Khảo sát hoạt động chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư tại một bệnh viện chuyên khoa ung bướu

Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm mục đích khảo sát đặc điểm sai lệch và đăc điểm thực hiện các kỹ thuật

vô khuẩn, các biện pháp bảo hộ lao động trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư.

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp để phát hiện sai lệch và

hồi quy logistic để xác định các yếu tố ảnh hưởng tới tỉ lệ sai lệch.

Kết quả nghiên cứu: Tỉ lệ các quan sát có sai lệch chiếm tỉ lệ rất cao. Điều dưỡng không thực hiện tốt

kỹ thuật vô khuẩn và các biện pháp bảo hộ lao động. Yếu tố liên quan tới sai lệch bảo gồm nhóm thuốc, chia

nhỏ liều, kiểu chuẩn bị phức tạp và số liều thuốc.

Kết luận: Nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ sai lệch rất cao trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc ung

thư. Xây dựng hướng dẫn, phổ biến và tập huấn cho điều dưỡng, tập trung vào các thuốc đường tĩnh mạch có

kiểu chuẩn bị phức tạp, có thể cải thiện sự an toàn cho bệnh nhân.

pdf 8 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát hoạt động chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư tại một bệnh viện chuyên khoa ung bướu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát hoạt động chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư tại một bệnh viện chuyên khoa ung bướu

Khảo sát hoạt động chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư tại một bệnh viện chuyên khoa ung bướu
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
145 
KHẢO SÁT HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ VÀ THỰC HIỆN THUỐC 
ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TẠI MỘT BỆNH VIỆN CHUYÊN KHOA UNG BƯỚU 
HOÀNG THỊ LÊ HẢO1, BẠCH VĔN DƯƠNG2 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm mục đích khảo sát đặc điểm sai lệch và đĕc điểm thực hiện các kỹ thuật 
vô khuẩn, các biện pháp bảo hộ lao động trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp để phát hiện sai lệch và 
hồi quy logistic để xác định các yếu tố ảnh hưởng tới tỉ lệ sai lệch. 
Kết quả nghiên cứu: Tỉ lệ các quan sát có sai lệch chiếm tỉ lệ rất cao. Điều dưỡng không thực hiện tốt 
kỹ thuật vô khuẩn và các biện pháp bảo hộ lao động. Yếu tố liên quan tới sai lệch bảo gồm nhóm thuốc, chia 
nhỏ liều, kiểu chuẩn bị phức tạp và số liều thuốc. 
Kết luận: Nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ sai lệch rất cao trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc ung 
thư. Xây dựng hướng dẫn, phổ biến và tập huấn cho điều dưỡng, tập trung vào các thuốc đường tĩnh mạch có 
kiểu chuẩn bị phức tạp, có thể cải thiện sự an toàn cho bệnh nhân. 
Từ khóa: Khảo sát, sai lệch, chuẩn bị thuốc, thực hiện thuốc, thuốc điều trị ung thư. 
ABSTRACT 
Survey on the preparation and administration of chemotherapy at the Oncology Hospital 
Purpose: This study aimed to survey characteristic deviations and characteristic implementation aspetic 
techniques, labor protection methods in the preparation and administration process of chemotherapy. 
Methods: The study used a direct observation method to detect deviations and logistic regression to 
determine the factors that influence the deviation rate. 
Results: The rate of observations had deviation very highly. Nurses perform poorly aspetic techniques and 
labor protection methods. Factors associated with deviations were drug class, complexity of preparation, dose 
subdivision and total dose. 
Conclusion: This study showed a very high rate of deviation in the preparation and administration process 
of chemotherapy. Building instructions, educational interventions, focusing on intravenous medications with 
complex preparation procedure, are likely to improve patient safety. 
Keywords: Survey, deviations, preparation medication, administration medication, chemotherapy. 
1
 ThS. Dược học Trưởng Khoa Dược - Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội 
2
 DS Lâm sàng - Khoa Dược - Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư đang là một trong những nguyên nhân 
hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới[1]. Để điều trị 
ung thư có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau, 
trong đó hóa trị liệu là một trong những phương 
pháp thường được sử dụng. Việc sử dụng hóa trị 
liệu rất phức tạp do thuốc điều trị ung thư là thuốc có 
chỉ số điều trị hẹp, độc tính cao dù ở liều điều trị và 
bệnh nhân ung thư là nhóm bệnh nhân dễ xuất hiện 
các phản ứng có hại do họ có khả nĕng chịu đựng 
kém[2]. 
Mục tiêu của điều trị bằng thuốc là cải thiện 
chất lượng cuộc sống đồng thời giảm thiểu các nguy 
cơ cho bệnh nhân. Tuy nhiên, trong quá trình sử 
dụng thuốc không thể tránh khỏi xảy ra các sai sót. 
