Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nồng độ AFP, PIVKA-II ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan

Mục tiêu: Khảo sát các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng, và nồng độ AFP,

PIVKA-II ở bệnh nhân UTBMTBG. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên

cứu mô tả cắt ngang trên 53 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG). Kết

quả: Nguyên nhân của UTBMTBG chủ yếu là so virus B (60.38%), rượu (22.64%). Các

triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất là mệt mỏi (73.58%), đau HSP (73.58%), gan to

(56.60%). Các xét nghiệm sinh hóa ít biển đổi. Khối u ở gan phải chiếm chủ yếu (SA:

71.69%, CLVT: 69.81). Kết luận: khả năng phát hiện tổn thương của CLVT tốt hơn so

với siêu âm. Nồng độ AFP và PIVKA-II ở bệnh nhân UTBMTBG tăng cao.

pdf 8 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nồng độ AFP, PIVKA-II ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nồng độ AFP, PIVKA-II ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan

Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nồng độ AFP, PIVKA-II ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
60
1 Bệnh viện Quân y 103
2 Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Phạm Thanh Bình (thanhbinh412ldgmail.com)
Ngày nhận bài: 10/7/2018, ngày phản biện: 24/7/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/9/2018
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
VÀ NỒNG ĐỘ AFP, PIVKA-II Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ 
BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN
Phạm Thanh Bình1, Hoàng Thị Minh1, Nguyễn Quang Duật1, Lã Văn Tuấn2
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng, và nồng độ AFP, 
PIVKA-II ở bệnh nhân UTBMTBG. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên 
cứu mô tả cắt ngang trên 53 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG). Kết 
quả: Nguyên nhân của UTBMTBG chủ yếu là so virus B (60.38%), rượu (22.64%). Các 
triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất là mệt mỏi (73.58%), đau HSP (73.58%), gan to 
(56.60%). Các xét nghiệm sinh hóa ít biển đổi. Khối u ở gan phải chiếm chủ yếu (SA: 
71.69%, CLVT: 69.81). Kết luận: khả năng phát hiện tổn thương của CLVT tốt hơn so 
với siêu âm. Nồng độ AFP và PIVKA-II ở bệnh nhân UTBMTBG tăng cao.
Từ khóa: UTBMTBG, PIVKA-II, CLVT, Siêu âm
INVESTIGATION OF CLINICAL, SUBCLINICAL, AND AFP, 
PIVKA-II LEVELS IN HEPATOCELLULAR CARCINOMA (HCC) 
PATIENTS
ABSTRACT
Purpose: To investigate clinical, subclinical, and AFP, PIVKA-II levels in 
hepatocellular carcinoma (HCC) patients. Subjects and methods: A cross-sectional 
study in 53 HCC patients. Rerults: The main cause of HCC was HBV (60.38%), alcohol 
(22.64%). The most common clinical symptoms were fatigue (73.58%), righ lower 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
61
back pain (73.58%), enlarged liver (56.60%). Biochemical tests are litle changed. The 
location of the tumors is mainly in the right liver (Ultrasound: 71.69%, CT: 69.81). 
Conclusions:The ability to detect injury of CT is better than ultrasound. AFP and 
PIVKA-II levels in HCC patients are high.
Keywords: HCC, Computerized tomography (CT), Ultrasound.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư gan nguyên phát là một 
