các câu hỏi khảo sát về thực hành chăm sóc trẻ sốt của các bà 
mẹ. 
 .Bộ câu hỏi gồm 14 câu dùng thang đo để đánh giá thực hành của đối 
tượng nghiên cứu gồm 5 cấp độ: 
 Cấp 1: Luôn luôn. 
 Cấp 2: Hầu như. 
 Cấp 3: Thỉnh thoảng. 
 Cấp 4: Hiếm khi. 
 Cấp 5: Không bao giờ. 
 .Bộ câu hỏi do nhóm tự phát triển dựa trên bộ câu hỏi có sẵn từ nghiên 
cứu của Trần Thị Khánh Linh [12], cải tiến cho phù hợp với mục tiêu và đối tượng 
nghiên cứu. Bộ câu hỏi có CVI>80%. Sau khi tiến hành nghiên cứu thử nghiệm trên 
30 đối tượng có đặc tính tương tự với đối tượng nghiên cứu, bộ câu hỏi có độ tin cậy 
CRONCH’s Alpha= 712. 
 2.9. Phương pháp phân tích số liệu: 
 - Xử lý trên máy tính bằng phần mềm SPSS 13.0. 
 - Thống kê mô tả: sử dụng tần số, %,, trung bình, độ lệch chuẩn SD. 
 - Thống kê phân tích: Pearson R để tìm mối liên quan giữa kiến thức, thái độ và 
thực hành. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p<0,05. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: 
 3.1. Đặc điểm nhóm Đối tượng nghiên cứu ( ĐTNC): 
 - Tuổi ĐTNC: Trung bình: 32 ± 8 (20-67) 
 - Tình trạng gia đình: Độc thân: 9/350(2,5%), hôn nhân: 320(91%), góa bụa: 
3(0,85%), ly hôn: 18(5%) 
 - Trình độ học vấn: Tiểu học 79/350(22,6%), THCS:100(28,6%), THPT: 
105(30%),Trung cấp: 30/350(8,6%),Cao đẳng: 27(7,7%), Đại học : 9(2,6%) 
 - Nghề nghiệp:Nội trợ: 151/350(43,1%), Buôn bán: 78(22,3%), Nhân viên văn 
phòng :51(14,6%), Lao động chân tay: 70(20%) 
 - Số con: 1: 155(44,3%), 2: 148(42,3%), 3:47(13,4%) 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 184 
 Nhận xét: Tuổi trung bình các bà mẹ là 32 tuổi, đang trong tình trạng hôn nhân 
(91%), có trình độ hoc vấn từ THCS trở lên(58,6%), phần lớn là nội trợ, buôn bán 
hoặc lao động chân tay(85,4%); hầu hết có từ 1-2 con(86,6%) 
 3.2. Kiến thức: 
 - Kiến thức từ nguồn: TPTTT: 34/350(9,7%), Nhân viên y tế : 51(14,6%), Bà 
mẹ: 39(11,1%), cả ba nguồn: 257(73,4%) 
 - Nhận biết sốt : Khi nhiệt độ đo là <360C: 8 (2,3%), 370 C: 8 (2,3%), 
≥37,5C:194 (56%), sờ nóng: 63(18%), khác: 86(24,6%), 
 - Nhiệt độ bình thường: Nhiệt độ bình thường khi đo là 36-37,50 C: 332 
(95,1%), 380 C: 17(4,9%), 390 C: 0(0%) 
 - Dụng cụ đo nhiệt độ: Dụng cụ đo nhiệt độ điện tử: 62(17,7%), Thủy ngân: 
187(53,4%), sờ trán: 98(28%) 
 - Nguyên nhân: Nguyên nhân gây sốt là do Virus: 24(6,9%), Vi khuẩn: 
86(24,6%), Vi nấm: 0(0%), u: 0(0%), tất cả: 245(70%) 
 - Biến chứng: co giật: 82(23,4%), mất nước: 6(1,7%), nói sảng: 9(2,6%). tất cả: 
250(71,4%) 
 - Sử dụng thuốc hạ sốt: nhiệt độ 370C : 8(2,3%), >380C: 218(62,3%), >38,50C; 
59(16,9%), khi sờ nóng: 61(17,4%). 