Những hậu quả của sai sót liên quan đến thuốc là 
kéo dài thời gian nằm viện, tĕng chi phí điều trị và 
gây ra hậu quả nghiêm trọng cho bệnh nhân, thậm 
chí dẫn tới tử vong[3]. Trong một nghiên cứu, sai sót 
trong sử dụng thuốc điều trị ung thư là nguyên nhân 
phổ biến thứ hai trong các sai sót liên quan đến 
thuốc có thể dẫn tới tử vong (chiếm 15,4% số 
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
146 
trường hợp tử vong do sai sót liên quan đến 
thuốc)[4]. Việc cung cấp thuốc điều trị cho bệnh nhân 
là một quá trình phức tạp. Sai sót có thể xảy ra ở bất 
kỳ thời điểm nào và giai đoạn nào trong thực hành 
lâm sàng, từ giai đoạn kê đơn của bác sĩ, cấp phát 
của dược sĩ đến giai đoạn chuẩn bị và thực hiện 
thuốc của điều dưỡng[5]. Trong đó, chuẩn bị và thực 
hiện thuốc là công việc có nguy cơ sai sót cao nhất 
trong công việc thực hành của điều dưỡng[6]. 
Bên cạnh đó, quá trình chuẩn bị và thực hiện 
thuốc điều trị ung thư có thể gây nên những ảnh 
hưởng bất lợi tới sức khỏe của các nhân viên y tế 
trong thời gian tiếp xúc với nhóm thuốc độc hại này. 
Tại thời điểm khảo sát, tại bệnh viện chưa có nghiên 
cứu nào được triển khai về thực hành thuốc trên 
bệnh nhân ung thư, chưa có hướng dẫn chi tiết về 
quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung 
thư, kỹ thuật vô khuẩn cũng như hướng dẫn an toàn 
khi thao tác với thuốc độc hại. 
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm khảo sát 
đặc điểm sai lệch và đặc điểm thực hiện các kỹ thuật 
vô khuẩn, các biện pháp bảo hộ lao động trong quy 
trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư của 
điều dưỡng. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Là quan sát ứng với việc chuẩn bị và thực hiện 
mỗi liều thuốc điều trị ung thư đường tiêm truyền 
được điều dưỡng thực hành cho bệnh nhân điều trị 
nội trú tại 2 Khoa Nội I và Nội II của một Bệnh viện 
chuyên khoa Ung Bướu. 
Một quan sát là những ghi nhận của người 
quan sát liên tục trong quá trình chuẩn bị và thực 
hiện một liều thuốc trên một bệnh nhân tính từ khi 
điều dưỡng chuẩn bị liều thuốc đó cho đến khi điều 
dưỡng kết thúc việc thực hiện thuốc của mình[7]. 
Địa điểm, thời gian tiến hành quan sát: 
Nghiên cứu được thực hiện tại 2 khoa lâm sàng 
của một Bệnh viện chuyên khoa Ung Bướu, từ tháng 
1 đến tháng 10 nĕm 2018. 
Tiêu chuẩn lựa chọn: 
Tất cả quan sát của người quan sát về việc 
chuẩn bị và thực hiện trên bệnh nhân được điều 
dưỡng thực hành trong thời gian quan sát. 
Bệnh nhân được lựa chọn trước để việc quan sát 
được thuận tiện (bệnh nhân cùng nhóm điều dưỡng 
thực hiện). 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
Những quan sát nằm ngoài thời gian quan sát 
của người nghiên cứu, những trường hợp không 
thích hợp cho việc quan sát (cấp cứu, điều dưỡng từ 
chối quan sát). 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả tiến cứu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Kỹ thuật quan sát trực tiếp, không can thiệp. 
Nội dung tiến hành nghiên cứu 
Người quan sát trong nghiên cứu của chúng tôi 
là 02 dược sĩ lâm sàng. Nội dung tiến hành để thu 
thập số liệu như sau: 
Bước 1: Khảo sát thực tế khoa phòng. 
Bước 2: Xây dựng mẫu phiếu thu thập thông tin. 
Bước 3: Nghiên cứu thử nghiệm và điều chỉnh 
bộ công cụ. 
Bước 4: Quan sát và thu số liệu chính thức. 
Chỉ tiêu nghiên cứu 
Tỉ lệ các quan sát có sai lệch trong quy trình 
chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư của 
điều dưỡng. 
Định nghĩa sai lệch 
Chúng tôi xác định “sai lệch” là bất kỳ sự khác 
biệt nào trong quá trình điều dưỡng chuẩn bị và thực 
hiện thuốc so với (1) y lệnh của thầy thuốc hoặc (2) 
khuyến cáo cách sử dụng thuốc được tổng hợp từ 
các y vĕn theo thứ tự ưu tiên (hướng dẫn pha truyền 
một số thuốc điều trị ung thư của khoa Dược bệnh 
viện[8], tờ hướng dẫn sử dụng của các thuốc được 
sử dụng tại hai khoa nghiên cứu, Australian 
Injectable drugs handbook 4th[9], AHFS Drug 
Information 2011[10], Dược thư quốc gia Việt Nam 
2015[11], Martindale 37th[12], BCCA chemotherapy 
preparation and stability chart 2016[13]). Trong các 
trường hợp y lệnh của thầy thuốc/ khuyến cáo cách 
sử dụng thuốc không thống nhất thì chúng tôi ưu tiên 
y lệnh của thầy thuốc. 
(Ghi chú (a): Liều bị bỏ lỡ là liều được bác sĩ chỉ định 
nhưng bệnh nhân không được dùng thuốc) 
Tỉ lệ các sai lệch cụ thể xảy ra trong quy trình 
chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư của 
điều dưỡng. 