bệnh lý ác tính khá phổ biến, trong đó ung 
thư biểu mô tế bao gan (hepatocellular 
carcinoma – UTBMTBG) chiếm tỷ lệ từ 85 
– 90%. Theo đánh giá mới nhất, UTBMTB 
gan đứng hàng thứ 5 trong các loại ung thư 
và là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây 
tử vong[10]. Ở Việt Nam hiện chưa có 
số liệu thống kê trên phạm vi toàn quốc 
nhưng theo thống kê ở một số tỉnh thành 
thì UTBMTB là một trong những bệnh lý 
ung thư thường gặp nhất[13]. UTBMTBG 
thường tiến triển thầm lặng, khi có biểu 
hiện triệu chứng lâm sàng thường khối u 
đã có kích thước lớn hoặc đã có suy giảm 
chức năng gan kèm theo. Khoảng 80% 
UTBMTBG xuất hiện trên nền gan xơ do 
đó triệu chứng lâm sàng thường bị lẫn vào 
các triệu chứng của xơ gan. Các kết quả 
nghiên cứu trong nước phản ảnh 1 thực 
tế về công tác khám sàng lọc phát hiện 
sớm UTBMTBG ở nước ta còn nhiều hạn 
chế. Các xét nghiệm cận lâm sàng ở bệnh 
nhân UTBMTBG cũng biến đổi không 
đặc hiệu, và không có ý nghĩa chẩn đoán 
UTBMTBG. Hiện nay, có nhiều phương 
pháp hỗ trợ cho việc chẩn đoán nhưng 
“tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán xác định 
vẫn là mô bệnh học. Tuy nhiên, sinh thiết 
gan là kỹ thuật xâm lấn, có tỉ lệ tai biến 
nhất định, thậm chí có thể gây tử vong cho 
bệnh nhân. Để khắc phục nhược điểm này 
các phương pháp chẩn đoán không xâm lấn 
(non-invasive methods) đã và đang được 
phát triển. Một trong các phương pháp này 
là định lượng các dấu ấn sinh học lưu hành 
trong máu. Phương pháp này dễ sử dụng 
và có thể tiến hành thường xuyên. Trong 
các dấu ấn sinh học, AFP và PIVKA-II là 
hai dấu ấn sinh học được coi là có ý nghĩa 
nhất trong chẩn đoán UTBMTBG. Do đó 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này 
với mục tiêu: khảo sát các triệu chứng 
lâm sàng, cận lâm sàng, và nồng độ AFP, 
PIVKA-II ở bệnh nhân UTBMTBG.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: gồm 
53 bệnh nhân UTBMTBG điều trị tại khoa 
Nội tiêu hóa, Bệnh viện Quân y 103 từ 
tháng 11 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018: 
- Tiêu chuẩn chọn: được chẩn 
đoán xác định UTBMTBG theo AASLD, 
không mắc các bệnh lý cấp tính nguy hiểm 
đến tính mạng, bệnh nhân đồng ý tham gia 
vào nghiên cứu.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
62
- Tiêu chuẩn loại trừ: chưa có chẩn 
đoán xác định UTBMTBG, mắc các bệnh 
lý cấp tính, không đồng ý tham gia vào 
nghiên cứu
2. Phương pháp nghiên cứu: 
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu 
mô tả cắt ngang
- Cỡ mẫu: lấy mẫu thuận tiện
3. Các chỉ tiêu nghiên cứu
+ Các xét nghiệm sinh hóa thường quy.
+ Siêu âm và chụp CLVT
+ Các xét nghiệm miễn dịch AFP, 
PIVKA – II được xét nghiệm bằng phương 
pháp miễn dịch hóa phát quang.
4. Lưu trữ và xử lý số liệu: Số 
liệu được lưu trữ bằng excel và được xử lý 
bằng phần mềm SPSS 20.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Độ tuổi trung bình của nghiên cứu 
là 57.87 ± 11.42 trong đó nhóm tuổi chiếm 
đa số từ 41 đến 70 tuổi. Nam chiếm đa số 
(94,34%)
Bảng 3.1. Đặc điểm về yếu tố nguy cơ
Nguyên nhân Số lượng Tỷ lệ
Virus B 32 60.38
Virus C 3 5.66
Do rượu 12 22.64
Không rõ NN 6 11.32
Tổng 53 100
Nhận xét:Trong khai thác tiền sử, có 66,04% bệnh nhân bị nhiễm virus viêm 