 - Thuốc hạ sốt được sử dụng: Thuốc Paracetamol: 350 (100%), 
Ibuprofen:3(0,9%), Kháng sinh:0(0%), thuốc nam:0(0%) 
 - Sử dụng thuốc hạ sốt theo liều: Uống theo liều lượng: 87(17,4%), sốt cao: 
3(0,9%), lớn hơn:130(37,1%), không: 127(36,3%) 
 - Khoảng cách thời gian uống thuốc hạ sốt: Uống cách mỗi 4 giờ:169(48,3%), 
4-6 giờ : 32(9,1%), 8 giờ:0(0%), 12 giờ: 0(0%); khi sốt: 158 (45,1%) 
 - Nhét Efferalgan hạ sốt: có nhét: 326(93,1%), không: 24(6,9%) 
 - Khi nào nhét Efferalgan: Nhét Efferalgan khi ngủ: 21(6%), không chịu uống: 
290(82,9%), khóc: 0, khác 21(6%). 
 Nhận xét: Kiến thức hiểu biết về sốt, phần lớn các bà mẹ biết được từ cả 3 nguồn 
thông tin (TPTTT, NVYT, bà mẹ); hơn 95% các bà mẹ nhận biết sốt, 72% sử dụng 
dụng cụ đo nhiệt độ điện tử/thủy ngân, phần lớn các bà mẹ hiểu biết đúng nguyên nhân 
sốt, biến chứng do sốt nhưng sử dụng thuốc hạ sốt chưa đúng. 
 3.3. Thái độ đối với sốt: 
Nội dung 
Thái độ 
Rất 
đồng 
ý 
% 
Đồng 
ý 
% 
Không 
chắc 
% 
Không 
đồng ý 
% 
Rất 
không 
% 
Phãn ứng có 
lợi 
10 2.9 37 10.6 158 45.1 115 31.9 30 8.6 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 185 
Cha mẹ lo 
sợ 
210 60 109 31.1 
0 
0 31 8.9 
Sốt gay hại 156 44.6 188 53.7 6 1.7 
0 
0 
Không dùng 
thuốc 
29 8.3 104 29.7 154 0 54 0 9 2.6 
Thuốc dân 
gian 
15 4.3 38 10.9 153 43.7 114 31.7 30 8.6 
Trữ sẳn 
thuốc 
110 31.4 220 62.9 20 0 
0 
Có nhiệt kế 100 28.6 240 68.6 10 2.9 
0 
0 
Sốt cao -> co 
giật 
168 48 182 52 
0 
0 
Nhét tốt hơn 
uống 
11 3.1 18 5.1 300 85.7 18 5 0.8571 0.2 
 Nhận xét: Phần lớn các bà mẹ không biết sốt là phản ứng có lợi, nên họ rất lo sợ, 
nên không biết thế nào phải cần dùng thuốc hạ sốt mặc dù đa số có nhiệt kế, có trữ sẵn 
thuốc,... 
 3.4. Thực hành đối với sốt: 
Nội dung 
Thực hành 
Luôn 
luôn 
% 
Hầu 
như 
% 
Thỉnh 
thoảng 
% 
Hiếm 
khi 
% Không % 
Đo nhiệt độ 108 30.9 72 20.6 165 47.1 3 0.9 2 0.6 
Uồng nhiều 
nước 
90 25.7 160 45.7 100 28.6 0 0 0 0 
Uống thuốc 
theo toa 
96 27.4 111 31.7 143 40.9 0 0 0 0 
Tự ra tiệm 150 42.9 72 20.6 48 13.7 47 13.4 33 9.4 
Uống thuốc 
không cần 
đo 
20 5.7 78 22.3 114 32.6 115 32.9 23 6.6 
Theo dõi NĐ 99 28.3 100 28.6 132 37.7 19 5.4 0 0 
Lau ấm 50 14.3 230 65.7 70 20 0 0 0 0 
Lau lạnh 6 1.7 3 0.9 9 2.6 7 2 325 92.9 
Đắp chăn 15 4.3 
0 200 57.1 60 17.1 75 21.4 
Mặc thoáng 80 22.9 98 28 170 48.6 0 0 2 0.6 
Lau mát và 99 28.3 142 40.6 100 28.6 9 2.6 0 0 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 186 
thuốc 
Phương 
pháp dân 
gian 
9 2.6 0 0 25 7.1 99 28.3 217 62 
Đi khám 
ngay 
164 46.9 111 31.7 66 18.9 9 2.6 0 0 
Dùng hơn 1 
loại thuốc 
21 6 3 0.9 197 56.3 72 20.6 57 16.3 
 Nhận xét: Hơn 50% bà mẹ biết đo nhiệt độ, theo dõi nhiệt độ khi trẻ sốt, biết 
cách xử lý khi trẻ sốt như cho uống nhiều nước, uống thuốc theo toa, mặc thoáng, lau 
mát, đi khám ngay khi cần,... 