Trong nghiên cứu, chúng tôi phân loại thành 14 
sai lệch cụ thể, được mô tả trong Bảng 1. 
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
147 
Bảng 1. Phân loại sai lệch trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc 
STT Tên sai lệch Mô tả sai lệch 
Giai đoạn chuẩn bị thuốc 
1 Sai thuốc Chuẩn bị thuốc không có trong chỉ định[3],[14] 
2 Bỏ lỡ thuốc Thuốc được chỉ định nhưng không được chuẩn bị[3],[14] 
3 Sai liều Lượng thuốc được phân liều cho bệnh nhân khác với liều thuốc được chỉ định[3],[14], bao gồm 
tính sai thể tích dung dịch thuốc. Đối với thuốc tiêm thì giới hạn đánh giá sai liều nhỏ hơn hay 
lớn hơn 10% so với lượng thuốc được bác sĩ chỉ định[15],[16]. 
4 Sai liều do lỗi chuẩn bị Liều thuốc không được chuẩn bị chính xác do lỗi chuẩn bị[3]. 
5 Sai do thêm liều Bệnh nhân được dùng thêm một liều thuốc vượt tổng mức liều chỉ định bởi bác sĩ hoặc được 
dùng thêm một liều thuốc khi bác sĩ đã dừng chỉ định[3]. 
6 Sai dạng bào chế Sử dụng dạng bào chế khác so với dạng bào chế được kê đơn của bác sĩ[3],[14] 
7 Thuốc có nguy cơ bị hỏng Chuẩn bị một loại thuốc hết hạn sử dụng hoặc tính chất vật lý/hóa học của dạng bào chế bị 
thay đổi hay do dùng thuốc không được bảo quản cẩn thận trong điều kiện thích hợp nên 
dạng bào chế bị thay đổi[3],[14]. 
8 Sai kỹ thuật chuẩn bị Kỹ thuật chuẩn bị thuốc không đúng quy trình hay bỏ lỡ thao tác khi chuẩn bị thuốc so với 
khuyến cáo. Sai kỹ thuật chuẩn bị thuốc bao gồm sai loại dung môi hoàn nguyên, sai loại 
dung môi pha loãng, sai thể tích dung môi hoàn nguyên hoặc sai thể tích dung môi pha loãng 
so với chỉ định trong đơn thuốc bởi bác sĩ hoặc các khuyến cáo, nguy cơ tương kỵ giữa các 
thuốc hoặc dung môi trộn cùng, sai kỹ thuật lắc so với các khuyến cáo[14],[17]. 
9 Lỗi sai chuẩn bị khác Bất kỳ các sai lệch nào khác trong giai đoạn chuẩn bị không thuộc các lỗi sai trên[17]. 
Giai đoạn thực hiện thuốc 
10 Bỏ lỡ thuốc Liều thuốc không được dùng cho bệnh nhân[3]. 
11 Sai kỹ thuật thực hiện thuốc Sử dụng quy trình không thích hợp hoặc kỹ thuật không đúng trong thực hiện thuốc[3] 
12 Sai tốc độ thực hiện thuốc Sai tốc độ thực hiện thuốc được ghi nhận khi điều dưỡng thực hiện sai khác 10% tốc độ 
được chỉ định/khuyến cáo[16]. 
13 Sai đường dùng Sai đường dùng được ghi nhận khi điều dưỡng thực hiện đường dùng khác với chỉ 
định/khuyến cáo[3],[18]. 
14 Lỗi sai thực hiện khác Bất kỳ các sai lệch nào khác trong giai đoạn thực hiện thuốc không thuộc các lỗi sai trên[17]. 
Các yếu tố ảnh hưởng tới tỉ lệ sai lệch trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư của 
điều dưỡng. 
Tỉ lệ quan sát không thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị 
ung thư của điều dưỡng. 
Tỉ lệ lượt điều dưỡng thực hiện các biện pháp bảo hộ lao động trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc 
điều trị ung thư của điều dưỡng. 
Xử lý kết quả 
Số liệu được lưu trữ và phân tích bằng phần 
mềm thống kê SPSS 20. Sử dụng hồi quy logistic đa 
biến để xác định các yếu tố ảnh hưởng tới tỉ lệ sai 
lệch trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm sai lệch trong quy trình chuẩn bị và 
thực hiện thuốc điều trị ung thư của điều dưỡng 
Tỉ lệ quan sát có sai lệch trong quy trình chuẩn 
bị và thực hiện thuốc 
Trong nghiên cứu không có quan sát nào được 
xem là bỏ lỡ thuốc nên tổng số liều thuốc được quan 
sát cộng với số liều thuốc bị bỏ lỡ bằng tổng số liều 
thuốc được quan sát, là 399 quan sát. Tỉ lệ quan sát 
có sai lệch được mô tả trong Bảng 2. 