gan, trong đó viêm gan B chiếm 60.38%, viêm gan C chiếm 5.66%, có 22.64% do rượu. 
Không tìm thấy nguyên nhân là 11.32%.
Bảng 3.2. Đặc điểm về triệu chứng lâm sàng của ĐTNC
Triệu chứng lâm sàng Số lượng (n ) Tỷ lệ (%)
Mệt mỏi 39 73.58
Rối loạn tiêu hóa 18 33.96
Đau hạ sườn phải 39 73.58
Vàng da 17 32.08
Gan to 30 56.60
 Nhận xét: Triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất ở bệnh nhân UTBMTBG là đau 
HSP (73.58%), mệt mỏi (73.58%), tiếp theo là gan to (56.60%), các triệu chứng khác ít 
gặp hơn.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
63
Bảng 3.3. Đặc điểm xét nghiệm sinh hóa máu ở ĐTNC
Các chỉ số Số lượng Tỷ lệ
Protein
(g/l)
< 60 2 3.77
X ± SD 77.43 ± 7.49
Albumin
(g/l)
< 30 11 20.75
X ± SD 35.92 ± 5.86
Bilirubin TP
(mg/dl)
> 17 36 67.92
X ± SD 35.11 ± 32.91
Bilirubin TT
(mg/dl)
> 5 38 71.69
X ± SD 14.63 ± 18.06
GOT
(U/l)
> 40 44 83.02
X ± SD 114.88 ± 116.13
GPT
(U/l)
> 40 33 62.26
X ± SD 55.54 ± 36.75
GGT
(U/l)
> 50 48 90.57
X ± SD 361.45 ± 303.79
Nhận xét: Trong các chỉ số sinh hóa, các chỉ số biến đổi nhiều nhất là các chỉ số 
về gan (GOT, GPT, GGT, bilirubin toàn phần, bilirubin trực tiếp). Các chỉ số về Protein 
và albumin ít biến đổi.
Bảng 3.4. Đặc điểm trên siêu âm và CT ở ĐTNC
Đặc điểm Siêu âm CLVT
Vị trí
Gan phải 71.69 69.81
Gan trái 3.77 3.77
Cả hai 24.54 26.42
Số khối
1 khối 60.38 50.94
2 khối 22.64 30.19
≥ 3 khối 16.98 18.87
Số khối theo vị trí
Gan phải 77.53 77.31
Gan trái 22.47 22.68
Tổng số khối 89 97
Nhận xét:ĐTNC thường có khối u tập trung ở bên phải là chủ yếu (SA: 
71.69%), CLVT: 69.81%). Tiếp theo là ở cả hai thùy (SA: 24.54%, CLVT: 26.42%). 
Đa số bệnh nhân có 1 khối u (50.94%). Kết quả khảo sát trên SA và CLVT khác nhau 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
64
trên tất cả mọi thông số.
Bảng 3.5. Nồng độ AFP, PIVKA-II ở ĐTNC
Chỉ số Số lượng Tỷ lệ
AFP
(ng/ml)
< 20 4 7.55
20 - 200 14 26.42
≥ 200 35 66.03
X ± SD 58440.0192 ± 150479.2723
PIVKA-II 
(mAU/ml)
< 40 0 0
40 - 1000 19 35.85
≥ 1000 34 64.15
X ± SD 80075.9664 ± 325456.3521
Nhận xét: Nồng độ AFP và 
PIVKA-II trung bình ĐTNC tăng rất cao 
(AFP: 58440.0192 ± 150479.2723 ng/ml; 
PIVKA-II: 80075.9664 ± 325456.3521 
mAU/ml). Tỷ lệ bệnh nhân tăng AFP và 
PIVKA-II chiếm chủ yếu (AFP: 92.45%; 
PIVKA-II 100%).
BÀN LUẬN
Khoảng 85 – 90 % UTBMTBG 
xuất hiện trên nền xơ gan[2] Nguyên 
nhân chính (80%) của bệnh xơ gan và 
viêm gan mạn tính là do HBV hoặc/
và HCV hoặc nghiện rượu.Ngoài ra 
còn có 1 số nguyên nhân khác ít gặp 
hơn bao gồm gan nhiễm sắt, thiếu hụt 
alpha 1 antitrypsin, viêm gan tự miễn, 
bệnh Wilson. Tùy từng khu vực địa lý 
và các chủng tộc khác nhau, nguyên 
nhân gây ung thư gan có sự khác biệt. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy 
có 66.38% bệnh nhân do viêm gan B, 
22.64% do rượu, 5.66% do viêm gan C, 
còn lại là không rõ nguyên nhân. Kết 
quả này phù hợp với Nghiên cứu của Vũ 
Thị Như Hạnh và Bùi Hữu Hoàng[6]; 
Nghiên cứu của Thái Doãn Kì[5]
UTBMTBG thường tiến triển 
thầm lặng, khi có biểu hiện triệu chứng 
lâm sàng thường khối u đã có kích thước 
lớn hoặc đã có suy giảm chức năng gan 
kèm theo. Khoảng 80% UTBMTBG 
xuất hiện trên nền gan xơ do đó triệu 
chứng lâm sàng thường bị lẫn vào các 
triệu chứng của xơ gan. Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi thấy rằng triệu chứng 