 3.5. Khả năng hiểu biết, thái độ và thực hành đúng của các bà mẹ về sốt: 
Nội Dung 
Khả năng hiểu biết LR p 
Đúng/Có % Sai/Không % 
I.Kiến thức 21,5 0,224 
Nhận biết sốt 194 56 156 44 
Nhiệt độ bình thường 176 50,3 174 49,7 
Nguyên nhân gây sốt 245 70 105 30 
Biến chứng của sốt 250 71,4 100 28,6 
Sử dụng thuốc hạ sốt 59 16,9 291 83,1 
Sử dụng thuốc hạ sốt 
theo liều 87 24,8 263 75,1 
Khoảng cách uống 
thuốc hạ sốt 169 48,3% 181 51,7 
II.Thái độ 73,89 0,234 
Phãn ứng có lợi 47 13.43 303 86.57 
Cha mẹ lo sợ 319 91.14 31 8.86 
Sốt gây hại 0 0.00 350 100.00 
Không dùng thuốc 133 38.00 217 62.00 
Thuốc dân gian 53 15.14 297 84.86 
Trữ sẳn thuốc 330 94.29 20 5.71 
Có nhiệt kế 340 97.14 10 2.86 
Sốt cao -> co giật 350 100.00 0 0.00 
Nhét tốt hơn uống 29 8.29 321 91.71 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 187 
III.Thực hành 49,89 0,085 
Đo nhiệt độ 180 51.43 170 48.57 
Uồng nhiều nước 250 71.43 100 28.57 
Uống thuốc theo toa 207 59.14 143 40.86 
Tự ra tiệm 78 22.29 222 63.43 
Uống thuốc không cần 
đo 252 72.00 98 28.00 
Theo dõi nhiệt độ 199 56.86 151 43.14 
Lau ấm 280 80.00 70 20.00 
Lau lạnh 341 97.43 9 2.57 
Đắp chăn 325 92.86 15 4.29 
Mặc thoáng 178 50.86 172 49.14 
Lau mát và thuốc 241 68.86 109 31.14 
Phương pháp dân giang 316 90.29 34 9.71 
Đi khám ngay 275 78.57 75 21.43 
Dùng hơn 1 loại thuốc 326 93.14 24 6.86 
 Nhận xét: 
 -Kiến thức: Phần lớn các bà mẹ hiểu biết đúng nguyên nhân sốt, biến chứng 
do sốt nhưng sử dụng thuốc hạ sốt và liều lượng chưa đúng. 
 - Thái độ: Phần lớn các bà mẹ không biết sốt là phản ứng có lợi, nên họ rất lo 
sợ, nên không biết thế nào phải cần dùng thuốc hạ sốt. 
 - Thực hành: Phần lớn bà mẹ biết cách đo nhiệt độ, theo dõi nhiệt độ và biết 
cách xử lý khi trẻ sốt. 
 Tuy nhiên sự khác biệt về kiến thức, thái độ, thực hành về sốt đúng/sai của các 
bà mẹ đều không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) 
 3.6. Mối tương quan giữa kiến thức , thái độ và thực hành đúng 
Nội dung LR p 
Kiến thức đúng và Thực hành đúng 21,5 0,224 
Thái độ đúng và Thực hành đúng 49,98 0,242 
 Nhận xét : Mối tương quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành đúng đều có sự 
khác biệt nhưng không có YNTK với p=0.224 và p=0,242, lần lượt) 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 188 
IV. BÀN LUẬN: 
 4.1. Kiến thức của các bà mẹ về sốt 
 Trong nghiên cứu các bà mẹ có kiến thức về sốt là từ cả ba phương tiện 
(73,4%), trong khi nghiên cứu của Đặng Thị Hà cho thấy 106 bà mẹ được phỏng vấn 
có 57.5% nhận được nguồn cung cấp kiến thức, điều này thấp hơn chúng tôi. 
 Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 95,1% bậc cha mẹ biết nhiệt độ bình 
thường của trẻ ( 360C -37,50C) Trong khi theo nghiên cứu của Trần Thị Khánh 
Linh[14], chỉ có 61.2%, có một số ít cha mẹ (khoảng 3%) nghĩ rằng nhiệt độ < 350C 
là bình thường. Một nghiên cứu ở Jordan chỉ ra rằng, khoảng 10% cha mẹ tin rằng 
380C hoặc 390C là nhiệt độ bình thường của trẻ nhỏ trong khi chỉ khoảng 14% cho 
rằng 360C hoặc 370C là sốt[13]. 