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
148 
Bảng 2. Tỉ lệ quan sát có sai lệch trong quy trình 
chuẩn bị và thực hiện thuốc 
Khoa 
Số quan sát có sai lệch (%) 
Giai đoạn 
chuẩn bị 
Giai đoạn 
thực hiện 
Cả 2 
giai đoạn 
Nội I (n=217) 180 (82,9) 210 (96,8) 216 (99,5) 
Nội II (n=182) 182 (100) 186 (99,5) 182 (100) 
Cả 2 khoa (N=399) 362 (90,7) 391 (98,0) 398 (99,7) 
Tỉ lệ quan sát có sai lệch ở cả 2 giai đoạn là 
99,7%, trong giai đoạn chuẩn bị là 90,7% và trong 
giai đoạn thực hiện thuốc là 98,0%. Hầu hết các 
quan sát ở khoa Nội II đều có sai lệch. 
Đặc điểm từng loại sai lệch trong quy trình 
chuẩn bị và thực hiện thuốc 
Tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn chuẩn bị và thực 
hiện thuốc được trình bày trong Bảng 3. 
Bảng 3. Tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn chuẩn bị và 
thực hiện thuốc 
Loại sai lệch cụ thể Số quan sát có 
sai lệch 
Tỉ lệ (%) 
(N=399) 
Giai đoạn chuẩn bị thuốc 
Sai thuốc 0 0 
Bỏ thuốc 0 0 
Sai liều 4 1,0 
Sai liều do lỗi chuẩn bị 109 27,3 
Sai do thêm liều 1 0,3 
Thuốc có nguy cơ bị 
hỏng 
102 25,6 
Sai kỹ thuật chuẩn bị 146 36,6 
Sai lệch chuẩn bị khác 186 46,6 
Giai đoạn thực hiện thuốc 
Bỏ thuốc 0 0 
Sai kỹ thuật thực hiện 
thuốc 
329 82,5 
Sai tốc độ thực hiện 312 78,2 
Sai lệch thực hiện 
khác 
65 16,3 
Trong giai đoạn chuẩn bị, sai lệch xảy ra phổ 
biến nhất là sai do chai thuốc không được dán nhãn 
khi chuẩn bị (46,6%), sai kỹ thuật chuẩn bị (36,6%) 
(chủ yếu là sai thể tích dung môi hoàn nguyên 
(20,3%)), sai liều do lỗi chuẩn bị (27,1%) (phần lớn 
là do rớt hóa chất (10,8%)) và thuốc có nguy cơ bị 
hỏng (25,6%). Trong giai đoạn thực hiện thuốc, sai 
lệch phổ biến nhất là sai kỹ thuật thực hiện thuốc 
(82,5%) (phần lớn là không tráng dây truyền trước 
và sau mỗi lần thực hiện thuốc) và sai tốc độ truyền 
(78,2%). 
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ sai lệch trong quy 
trình chuẩn bị và thực hiện thuốc 
Sử dụng phân tích hồi quy logistic đa biến, các 
yếu tố nhóm thuốc, dạng liều kê đơn so với dạng 
đóng gói và kiểu chuẩn bị ảnh hưởng tới tỉ lệ sai lệch 
trong giai đoạn chuẩn bị thuốc. Về nhóm thuốc, nguy 
cơ gặp sai lệch khi chuẩn bị các thuốc thuộc nhóm 
“kháng chuyển hóa” và nhóm “các chất có nguồn 
gốc từ thực vật” thấp hơn đáng kể so với nhóm 
“alkyl hóa” với OR lần lượt là OR=0,02, 95% CI: 
0,00-0,17, p<0,05 và OR=0,01, 95% CI: 0,00-0,07. 
Với dạng liều kê đơn so với dạng đóng gói, nguy cơ 
gặp sai lệch khi chuẩn bị các thuốc ở dạng chia nhỏ 
liều cao hơn 4,94 lần so với dạng nguyên liều 
(OR=4,94; 95%CI: 1,57–15,52, p<0,05). Với kiểu 
chuẩn bị, nguy cơ gặp sai lệch khi chuẩn bị thuốc 
bằng kiểu chuẩn bị “hoàn nguyên và pha loãng” cao 
hơn 5,0 lần so với kiểu chuẩn bị “dung dịch tiêm 
truyền, cần pha loãng” (OR=5,00, 95% CI=1,38–
18,16, p<0,05). Trong giai đoạn thực hiện thuốc, chỉ 
có yếu tố số liều thuốc điều trị ung thư của một bệnh 
nhân trong ngày ảnh hưởng tới tỉ lệ sai lệch trong 
giai đoạn thực hiện. Cứ tĕng 01 liều thuốc điều trị 
ung thư của một bệnh nhân trong ngày, nguy cơ gặp 
sai lệch tĕng lên 11,75 lần (OR=11,75, 95%CI: 1,30-
106,39, p<0,05). 
Đặc điểm thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn và 
các biện pháp bảo hộ lao động trong quy trình chuẩn 
bị và thực hiện thuốc 
Tỉ lệ không thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn 
trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc của điều 
dưỡng được trình bày trong Bảng 4. 