hay gặp nhất là đau HSP (73.58%), 
mệt mỏi (73.58%), tiếp theo là gan to 
(56.60%), các triệu chứng khác ít gặp 
hơn. Các kết quả này cũng tương tự 
như nghiên cứu của Thái Doãn Kì[5], 
nghiên cứu của Vũ Thị Như Hạnh [6]. 
Các kết quả nghiên cứu trong nước 
phản ảnh 1 thực tế về công tác khám 
sàng lọc phát hiện sớm UTBMTBG ở 
nước ta còn nhiều hạn chế.Bùi Diệu 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
65
(2012) khảo sát thực trạng giai đoạn 
bệnh ung thư của 56.625 BN đến khám 
và điều trị tại 5 bệnh viên ung bướu khu 
vực miền Bắc và miền Trung Việt Nam 
, thấy rằng UTBMTBG là loại có giai 
đoạn muộn nhất so với các loại ung thư 
khác (87,7% ở giai đoạn muộn). Bên 
cạnh các triệu chứng xét nghiệm, các 
chỉ số sinh hóa máu cũng không đặc 
hiệu, phụ thuộc vào giai đoạn phát triển 
của ung thư và của bệnh gan trước đó. 
Trong các xét nghiệm sinh hóa máu thì 
chỉ có các chỉ số đánh giá sự hủy hoại 
tế bào gan là thay đổi nhiều, các chỉ số 
khác ít thay đổi, và phụ thuộc vào các 
bệnh lý kết hợp của bệnh nhân.
Các phương pháp chẩn đoán 
hình ảnh đóng 1 vai trò hết sức quan 
trọng trong chẩn đoán theo dõi và đánh 
giá kết quả điều trị cũng như tái phát 
sau điều trị[2]. Trong thực hành lâm 
sàng hiện nay, siêu âm, chụp CLVT là 
các phương pháp được sử dụng rộng 
rãi nhất. Chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu đồng thời kết quả siêu âm cũng 
như chụp CLVT của ĐTNC, kết quả 
cũng khá tương đồng giữa 2 phương 
pháp với u gan chủ yếu tập trung ở gan 
phải, rất ít bệnh nhân chỉ có khối u ở 
gan trái và đa số bệnh nhân có 1 khối u. 
Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cũng tương tự như kết quả nghiên cứu 
của Hoàng Đình Khiếu[1], Mai Hồng 
Bàng[3]. Khi so sánh kết quả của siêu 
âm và CLVT chúng tôi nhận thấy có 
sự không đồng nhất trên tất cả các chỉ 
tiêu khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng, 
chụp CLVT có khả năng phát hiện vị 
trí tổn thương số lượng khối u tốt hơn 
so với siêu âm. Kết quả này phù hợp 
với nghiên cứu của Hoàng Đình Khiếu 
cũng cho kết quả tương tự[1]. Nhiều 
nghiên cứu trên thế giới cũng đã so 
sánh khả năng phát hiện UTBMTBG và 
chụp CLVT cũng đều thừa nhận kết quả 
của 2 phương pháp này gần như nhau, 
nhưng khả năng phát hiện tổn thương 
của chụp CLVT tốt hơn đặc biệt là khả 
năng phát hiện các hình ảnh xâm lấn, di 
căn của khối u[4],[7],[8].
AFP là dấu ấn ung thư được sử 
dụng nhiều nhất để chẩn đoán ung thư 
biểu mô tế bào gan, tuy nhiên tăng hàm 
lượng AFP trong huyết thanh không 
hoàn toàn đặc hiệu cho ung thư biểu 
mô tế bào gan bởi vì AFP còn tăng 
trong nhiều bệnh lý khác. Trong khi đó, 
PIVKA-II là một dạng prothrombin bất 
thường không tương tác với các enzym 
đông máu khác.Năm 1984, Liebman và 
cộng sự lần đầu tiên báo cáo có khoảng 
67% các bệnh nhân HCC có tăng cao 
bất thường hàm lượng PIVKA-II[9]. 
Giá trị bình thường của PIVKA-II 
ở người hoàn toàn khỏe mạnh là < 
40mAU/ml. Ở bệnh nhân UTBMBG, 
PIVKA-II thường tăng rât cao.Trên thế 
giới, đã có nhiều nghiên cứu về nồng 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
66
độ của AFP và PIVKA-II ở bệnh nhân 
UTBMTBG[11],[12].., hầu hết tất cả 
các nghiên cứu đều thấy rằng nồng độ 
AFP và PIVKA-II đều tăng cao ở bệnh 