 Trong lô nghiên cứu, 56% cha mẹ biết nhiệt độ ≥37,50C là sốt và phần lớn cha 
mẹ biết dùng nhiệt kế điện tử/thủy ngân (71,1%); 28% sờ trán có khác biệt với 
nghiên cứu ở Jordan (có đến 36% cha mẹ đo nhiệt độ của trẻ bằng tay, chỉ có 32% đo 
bằng nhiệt kế thủy ngân). 
 Và theo nghiên cứu chúng tôi hầu hết cha mẹ nghĩ rằng sốt có hại (86,5%) 
nhưng có thấp hơn nghiên cứu của Trần Thị Khánh Linh (98.7%)[14]. 
 4.2. Thái độ , thực hành của các bà mẹ: 
 Sử dụng thuốc hạ sốt trong lô nghiên cứu thì 81,9 % cha mẹ dùng thuốc hạ sốt 
cho trẻ khi nhiệt độ từ 380C trở lên và rất ít khi dùng hơn 1 loại thuốc(6,9%); trong 
khi nghiên cứu của Trần Thị Khánh Linh, 51.5% dùng thuốc hạ sốt cho trẻ khi nhiệt 
độ trung bình khoảng 38,30C. Cũng trong nghiên cứu này, có khoảng 40.8% cha mẹ 
dùng hơn một loại thuốc để hạ sốt cho trẻ, khoảng 75.6% cha mẹ tìm đến nhà thuốc 
tây để mua thuốc hạ sốt cho trẻ; còn theo nghiên cứu ở Jordan 14% cha mẹ cho trẻ 
uống thuốc kháng sinh để giảm sốt, 4% sử dụng Aspirin. Chỉ có 10% cha mẹ cho trẻ 
uống thuốc hạ sốt dựa vào cân nặng của trẻ, điều này thấp hơn trong nghiên cứu của 
chúng tôi (17,4%). [11] 
 Theo nghiên cứu chúng tôi có 68,9% cha mẹ xử trí sốt bằng lau mát và thuốc 
và có 78,6% cha mẹ đưa con đi khám ngay khi bị sốt. Một nghiên cứu khảo sát về 
kiến thức, thái độ, thực hành của các bà mẹ ở Sudan về quản lý sốt cao co giật tại nhà 
cho thấy; để hạ sốt cho trẻ có 38% bà mẹ cho trẻ uống thuốc, 48% tắm mát cho trẻ. 
Trong đó có 73% bà mẹ vội vàng đưa con đến bệnh viện khi trẻ sốt cao co giật. [13] 
 Trong nghiên cứu của Trần Thị Khánh Linh, có 89% cha mẹ tin rằng sốt là lý 
do phổ biến nhất để họ đưa trẻ đến gặp bác sĩ. [14] 
Một nghiên cứu Phạm Lê An cho thấy có 79.22% thân nhân biết phải cho trẻ uống 
thuốc hạ sốt và lau mát khi trẻ sốt, 43.12% phụ huynh không biết nhiệt độ bình 
thường của trẻ. Trong đó có 3.9% phụ huynh còn đưa trẻ đi giác hơi cắt lễ. [1] 
 Theo một nghiên cứu của Đặng Thị Hà cho thấy, có đến 28.3% không cặp nhiệt 
độ cho trẻ; có tới 26.4% đã chườm đá, chanh, rượu; vẫn còn 6.6% bà mẹ cắt gió, cắt 
lễ. Có 14.2% bà mẹ mang trẻ đến bệnh viện ngay khi trẻ bị sốt, tuy nhiên chỉ có 
27.4% bà mẹ cho trẻ đi khám bệnh khi sốt không hạ. [3] 
 4.3. Mối tương quan giữa KT , thái độ và thực hành đúng : 
 Mối tương quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành đúng đều có sự khác biệt 
nhưng không có ý nghĩa thống kê. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 189 
V. KẾT LUẬN: 
 Qua nghiên cứu kiến thức, thái độ,thực hành về sốt trẻ em của 350 bà mẹ, chúng tôi 
nhận thấy rằng: 
 - Hầu hết các bà mẹ hiểu biết đúng nguyên nhân sốt, biến chứng do sốt nhưng sử 
dụng thuốc hạ sốt, liều lượng chưa đúng. 
 - Thái độ xử trí sốt của các bà mẹ còn hạn chế như các bà mẹ không biết sốt là 
phản ứng có lợi, nên họ rất lo sợ, nên không biết thế nào phải cần dùng thuốc hạ sốt 
mặc dù đa số có nhiệt kế, có trữ sẵn thuốc 
 - Thực hành xử trí sốt của các bà mẹ chưa thực sự đúng, hơn 50% bà mẹ biết đo 
nhiệt độ, theo dõi nhiệt độ khi trẻ sốt nhưng chưa biết khi nào cần sử dụng thuốc hạ sốt 
và liều lượng đúng. 