Bảng 4. Tỉ lệ không thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn 
trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc 
Các thao tác không thực hiện Số quan 
sát 
Tỉ lệ (%) 
(N=399) 
Giai đoạn chuẩn bị thuốc 
Không rửa tay trước khi chuẩn bị 379 95,0 
Không sát khuẩn nắp chai dịch và 
nắp lọ/ ống thuốc trước khi chuẩn bị 
399 100,0 
Sử dụng kim cũ khi chuẩn bị lượt 
thuốc mới 
268 67,2 
Sử dụng một bơm tiêm duy nhất để 
chuẩn bị cho nhiều lọ thuốc 
272 68,2 
Không sử dụng gạc tiệt trùng để bọc 
quanh kim tiêm và nắp lọ trước khi 
rút thuốc 
399 100,0 
Chạm vào bộ phận cần vô  ...  
pha loãng và sai kỹ thuật lắc của một số thuốc cần 
thao tác đặc biệt. Điều này có thể do phần hoàn 
nguyên không được chỉ định trong y lệnh của bác sĩ 
và điều dưỡng thường thực hành theo thói quen. 
Việc sử dụng sai dung môi có thể gây ra giảm độ 
hòa tan của bột thuốc, có thể dẫn đến lẫn bột thuốc 
khi truyền cho bệnh nhân. Sử dụng sai dung môi 
cũng có thể dẫn đến giảm độ ổn định, hoạt tính của 
thuốc và gây ra khả nĕng thuốc bị tủa, lắng đọng 
[20],[21]. Sai thể tích dung môi pha loãng cũng góp 
phần sai lệch tốc độ truyền[16]. 
Trong giai đoạn thực hiện, sai lệch do sai 
kỹ thuật thực hiện thuốc và sai tốc độ thực hiện là 
hai loại sai lệch phổ biến nhất trong giai đoạn thực 
hiện thuốc, tương tự nghiên cứu của Nguyễn Thùy 
Giang (2014)[19], nhưng chiếm tỉ lệ thấp hơn. Sai kỹ 
thuật thực hiện chủ yếu liên quan tới không tráng 
rửa dây truyền trước và sau mỗi lần thực hiện thuốc, 
vỏ chai truyền sau sử dụng không được hủy vỏ 
ngay, thuốc không được truyền hết hoàn toàn và 
nguy cơ tương kỵ. Sai tốc độ thực hiện thuốc có thể 
do điều dưỡng thường điều chỉnh tốc độ theo thói 
quen mà không kiểm tra lại tốc độ truyền trong phiếu 
công khai truyền dịch dẫn tới sai tốc độ khi bác sĩ có 
thay đổi tốc độ trong y lệnh giữa các bệnh nhân, 
thiếu nhận thức về nguy cơ, áp lực trong công việc, 
thiếu quy trình hợp lý, tiếng ồn và bị gián đoạn trong 
khi thực hiện thuốc. Tốc độ truyền không phù hợp có 
thể gây ra một số ảnh hưởng đến bệnh nhân như 
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
150 
gây sốc hoặc quá tải dịch, dẫn đến thoát mạch, 
gây đau, gây viêm và một số phản ứng bất lợi khác. 
Một số sai lệch chiếm tỉ lệ nhỏ nhưng gây ảnh 
hưởng nghiêm trọng như thực hiện thuốc có nguy 
cơ bị hỏng, thực hiện thuốc sai bệnh nhân, sai thứ 
tự thực hiện thuốc so với chỉ định. 
Khi tìm mối liên quan của các yếu tố ảnh hưởng 
tới tỉ lệ sai lệch, chúng tôi nhận thấy có mối liên quan 
giữa tỉ lệ sai lệch với một số yếu tố như nhóm thuốc, 
dạng liều kê đơn so với dạng đóng gói, kiểu chuẩn bị 
và số liều thuốc điều trị ung thư của bệnh nhân trong 
ngày. Tĕng số lượng liều thuốc bệnh nhân sử dụng 
trong ngày ảnh hưởng tới nguy cơ gặp sai lệch có 
thể do việc sử dụng đồng thời nhiều liều thuốc sẽ 
dẫn tới nguy cơ gặp các tương kỵ khi thực hiện, 
tĕng cơ hội nhầm lẫn giữa các thuốc. Việc chia nhỏ 
liều làm tĕng nguy cơ gặp sai lệch trong giai đoạn 
chuẩn bị thuốc có thể do nhiều lý do như tính nhầm 
liều, rút liều sai do lấy thể tích quá nhỏ hoặc quá lẻ. 
Các thuốc chuẩn bị theo kiểu hoàn nguyên và pha 
loãng có dạng bào chế là bột pha dung dịch tiêm 
truyền nên giai đoạn chuẩn bị phức tạp hơn, nguy 
cơ gặp sai lệch cao hơn khi so sánh với kiểu chuẩn 
bị “dung dịch tiêm truyền, cần pha loãng”. Một 
nghiên cứu trước đó về dùng thuốc đường tĩnh 
mạch chỉ ra rằng các thuốc có giai đoạn chuẩn bị 
gồm nhiều bước phức tạp liên quan đến nguy cơ 
gặp sai lệch cao hơn so với các thuốc có giai đoạn 
chuẩn bị đơn giản[22],[23]. Theo một tổng quan hệ 
thống của McDowell và cộng sự (2010) cho thấy 
rằng nếu loại trừ bước hoàn nguyên (đối với các 
thuốc có giai đoạn chuẩn bị phức tạp) bằng cách 
thay bằng thuốc tiêm có giai đoạn chuẩn bị đơn giản 
sẽ giảm thiểu 83% sai lệch[24]. 