nhân UTBMTBG. Kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi thấy rằng nồng độ AFP 
và PIVKA-II trung bình ở bệnh nhân 
UTBMTBG tăng rất cao, và tỷ lệ bệnh 
nhân UTBMTBG tăng AFP và PIVKA-
II cũng chiếm đa số (AFP: 92.45%; 
PIVKA-II 100%). Nhưng trong nghiên 
cứu của chúng tôi không lấy được nhóm 
chứng, do đó chúng tôi chưa tính toán 
được độ nhạy độ đặc hiệu, và xác định 
ngưỡng chẩn đoán của AFP và PIVKA-
II đối với UTBMTBG. Đòi hỏi cần phải 
nghiên cứu trên một cỡ mẫu lớn hơn, 
kết hợp với nhóm chứng, để xác định 
độ nhạy, độ đặc hiệu cũng như ngưỡng 
chẩn đoán của AFP và PIVKA-II.
KẾT LUẬN
Chụp CLVT có khả năng phát hiện 
tổn thương tốt hơn so với siêu âm ở bệnh 
nhân UTBMTBG.
Nồng độ AFP, PIVKA-II ở bệnh 
nhân UTBMTBG tăng cao
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Hoàng Đình Khiếu (2007), 
“Nghiên cứu giá trị của chụp cắt lớp 
vi tính xoắn ốc ba thì trong chẩn đoán 
ung thư biểu mô tế bào gan”, Học Viện 
Quân Y.
2. Mai Hồng Bàng (2016), Ung 
thư biểu mô tế bào gan; Các phương 
pháp can thiệp nội mạch, Nhà xuất bản 
Y học.
3. Mai Hồng Bàng, et al. (2006), 
“Đặc điểm siêu âm, siêu âm Doppler 
màu trong chẩn đoán ung thư biểu mô 
tế bào gan”, Tạp chí Y học Việt Nam, 
Tập 129. Số đặc biệt, Tr189-195.
4. Phạm Thành Vận (2006), 
“Nghiên cứu hình ảnh bệnh ung thư 
biểu mô tế bào gan nguyên phát bằng 
chụp cắt lớp vi tính có đối chiếu với kết 
quả siêu âm”, Luận văn tốt nghiệp bác 
sỹ chuyên khoa cấp II, Học viện Quân 
y.
5. Thái Doãn Kì (2015), “Nghiên 
cứu kết quả điều trị ung thư biểu mô tế 
bàn gan bằng phương pháp tắc mạch 
hoá dầu sử dụng hạt vi cầu DC Beads”, 
Luận án tiến sỹ Y học, Viện nghiên cứu 
khoa học Y dược lâm sàng 108.
6. Vũ Thị Hạnh Như, Bùi Hữu 
Hoàng (2011), “Giá trị của các phân loại 
Child-Pugh, Meld, Okuda và Barcelona 
trong đánh giá tiên lượng sống ở bệnh 
nhân ung thư biểu mô tế bào gan”, Y 
học TP. Hồ Chí Minh.
7. Colli A., et al. (2006), 
“Accuracy of ultrasonography, spiral 
CT, magnetic resonance, and alpha-
fetoprotein in diagnosing hepatocellular 
carcinoma: a systematic review”, Am J 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
67
Gastroenterol, 101(3), 513-23.
8. Gaiani S., et al. (2004), 
“Usefulness of contrast-enhanced 
perfusional sonography in the 
assessment of hepatocellular carcinoma 
hypervascular at spiral computed 
tomography”, J Hepatol, 41(3), 421-6.
9. Liebman H. A., et al. (1984), 
“Des-gamma-carboxy (abnormal) 
prothrombin as a serum marker of 
primary hepatocellular carcinoma”, N 
Engl J Med, 310(22), 1427-31.
10. Parkin D. M. (2001), 
“Global cancer statistics in the year 
2000”, Lancet Oncol, 2(9), 533-43.
11. Saitta C., et al. (2017), 
“PIVKA-II is a useful tool for diagnostic 
characterization of ultrasound-detected 
liver nodules in cirrhotic patients”, 
Medicine (Baltimore), 96(26), e7266.
12. Seo S. I., et al. (2015), 
“Diagnostic value of PIVKA-II and 
alpha-fetoprotein in hepatitis B virus-
associated hepatocellular carcinoma”, 
World J Gastroenterol, 21(13), 3928-
35.
13. Nguyễn Bá Đức (2006), 
“Nghiên cứu dịch tễ học, chẩn đoán, 
điều trị, phòng chống một số bệnh ung 
thư ở Việt Nam ( vú, gan, dạ dày, phổi, 
máu)”, Báo cáo tổng kết khoa học kỹ 
thuật đề tài cấp nhà nước.

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_nong_do_afp_pivka.pdf