 - Mối liên hệ giữa kiến thức, thái độ và thực hành đúng có mối tương quan nhưng 
không có ý nghĩa thống kế. 
 Điều này cho thấy chúng ta cần tăng cường kiến thức cho bà mẹ, từ đó bà mẹ sẽ 
có hành vi đúng khi xử trí và chăm sóc trẻ sốt. Vì thế chúng tôi đề nghị ngành y tế cần 
phải đưa ra chương trình giáo dục sức khỏe phù hợp nhằm góp phần nâng cao chất 
lượng khám bệnh cũng như giúp các bà mẹ có kiến thức đúng và thực hành đúng trong 
chăm sóc trẻ bị sốt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Phạm Lê An (2004). “Hội chứng co giật trẻ em”. Nhi khoa chương trình Đại học, 
tập 1, Đại học Y dược TP.HCM, NXB Y học. 
2. Nguyễn Thị Thanh Anh, Nguyễn Thanh Hương (2011), “Kiến thức, thái độ và 
hành vi chăm sóc trẻ bị sốt của thân nhân bệnh nhi khi đưa trẻ đến khám và điều trị tại 
khoa Dịch Vụ 2- bệnh viện Nhi Đồng 2, thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí y học 
TP.HCM, 15 (4), tr121-132. 
3. Đặng Thị Hà, Đoàn Thị Vân (2010), “Kiến thức, thái độ, hành vi của bà mẹ có 
trẻ bị sốt cao đến khám tại bệnh Bệnh viện Phúc Yên”, Tạp chí y học TP.HCM, 14 (4), 
tr 173-179. 
4. Trương Công Hòa, Thái Thanh Trúc (2008), “Kiến thức, thái độ, hành vi về sốt 
cao co giật của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi đến khám tại bệnh viện Thuận An- Bình 
Dương tháng 5 năm 2007”, tạp chí y học TP.HCM, 12 (1), tr 35-42. 
5. Phạm Hoàng Phiệt (2009), Miễn dịch-sinh lý bệnh, Nhà xuất bản y học, tr 194-
195. 
6. Tài liệu thực hành lâm sàng nhi khoa, Bộ môn Nhi- Đại học y dược TP.HCM. 
7. (2011), Sốt cao gây co giật ở trẻ em, Accessed from 
em.htm. 
8. Bệnh viện Nhi Trung ương (2013), “Kiến thức và hành vi chăm sóc trẻ sốt của 
các bà mẹ có con nhập viện tại khoa Truyền nhiễm- bệnh viện Nhi Trung ương từ 
01/09/2012 đến 25/09/2012”, Báo cáo Hội nghị nhi khoa lần thứ 
9. Phan Thị Thu Anh (2007), Sinh lý bệnh điều hòa thân nhiệt- Sốt, Sinh lý bệnh và 
miễn dịch, Nhà xuất bản y học, tr 133-138. 
10. Bộ môn Nhi Đại học Y Dược TP.HCM (2007), Sốt ở trẻ em, Nhi khoa tập 1, 
Nhà xuất bản y học, tr 379 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 190 
11. PGS TS Cao Văn Thịnh,Ts Đặng trần ngọc Thanh,Ths Hồ thị Nga ( 2015) 
Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ khi chăm sóc trẻ sốt tại phòng 
khám nhi Bệnh viện Quận Thủ Đức từ 11/05/2015 đến 30/06/2015. Đại Học Y Phạm 
Ngọc Thạch 
Tiếng Anh 
12. Liqa Athamneh (2014), Parents’ Knowledge, Attitudes and Beliefs of 
Childhood Fever management in Jordan: a Cross-Sectional Study, Accessed from 
drenatrisk 
13. Elena Chiappini (2012), Parental and medical knowledge and management of 
fever in Italian pre-school children, Accessed from 
14. Linh Thuy Khanh Tran (2014), Fever management in children: Vietnemese 
parent’s and paediatric nurses’ knowledge, beliefs and practices. 
15. Abdelmoneim E.M. Kheir, SA Ibrahim, EAK Yahia (2013), “Knowledge, 
attitude and practice of Sudanese mothers towards home management of febrile 
convulsions”, Khartoum Medical Juornal, 06 (01), pp 847- 853, Accessed from 
n%20research.pdf?sequence=1. 
16. (2015), “Patient information: Fever in children (Beyond the Basics)”, 
Accessed from 
basics. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_kien_thuc_thai_do_va_thuc_hanh_cua_ba_me_khi_cham_s.pdf