Để giảm thiểu sai lệch, hướng dẫn quy trình kỹ 
thuật khám chữa bệnh chuyên ngành ung bướu của 
Bộ Y Tế (2013) khuyến nghị nên tráng ven truyền 
bằng dịch đẳng trương sau mỗi lượt truyền và số 
lượng cụ thể sẽ do bác sĩ quy định[25]. Tại bệnh viện, 
hướng dẫn pha truyền một số thuốc điều trị ung thư 
của khoa Dược[8] cũng đã đề cập một số thông tin về 
loại dung môi, thể tích dung môi, các thuốc cần bao 
tránh sáng sau khi chuẩn bị xong và khoảng nồng độ 
khuyến cáo của một số thuốc, các bác sĩ và điều 
dưỡng có thể tham khảo khi kê đơn, chuẩn bị và 
thực hiện thuốc cũng giảm thiểu được sai lệch. 
Nhưng trong tài liệu này chưa đề cập tới vấn đề 
tương kỵ - tương hợp khi thực hiện thuốc. Để giảm 
thiểu nguy cơ gặp tương kỵ của các thuốc ở khoa, 
khoa Dược bệnh viện nên trang bị cho mỗi khoa 
bảng khuyến cáo về tính tương hợp – tương kỵ của 
dung môi – thuốc, thuốc – thuốc. Khuyến cáo dung 
môi tráng rửa dây truyền thường là NaCl 0,9% hoặc 
glucose 5% với thể tích 20ml[26]. Ngoài ra, bệnh viện 
nên xây dựng quy trình hướng dẫn tiêm truyền, sử 
dụng các thiết bị kiểm soát tốc độ tiêm truyền[21], 
cải thiện chất lượng đào tạo nhân viên, sử dụng các 
sản phẩm được chuẩn bị sẵn từ công ty dược[24], 
giới thiệu và hướng dẫn các chương trình đào tạo 
cho điều dưỡng, kiểm tra thông tin trên phiếu công 
khai truyền dịch trước khi thực hiện và lưu ý các 
thuốc có nguy cơ cao gặp sai lệch[27],[28]. Các nghiên 
cứu đã khẳng định rằng đào tạo, xây dựng quy trình 
chuẩn và các hướng dẫn là cách tiếp cận thành 
công để giảm thiểu tỉ lệ các sai lệch liên quan đến 
thuốc, đặc biệt trong môi trường thực hành có nguồn 
lực hạn chế[27],[28],[29]. Ngoài ra, kiểm tra chéo giữa 
hai nhân viên y tế trong quá trình chuẩn bị và thực 
hiện thuốc cũng là một kỹ thuật thiết yếu để giảm 
thiểu các sai lệch liên quan đến thuốc[30]. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hầu hết các 
quan sát khi chuẩn bị và thực hiện thuốc, kỹ thuật vô 
khuẩn hầu hết không được thực hiện. Tỉ lệ này 
tương tự nghiên cứu của Nguyễn Thùy Giang 
2014[19]; cao hơn nghiên cứu tại Malaysia (2013) 
(98,7% không sát khuẩn nắp lọ/ ống thuốc)[21] và 
nghiên cứu đa trung tâm tại 3 quốc gia Pháp, Đức, 
Anh của Cousin và cộng sự (2005) (tỉ lệ không sát 
khuẩn nắp lọ/ ống thuốc tương ứng 96%, 42%, 1% 
và ít nhất 1 sai lệch về thực hiện kỹ thuật vô khuẩn 
tương ứng 19%, 58%, 100% các trường hợp)[20]. 
Điều này có thể do tại cơ sở nghiên cứu của chúng 
tôi không có khu vực chuẩn bị thuốc chuyên dụng, 
không có đầy đủ trang thiết bị và tài liệu hướng dẫn 
nào về quy trình vô khuẩn đối với thuốc tiêm truyền. 
Tỉ lệ thực hiện các biện pháp bảo hộ lao động 
trong giai đoạn chuẩn bị thuốc chiếm tỉ lệ cao, nhưng 
trong giai đoạn thực hiện thuốc chiếm tỉ lệ thấp. 
Tuy nhiên, các biện pháp bảo hộ thực hiện tại cơ sở 
không phải là trang phục bảo hộ được khuyến cáo 
dùng cho chuẩn bị thuốc gây độc tế bào. Theo các 
hướng dẫn, nhân viên y tế tham gia vào quy trình 
thao tác với thuốc gây độc tế bào cần được trang bị 
tủ an toàn sinh học hoặc tủ vô trùng cách ly, áo bảo 
hộ có khả nĕng chống thấm và khẩu trang có màng 
lọc. Tình trạng áp dụng không tốt các biện pháp bảo 
hộ cá nhân trong khu vực chuẩn bị và thực hiện 
không đảm bảo an toàn, sẽ làm tĕng nguy cơ phơi 
nhiễm nghề nghiệp của các điều dưỡng với các 
thuốc độc hại, gây ra những tác động cấp tính và lâu 
dài tới sức khỏe và sinh sản trong tương lai. Nguyên 
nhân dẫn đến vấn đề này có thể do điều dưỡng 
chưa nhận thức được đầy đủ về nguy cơ khi tiếp xúc 
với thuốc điều trị ung thư đối với sức khỏe, khối 
lượng công việc quá lớn, không có quy trình thao tác 
chuẩn, không có chương trình đào tạo cho điều 
dưỡng, không có khu vực chuẩn bị thuốc tập trung 
và thiếu trang bị bảo hộ dành cho chuẩn bị thuốc 
gây độc tế bào[31],[32]. 
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
151 
Ưu điểm và hạn chế 
Trong nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương 
pháp quan sát trực tiếp, được xem là “chuẩn vàng” 
để phát hiện sai lệch liên quan đến thuốc. Các ảnh 
hưởng đến việc chuẩn bị và thực hiện thuốc do sự 
có mặt của người quan sát được trung hòa bằng 
khảo sát khoa phòng, nghiên cứu thử nghiệm 2-3 
ngày/ khoa trước khi bắt đầu nghiên cứu chính thức, 
điều dưỡng không được biết mục đích thực sự của 
nghiên cứu và tạo môi trường thân thiện, thoải mái 
giữa người quan sát và đối tượng quan sát. 
Tuy nhiên, thời gian nghiên cứu tương đối ngắn 
có thể không thể phát hiện được các sai lệch xảy ra 
với tần suất thấp. Nghiên cứu chỉ có một quan sát 
viên nên không quan sát hết được tối đa số liều 
thuốc sử dụng và các sai lệch trong quy trình chuẩn 
bị và thực hiện thuốc của điều dưỡng. Nghiên cứu 
của chúng tôi chưa đánh giá được sai lệch do sai 
thời điểm thực hiện thuốc bởi trong y lệnh không chỉ 
định thời điểm thực hiện thuốc, không thu được hết 
các thông tin của một liều quan sát như việc tráng 
dây truyền sau mỗi lượt thực hiện thuốc, có truyền 
hết thuốc hay không và vỏ chai truyền sau sử dụng 
có được hủy ngay, trong các trường hợp liều thuốc 
đó được thực hiện bằng thiết bị truyền tự động do 
khoảng thời gian truyền quá dài, nằm ngoài thời gian 
quan sát. Nghiên cứu chỉ mới dừng lại ghi nhận các 
sai lệch và xác định các yếu tố ảnh hưởng tới tỉ lệ 
sai lệch, chưa đánh giá được mức độ ảnh hưởng 
của các sai lệch này lên bệnh nhân. 
KẾT LUẬN 
Nguy cơ gặp sai lệch trong quy trình chuẩn bị 
và thực hiện thuốc chiếm tỉ lệ cao. Một số sai lệch 
cụ thể xảy ra phổ biến như sai kỹ thuật thực hiện, 
sai tốc độ thực hiện, sai lệch do không dán nhãn 
khi chuẩn bị và sai kỹ thuật chuẩn bị. Các yếu tố 
ảnh hưởng tới tỉ lệ sai lệch như nhóm thuốc, dạng 
liều kê đơn so với dạng đóng gói, số liều thuốc điều 
trị ung thư của bệnh nhân trong ngày và kiểu chuẩn 
bị. Vấn đề thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn và các 
biện pháp bảo hộ lao động đều không được 
thực hiện tốt. Cần xây dựng tài liệu hướng dẫn, 
phổ biến và tập huấn cho các điều dưỡng tham gia 
vào quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị 
ung thư, nhằm cải thiện tính an toàn, hợp lý của việc 
sử dụng thuốc tại bệnh viện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. International Agency for research on cancer, truy 
cập ngày 10/02/2018, tại trang web 
ion.aspx. 
2. Müller T. (2003), Typical Medication Errors in 
Oncology: Analysis and Prevention Strategies, 
Onkologie. 26, tr. 539–544. 
3. Allan E. L. and Baker K. N. (1990), 
Fundamentals of medication error research, 
American Journal of Healthy-System Pharmacy. 
47(3), tr. 555-71. 
4. Phillips Jerry., Beam Sammie., Brinker Allen. et 
al (2011), Retrospective analysis of mortalities 
associated with medication errors, American 
Journal of Health-System Pharmacy. 59(19), tr. 
1835-1841. 
5. NCC MERP The National Coordinating Council 
for Medication Error Reporting and Prevention, 
About Medication errors. 
6. Jones J. H. and Treiber L. (2010), When the 5 
Rights Go Wrong: Medication Errors From the 
Nursing Perspective, J Nurs Care Qual. 25(3), tr. 
240-247. 
7. Dương Thị Thanh Tâm (2014), Đánh giá an toàn 
trong thực hành thuốc cho trẻ em tại một cơ sở y 
tế ở Việt Nam, Luận Vĕn Thạc sỹ Dược Học, 
Trường đại học Dược Hà Nội, Hà Nội. 
8. Khoa Dược Bệnh viện Chuyên khoa Ung Bướu 
(2011), Hướng dẫn pha truyền một số thuốc điều 
trị ung thư, Hà Nội. 
9. Burridge Nicolette Society of Hospital 
Pharmacists of Australia (2011) Australian 
injectable drugs handbook, chủ biên, Society of 
Hospital Pharmacists of Australia, Collingwood. 
10. American Society of Health-System Pharmacists 
(2011), AHFS drug information essentials 2011, 
American Society of Health-System 
Pharmacists, Bethesda, Md. 
11. Bộ Y Tế (2009), Dược thư quốc gia Việt Nam, 
chủ biên, Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội. 
12. Sean C. Sweetman. (2009), Martindale: The 
Complete Drug Reference, Pharmaceutical 
Press, London, UK. 
13. British Columbia Cancer Agency (2016), BC 
Cancer Agency Chemotherapy Preparation and 
Stability Chart© version 2.00. 
14. Wirtz Veronika., Taxis Katja. and Barber Nick. D. 
(2003), An observational study of intravenous 
medication errors in the United Kingdom and in 
Germany. 25(3), tr. 104-111. 
15. Backer K. N., Flynn A. E., Pepper A. G. et al 
(2002), Medication errors observed in 36 health 
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
152 
care facilities, Arch Intern Med. 162, tr. 1897-
1903. 
16. 1Dhamija Mayank., Kapoor Gauri. and Juneja 
Atul. (2014), Infusional Chemotherapy and 
Medication Errors in a Tertiary Care Pediatric 
Cancer Unit in a Resource-limited Setting, J 
Pediatr Hematol Oncol. 36(7), tr. e412–e415. 
17. Nguyen Huong-Thao., Nguyen Tuan-Dung., Van 
den Heuvel E. R. et al (2015), Medication Errors 
in Vietnamese Hospitals: Prevalence, Potential 
Outcome and Associated Factors, tr. 1-12. 
18. 18. Backer K. N., Flynn A. E. and Pepper A. G. 
(2002), Observation method of detecting 
medication errors, Am J Health-Syst Pharm. 59, 
tr. 2314-6. 
19. Nguyễn Thùy Giang (2014), Khảo sát cách sử 
dụng thuốc chống ung thư tại khoa Phụ Ung Thư 
Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương, Khóa luận tốt 
nghiệp Dược Sĩ, Trường Đại Học Dược Hà Nội, 
Hà Nội. 
20. Cousins D H., Sabatier B., Begue D. et al (2005), 
Medication errors in intravenous drug 
preparation and administration: a multicentre 
audit in the UK, Germany and France, Quality 
and Safety Health care. 14, tr. 190-195. 
21. Ong WM. and Pharm MClin. (2013), Medication 
Errors in Intravenous Drug Preparation and 
Administration, Medical Journal of Malaysia. 
68(1), tr. 52-7. 
22. American Society of Hospital Pharmacists 
(1993), ASHP guidelines on preventing 
medication errors in hospitals, Am J Hosp 
Pharm. 50, tr. 305-14. 
23. Taxis Katja. and Barber Nick. (2003), 
Ethnographic study of incidence and severity of 
intravenous drug errors, British Medical Journal. 
326(7391), tr. 684. 
24. McDowell Sarah E., Mt-Isa Shahrul., Ashby 
Deborah. et al (2010), Where errors occur in the 
preparation and administration of intravenous 
medicines: a systematic review and Bayesian 
analysis, Qual Saf Health Care. 19, tr. 341-345. 
25. Bộ Y Tế (2013), Danh mục hướng dẫn quy trình 
kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh chuyên nghành 
ung bướu, Ban hành kèm theo Quyết định số: 
3338/QĐ-BYT ngày 09 tháng 9 nĕm 2013 của 
Bộ trưởng Bộ Y tế, Hà Nội. 
26. Gray Alistair., Wright Jane., Goodey Vincent. et 
al (2011), Injectable Drugs Guide, 1st ed. 
27. Manias E., Williams A. andLiew D. (2012), 
Interventions to reduce medication errors in adult 
intensive care: A systematic review, Br J Clin 
Pharmacol. 74, tr. 411-423. 
28. Romero CM., Salazar N., Rojas L. et al (2013), 
Effects of the implementation of a preventive 
interventions program on the reduction of 
medication errors in critically ill adult patients, J 
Crit Care. 28, tr. 451-460. 
29. Nguyen Huong Thao, Pham Hong Tham, Vo 
Dang Khoa, et al (2014), The effect of a clinical 
pharmacist-led training programme on 
intravenous medication errors: A controlled 
before and after study, BMJ Qual Saf. 23, tr. 
319-324. 
30. Schwappach D L B., Pfeiffe Yvonne. and Taxis 
Katja. (2016), Medication double-checking 
procedures in clinical practice: a cross-sectional 
survey of oncology nurses’ experiences, BMJ. 6, 
tr. e011394. 
31. Boiano J. M., Steege A. L. andSweeney M. H. 
(2015), Adherence to Precautionary Guidelines 
for Compounding Antineoplastic Drugs: A Survey 
of Nurses and Pharmacy Practitioners, Journal 
of Occupational and Environmental Hygiene, tr. 
1-50. 
32. Gambrell J. and Moore S. (2005), Assessing 
Workplace Compliance With Handling of 
Antineoplastic Agent, Clinical Journal of 
Oncology Nursing, tr. 473-477. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_hoat_dong_chuan_bi_va_thuc_hien_thuoc_dieu_tri_ung.pdf